Chương 25
Lúc Miên mở cánh cửa bước vào buồng đã non trưa.
Như trời xui đất khiến, Bôn ngồi phắt dậy đạp tấm chăn xuống chân giường. Anh
im lặng. Miên cũng im lặng. Chị đặt liễn cháo lên mặt bàn đưa mắt nhìn quanh để
tìm cái bát sạch, không còn cái bát ăn nào trong gian buồng của Bôn, chạn bát lẫn
đống bát đĩa chị đem tới mẹ con Tá đã tha lôi đi hết. Chị bước tới chum đựng gạo
nhìn vào dù biết trước sẽ chẳng sót hạt nào. Một chiếc quần bẩn vắt lòng thòng
trên miệng chum, vài chiếc may-ô lẫn sơ-mi bẩn cuộn thành nùi đặt trên nắp hòm
quần áo của chị. Chiếc hòm được khóa cẩn thận, hẳn nó là vật duy nhất không bị
lục lọi trong gian buồng này. Trên mặt bàn lẫn trên sàn nhà đầy những vỏ khoai
lang khô và cứt chuột. Hai đứa con nhỏ của Tá ngồi chầu hẫu nơi cửa buồng nhìn
chị dù trời đã lạnh chúng vẫn cởi truồng và con cu đen thủi đen thui chấm xuống
nền gạch bẩn. Sau lưng chúng, ngay trên hè một rổ khoai lang rễ luộc ăn dở
dang, vương vãi đầu mẫu lẫn những vụn khoai bị giẫm be bét... Không có gì thay
đổi ở nơi đây, đúng như Miên dự đoán, có điều cảnh tượng còn tồi tệ hơn bởi khi
chị không còn sống với Bôn, sự bần hàn dơ dáy kéo anh xuống với gia đình bà chị.
Miên xuống gian bếp thấy đống bát đĩa đã bị tống vào cái trạn bẩn thỉu của mẹ
con Tá, còn chiếc trạn của chị bị trưng dụng thành chỗ nhét quần áo của lũ trẻ.
Chị lấy một chiếc bát đem rửa rồi mang lên múc cháo cho Bôn:
- Anh ăn đi.
Bôn không nói gì, lẳng lặng đón bát cháo từ tay
chị xúc ăn. Cháo rất nóng vì chị ủ liễn cháo trong tấm khăn bông, hơi nghi
ngút. Mồ hôi Bôn rịn trên trán, nơi hai thái dương. Miên kéo tấm khăn phơi trên
dây đưa cho anh:
- Anh lau mặt đi, ra mồ hôi như thế rất tốt.
Bôn lau mặt. Chị nhìn những ngón tay khô xác run
rẩy của anh và nghĩ tới mảnh đất xã chia cho anh đang còn rậm rì cỏ mọc:
... Làm sao Bôn kiếm nổi miếng cơm với những ngón
tay đó?... Ðất đầy sỏi và cỏ tranh, không nước tưới và không tiền mua phân
bón... Chị đã từng vỡ đất trồng tiêu và trong vài năm đầu sống với Hoan họ cũng
từng làm cỏ tưới nương như tất cả mọi người, chị biết rằng phải có sức khỏe mới
vượt được giai đoạn khởi đầu gian nan ấy. Nghề trồng tiêu và cà-phê cũng từa tựa
như buôn lớn, không hòng kiếm lãi ngay, vốn càng trường càng thắng đậm. Làm sao
Bôn bước nổi vào chiếu của các ông chủ trại?...
Không tiền, không kinh nghiệm, vốn tối thiểu là sức
khỏe cũng không. Giờ đây, anh còn suy kiệt hơn cả những ông già sáu mươi trong
Xóm Núi. Dạo chị mới quay về sống với Bôn, đang còn tràn đầy hy vọng và lòng
hăng hái anh đã hai lần ra vỡ đất, lần nào anh cũng cảm nằm bệt cả tuần. Hồi
đó, anh vẫn thường bảo chị:
- Thôi, mình đàng chờ cho tôi lại sức... Dù sao cũng
phải có thời gian, chúng ta còn trẻ và rồi đây...
Và rồi đây... Ấy là câu cửa miệng của Bôn và mỗi
lần lặp lại câu nói ấy, mắt long lanh như lửa rọi. Ngọn lửa đó đã tắt rụi chẳng
còn mảy may tia khói từ lúc người hộ lý trong phòng hộ sinh chỉ cho Bôn thấy
cái thai nhi không đầu. Khi bà ta xách xô đi, Bôn đã túm lấy chân chị, hai bàn
tay anh lạnh như nước đá cặp mắt vô hồn và môi anh mấp máy ngọng nghịu như kẻ tật
nguyền:
- Miên... Miên... Con đâu?... Con đâu âu...?
Lúc đó chị không trả lời anh. Chị mệt mỏi sau cơn
sinh nở. Chị cũng thấy hụt hẫng. Nhưng cùng với sự hụt hẫng còn có cả sự thanh
thản và nơi đáy sâu con tim chị một niềm vui tăm tối mà chị không dám thú nhận
ngay với chính mình.
... Tội nghiệp cho Bôn. Ta chẳng muốn thế nhưng cũng
không thể nào khác...
Bôn ăn xong đặt bát xuống giường mà không nhìn chị.
Miên đem bát đi rửa rồi mang trở lại chiếc bát sạch đặt lên mặt bàn:
- Em để sẵn cho anh ăn bữa chiều.
Anh lắng nghe nhưng không trả lời đưa mắt thẫn thờ
nhìn khuôn cửa. Trời không nắng. Gió đu mấy ngọn xoan xơ xác ngoài vườn. Trên
sân hai đứa cháu tồng ngồng của anh đang chúi đầu chơi đáo. Miên thấy anh cứ
nhìn mãi vào đám xoan, bèn đứng lên:
- Em về đây.
Lúc đó Bôn giật nẩy mình và đôi mắt thẫn thờ của
anh chợt nhớn nhác nhìn chị:
- Miên đi đâu?
Chị đáp:
- Em về nhà em.
Trên gương mặt xa vắng của Bôn chợt thoáng qua một
nét nhăn đau đớn, dường như anh vừa bị nghiến một ngón tay hoặc bị xé rách một
thớ thịt:
- Miên về nhà...
Bôn lặp lại, không trả lời và cũng không để hỏi.
Ðơn thuần chỉ là một câu lặp, một hồi âm, như tiếng dội khi ta cất tiếng kêu giữa
một thung lũng bốn bề là vách đá. Miên nhìn anh và hồi nhớ tuổi trẻ của mình, hồi
nhớ những ngày cùng lũ con gái trong xóm đi kiếm củi, họ thi nhau hét vào hang
nghe xem tiếng vọng của ai âm vang hơn, ngân dài hơn. Rồi họ đứng bên này suối,
xem đứa nào ném trúng bụi sơn trà. Rồi họ cùng nhau hái sim mùa sim chín, dải đồi
nhấp nhô, nhấp nhô, tiếng cười lanh lảnh từ đồi này vọng sang đồi khác, mùi
trái chín và những cặp môi nhỏ nhuộm màu sim... Không hiểu vì sao tiếng nói vô
hồn của Bôn bỗng gọi về đầy ắp âm thanh và màu sắc thời con gái, những hồi nhớ
đó khiến tim chị xót xa, và chị không còn muốn chấp nê sự câm lặng lạnh lùng của
Bôn. Chị ngồi xuống ghế, kéo ghế gần lại trước anh và
nói:
- Anh Bôn, hãy theo em về đằng kia.
- Không.
- Ðằng kia là nhà của em, của riêng em. Anh Hoan
đang cất nhà trên khu Suối Nhỏ.
- Tôi ở nhà của tôi.
- Anh với em tình đã cạn, duyên đã hết. Chúng ta
không thể là vợ chồng. Nhưng dẫu sao, cũng đã từng chia sẻ gối chăn. Một ngày
nên nghĩa. Em không yêu anh nhưng em có thể chăm sóc anh như anh ruột mình.
- Không.
- Anh không thể sống ở đây. Chị Tá không giúp anh
được. Sức khỏe của anh bây giờ còn tệ hơn hồi anh mới về. Anh Xá tốt thật nhưng
còn cả một đàn con.
- Miên mặc tôi.
- Anh cứ nghĩ kĩ đi...
Chị nói tiếp một cách nhẫn nại:
- Anh cứ nghĩ kĩ đi. Chúng ta dù không có con sống
nhưng cũng có chung con chết... Em vẫn còn nặng nghĩa với anh...
Nói xong, Miên đứng lên ngay, ra về. Chị không muốn
ngồi lại thêm bởi sợ phải nhìn thấy Bôn khóc. Chị không muốn, không bao giờ muốn
nhìn thấy nước mắt trên gương mặt một người đàn ông. Và chị nhớ lại cái đêm bất
thần mở mắt, thấy anh ngồi chầu hẩu dưới chân giường, nước mắt tuôn như suối. Cảnh
tượng đó não nề sao và nó có cái gì đó khiến cho chị vừa đau đớn vừa nhục nhã.
Chị rảo bước khỏi căn ngõ, hai thái dương nóng bừng bừng trái tim chị cũng cháy
như lửa bừng bừng nửa xót xa nửa vui sướng:
... Không, không... ta không thể nào yêu Bôn được.
Ta trở về mái nhà của ta là đúng. Giống như kẻ đã đến cửa địa phủ lại tìm được
lối về cõi nhân gian... Nhưng ta sẽ cam lòng nuôi Bôn, như nuôi một người anh
em bị tật nguyền, cam lòng gánh anh ấy cho tới ngày mãn kiếp...
Hôm sau, Miên quay lại gian buồng của Bôn từ sáng
sớm. Chị lại đem cho anh liễn cháo với mấy tấm bánh nếp. Bôn rất thích ăn bánh
nếp nhân mặn. Họ không nói chuyện gì bởi Miên phải vội trở về trông con. Người
quản gia lên công trường ngay sau bữa ăn sáng còn dì Huyên theo mấy bà trong
Xóm Núi xuống phố huyện:
- Anh gắng ăn cho hết mọi thứ. Mai em sẽ nhờ người
xuống phố mua thuốc.
Anh không trả lời đưa mắt nhìn chị với cái nhìn
âu sầu nửa như hờn dỗi nửa như chấp thuận.
Hôm sau nữa Miên bới cơm và thức ăn mặn đem cho
anh. Chị ngồi chờ anh ăn xong bữa để thu dọn bát đĩa đem về. Liễn đựng cháo hôm
qua lũ cháu Bôn đã mang ra sân thả cá con, chiếc thìa bị bẻ cong lên làm xẻng
đào đất. Bôn ngượng ngùng nói:
- Tôi ốm nằm đây, không bảo được lũ trẻ.
Miên lặng im. Chờ anh ăn xong, chị nói:
- Hiện giờ em còn có thể mang cơm cho anh. Nhưng
ít bữa nữa em sẽ phải coi sóc nương vườn vì ông già Lư hàng ngày lên công trường
theo đám thợ.
Bôn im lặng. Miên nói tiếp:
- Nếu anh có gia đình thân quyến ăn nên làm ra
như người khác đã đi một nhẽ. Nhưng hiện tình anh không thể bấu víu vào ai...
Anh hãy nghĩ kĩ điều em nói.
Anh không trả lời. Họ cùng ngồi im lặng như thế hồi
lâu, cùng đưa mắt nhìn ra sân vì không còn gì để nhìn trong gian buồng tăm tối
đó. Ánh sáng trắng đục của một rạng đông không mặt trời tràn ngập không gian. Mảnh
sân vắng con mèo láng giềng sang cào kẽ gạch tìm bắt dế. Mấy đứa con Tá đã rủ
nhau đi chơi đâu không rõ để lại mấy mẫu khoai luộc lăn lóc trên chiếc đĩa nhôm
đầu hè. Chỉ mấy ngọn xoan ngoài vườn là nhúc nhích trong khung cảnh ơ hờ buồn tẻ
ấy. Những ngọn xoan đong đưa trong gió, đong đưa kiếp sống lắt lay của chúng
trên đám thân cành khẳng khiu, trong khu vườn cằn lụi đến mức chỉ còn trơ những
gân đất, cỏ cũng không buồn mọc. Gian nhà của Bôn không có tiếng động nào ngoài
tiếng thạch sùng tắc lưỡi và thi thoảng, một con chuột rúc rích trong xó, sau
chum đựng gạo, hẳn để kiếm một cách tuyệt vọng vài hột gạo rơi. Miên lắng nghe
những tiếng động đó, lần đầu tiên chị chú ý tới chúng:
... Vậy mà ta đã sống ở đây bao nhiêu ngày tháng.
Chẳng ngờ được. Giờ quay lại nhìn cứ ngỡ chuyện của ai...
Miên thầm nghĩ và chị tự hỏi chị làm cách nào để
nuốt trôi thời gian trong gian buồng này, với người đàn ông ngồi trên chiếc giường
cách chị nửa sải tay đang đưa cặp mắt trống rỗng nhìn những ngọn xoan đong đưa
trong gió. Ðôi mắt anh giờ này âm thầm quá. Nhìn vào chúng tựa nhìn vào những
ngôi mả hoang nơi người sống không còn lai vãng. Anh nghĩ gì vào lúc này hoặc
chẳng nghĩ gì hết?... Chị thầm hỏi và không tìm được câu trả lời. Chị đành ngồi
lặng lẽ chờ anh lên tiếng trước. Thời gian cứ thế trôi. Rồi có tiếng lao xao của
đám người nào vẳng tới. Lát sau, gió đổi chiều đưa mùi khói bếp, lẫn mùi khói bếp
là mùi tỏi phi mỡ thơm phức. Bất chợt Bôn cất tiếng bâng quơ:
- Nhà ai xào rau muống nhỉ?... Ðiếc mũi...
Miên hỏi:
- Anh thích rau muống xào à?
Bôn gật đầu:
- Món tủ của tôi đấy. Hồi trước mỗi bận bị điều
xuống làm bếp tôi với cậu Cảnh vẫn đi lùng tỏi xào rau muống. Tiểu đội trưởng
thích nhất món ấy mà các thủ trởng lớn trên quân đoàn xuống đơn vị chơi cũng
đòi ăn món ấy.
Dứt lời, anh chợt mỉm cười với ai đó trên ngọn
xoan và cặp mắt vô hồn của anh thoáng qua ánh ngày. Miên chờ Bôn dứt cơn trầm
ngâm, lên tiếng:
- Em cũng thích ăn rau muống xào tỏi. Nhưng rau
bí non hoặc rau cải ngồng xào tỏi còn ngon hơn...
Bôn gật đầu:
- Ờ... ờ...
Miên nói tiếp:
- Anh định hôm nào lại đằng kia?
- Tôi... tôi chưa biết... Tùy Miên...
- Hôm nay trời không nắng, gió cũng êm... Chỉ e
anh chưa chịu nổi...
- Chẳng sao. Tôi cũng dứt cơn sốt mấy hôm nay rồi.
- Ðể em đi thu xếp quần áo cho anh.
- Ờ, cứ mặc tôi...
Bôn ậm ừ, đưa mắt luống cuống nhìn chị. Nhưng
Miên đã quay đi tức khắc. Chị đến góc buồng nơi chiếc ba-lô của Bôn nằm bẹp dí
dưới đống đồ lặt vặt. Kéo chiếc ba-lô lên, Miên đập bụi xếp quần áo của Bôn và
bỗng dưng một giọt lệ trào ra, qua gò má lăn xuống khóe môi chị vừa ấm vừa mặn:
... Gia tài của Bôn đây, sau mười bốn năm rời
làng xa xóm... Ngoại trừ bánh xà-phòng anh ấy đưa cho ta, phần còn lại đúng là
chiếc bị ăn mày...
Chương 26
Ngày lại tháng qua, mọi sự kiện đưa đẩy theo dòng
đời, vài ba sự kiện lưu lại lềnh bềnh như đám bèo trên mặt sóng còn đa phần cuốn
trôi cùng làn nước. Ngày nào đó Xóm Núi râm ran tiếng pháo mừng khánh thành trường
tiểu học, xe lớn xe nhỏ đậu ngổn ngang nơi bãi Ðồi, quan huyện quan tỉnh kéo về
nườm nượp để chứng kiến phút cắt băng lụa đỏ, dân chúng mừng rỡ cuống cuồng
nháo nhác từ trẻ đến già, đám học sinh trong xã được phát nào cặp mới, mũ mới,
sách vở mới đi đi lại lại xốn xang, trống cà-rùng gõ đinh tai nhức óc... cái
không khí hội hè lạ lùng tựa không khí trong chuyện thần thoại tưởng sẽ mãi mãi
không phai nhạt... ngày đó đã qua, đã qua khá lâu, và dòng đời cô tịch lại trở
về ngự trị miền sơn dã.
Ðã qua những đêm Thu tạnh ráo sao đầy trời, gạo nếp
rang nở bung trong chảo, chuyện vãn của đám dân quê nở bung quanh các ấm trà,
các bát điếu, những ngọn đèn thắp lên những đóa lửa hồng điểm tô cho bóng tối
mênh mông nỗi an bình dịu ngọt. Cũng đã qua những đêm Ðông gió giật, nương vườn
trở nên thâm u, bóng người đi lại trên các nẻo đường đong đưa cây đèn bão trông
leo lắt chập chờn như lũ ma tội đồ đi rắc lửa địa ngục, lẫn cùng gió thi thoảng
một con hoẵng kêu sương vọng về, nghe như tiếng của lạc loài của đơn côi của những
nhục nhằn câm lặng. Bất chợt một sáng những mầm cỏ trắng li ti nở ra giữa các
búi cỏ xám già và tiếng vỗ cánh của chim non trên ngọn cây lay động một góc cỏn
con của bầu trời, chợt vỡ òa một màu lơ trong suốt như pha-lê, lấp lánh bọt nước
và từ khoảng rạn vỡ của khung trời đó, một biển lơ xanh thắm tuôn tràn.
Dân Xóm Núi đổ ra nương vườn, điểm tụ bạ không
còn là các câu lạc bộ gia đình mà là các bóng cây hoặc những lán tranh tạm trú,
nơi họ ngừng tay uống nước hoặc ăn bữa cơm trưa. Sau bữa trưa từng đám người nằm
duỗi dài trên cỏ khô, rơm khô hoặc các tấm cót rộng. Lũ trai trẻ có thể chợp mắt
làm một giấc ngủ ngắn gọn nhưng ngon lành còn những người lớn tuổi thường chỉ nằm
cho giãn xương lưng. Trong khoảng thời gian đó, các câu chuyện lại cất lên ròn
rã và không bao giờ ngưng lặng nếu họ chưa dựng nên được một pháp đình và ai đó
chưa được đóng vai trò của pháp quan, ít nhất một lần, trong cuộc đời bình lặng
và buồn nản của họ...
Bây giờ, nhân vật thường được bênh vực lại là
Hoan, chủ trại Suối Nhỏ, ân nhân chung thân của dân toàn xã:
- Suy đi tính lại chẳng ai thiệt như tay Hoan.
Dinh cơ của mình bỗng dưng thằng khác tới ở, phải bỏ tiền xây nhà mới. Vợ con
mình bỗng dưng phân cách, sáng nào cũng phải phóng xe vượt mấy cây số tới đón,
lặn mặt trời lại phải vượt mấy cây số đèo về... Rõ ràng không phải trời đầy mà
người đầy. Kiểu tù này là tù không án.
- Ờ, cũng lạ cho họ. Tại sao cô Miên không dọn về
ở hẳn trại Suối Nhỏ với anh ta?
- Như thế, cậu Bôn còn danh nghĩa gì để trụ lại dưới
mái nhà của cô ấy?
- Danh nghĩa có đem ra gặm được đâu?... Sự thật sờ
sờ trước mắt là cậu ta quanh quẩn suốt ngày với ông cụ Lư. Hai thằng đực rựa ăn
cơm với nhau cả trưa lẫn chiều... Họa hoằn buổi sáng cô Miên mới ngồi cùng mâm
vài phút.
- Nhưng người ta vẫn cần danh nghĩa. Ví như bà
Huyên, sang trại Suối Nhỏ ở với tay Hoan từ lâu nhưng vẫn khóa trái ba gian nhà
lại, ai hỏi mua cũng không bán. Ðó là đất lui chân. Như cậu Bôn vậy, đất lui
chân của cậu ta là danh nghĩa vợ chồng với cô Miên.
- Cò súng của nó hỏng từ lâu, còn chó gì mà vợ với
chồng.
- Con cu cậu ta không ngỏng lên được nhưng cái cổ
cậu ta vẫn cần ngỏng lên. Phải có lý do để ngửa mặt nhìn thiên hạ chứ...
- Vẽ sự... Ðứa trẻ lên năm cũng biết cô Miên nuôi
báo cô cậu ấy. Nghĩ cũng nhục... Tôi mà lâm cảnh ấy tôi chết mẹ nó đi cho rồi.
- Vậy ông thử chết xem sao?... Chết chẳng dễ đâu.
Chưa tới ngày tận số muốn chết trời không buông áo cho đi đất cũng không mở cửa
cho đến.
- Ông rủa tôi đấy hả?...
- Tôi không rủa nhưng đã nói chuyện phải nói cho
cạn lẽ.
- Thôi thôi... Các ông thừa sức hay sao mà gây sự?...
Dễ hồ họ thuê tiền mướn bạc để các ông cãi nhau?...
- Chẳng ai thuê nhưng thấy điều ngang tai chướng
mắt vẫn ngứa lưỡi.
- Lưỡi ai cũng ngứa nhưng ở đời đâu dễ nhìn ra lẽ
công bằng? Giờ tay Hoan thế mạnh như chẻ tre trong làng ngoài thôn không mấy ai
không đến cậy nhờ, bênh anh ta cũng giống khen phò mã tốt áo... Có điều chỉ ai
ăn nhạt mới biết thương mèo, rơi vào cảnh bần hàn mới biết sao là cùng khốn.
- A... Ông định ám chỉ tôi là kẻ dửng dưng không
đủ lòng tương thân bác ái chăng?... Vậy ngày cậu Bôn về làng không con trai tôi
dẫn bọn trai tráng tới lợp mái trát tường cho cậu ta thì ai? Lúc đó đâu thấy mặt
bố con ông?...
- Này các ông, sao bỗng dưng cãi cọ như trẻ
ranh... Ðầu hai thứ tóc mà còn háo thắng...
- Tôi chẳng háo thắng, nhưng tôi muốn chỉ ra đâu
là cái tổ con chuồn chuồn...
- Thôi đi ông ơi, nói cách gì cũng phải công nhận
tay Hoan là người quảng đại. Thiếu đâu kẻ giàu, càng giàu càng ăn bẩn... càng
giàu càng đểu càng riết nghiệt.
- Ông nghĩ đúng. Nhưng tôi phải thêm rằng anh ta
là người quá nhiều may mắn... Các ông nhớ hồi anh ta cưới cô Miên không? Lúc đó
họ đâu sẵn của nả như bây giờ, hai vợ chồng cũng trần lưng ra làm như lũ chúng
ta đây chồng một nón mê vợ một nón mê cặm cụi suốt ngày trên nương rẫy. Nhưng
trời phù cho họ, ngón tay họ đụng đến đâu đất nảy vàng nén bạc thoi tới đó. Số
người may mắn như thế chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn lại đa phần là bọn
làng ngàng như lũ chúng ta đây hoặc những kẻ bất hạnh, thua thiệt.
- Ðúng đấy... Ở đời biết ngửa mặt trông lên song
cũng cần biết cúi mặt nhìn xuống. Không phải cứ ăn kẹo uống trà của nhà giàu rồi
chỉ biết khen trà nhà giàu thơm ngon mà chẳng thèm nếm nước vối của đám cùng
đinh...
- Ông lại máy móc rồi... Ông đứng ở bụi duối nào
rình tôi thế?
- Cả đời tôi chưa đứng bụi duối rình ai. Tôi đi
trên đường thênh thênh thấy ông ôm lưng chủ tịch xã cưỡi xe vào nhà tay Hoan.
Sao dám nói tôi rình?
- Ðúng, không riêng tôi mà cả đống người trong
Xóm Núi đã trèo lên sân thượng nhà tay Hoan uống trà. Nhưng không phải vì mấy
chén trà mà tôi ca tụng anh ta. Ðời ông, liệu ông có dám bỏ tòa ngang dãy dọc
do chính tay ông làm ra đi để thằng đàn ông khác tới ở hay không?... Hơn nữa đó
lại chính là kẻ đã từng trèo lên bụng vợ mình?...
- Ðời mỗi người mỗi cảnh chẳng ai ví được với ai.
Bắt chúng ta sống như tay Hoan chẳng được mà bảo cậu Bôn phải đứng lên tự lo liệu
tay làm hàm nhai như chúng ta đây hẳn cậu ta cũng chịu. Chính tôi đã cùng cậu
ta lên nương vỡ đất. Chưa được một buổi nó đã lăn quay. Tôi phải bồng vào bóng
mát, vã nước lạnh cho tỉnh rồi gọi người võng về... Sinh ra đời ai chẳng muốn bằng
chị bằng em nhưng lộc trời vãi không đều may mắn chia không khắp, ta chẳng nên
riết nghiệt với ai...
- Các ông nghe đây này: Tôi chẳng có con có cháu
nên tôi là kẻ duy nhất không chịu ơn tay Hoan. Tôi cũng chẳng phải họ hàng nhà
Tá vậy tôi đứng giữa chẳng thiên vị bên nào. Tình cảnh cậu Bôn đáng thương thật
nhưng hàng trăm kẻ khác ở vào cảnh đó sẽ phải ra đường hoặc vào trại tế bần.
Như thế, trong số những kẻ bất hạnh cậu ta là người trúng độc đắc. Còn tay
Hoan, dù ăn một núi lộc trời, vẫn là trang quân tử đời hiếm thấy. Cứ cho xứ Việt
Nam mình có một ngàn người rơi vào cảnh oái oăm như thế, tôi không dám chắc có
tới người thứ hai cư xử như anh ta...
Những câu lạc bộ ngoài trời của Xóm Núi cứ thế hoạt
động khiến chuỗi ngày bận rộn trở nên thơ mộng hơn và công việc bớt đi đôi chút
nhọc nhằn. Vài tuần lễ qua rất nhanh, dường như không ai kịp nhận biết. Bất đồ
một sáng tiếng kèn mơ hồ từ cánh rừng nào vọng tới. Trong những sóng âm xa vời
man dại người ta tưởng nghe tiếng kêu của bầy nai đang soi mình trên suối, tiếng
kin kít nặng nề của lũ đại bàng đất, tiếng gõ móng lóc cóc của sơn dương và những
cặp hươu đa tình, tiếng thở hồng hộc của những con lợn lòi độc địa thường đi
trên lối vắng vừa đi vừa dũi bật các gốc cây với nỗi buồn miên hành sự hung dữ
trường cửu và khoái lạc tàn phá. Người ta rời khỏi mái nhà, chui từ những vườn
tiêu, vườn cà-phê ra bãi trống hoặc đỉnh đồi nhìn về giải Trường Sơn.
Trong khung trời mênh mông họ mơ tưởng các lối
mòn, giải cát ven suối, những bầy công múa trên vạt cỏ, lũ bướm hoang quay cuồng
quanh lèn đá xám nơi thi thoảng vươn lên những bông hoa dại màu nhung đỏ và vọt
ra những tia nước trong suốt tựa pha lê. Nỗi nhớ rừng mang mang lan tỏa cùng tiếng
kèn mơ hồ kia. Một sáng nào đó cơn mưa bụi là là từ chân trời phía Ðông bay tới,
là là bay từng đám bụi nước như sương trắng như tơ trời. Mùi ẩm ướt của hơi nước
đọng trên da thịt khiến máu chảy rần rật trong huyết mạch những tay thợ săn, những
chàng trai mới lớn và cả những người đã bước tới ngưỡng cửa tuổi già nhưng nỗi
nhớ rừng và khao khát mùa săn chưa thôi cháy. Trưởng phường chưa ra lệnh nhưng
khắp xóm các tay săn đã lôi súng ra lau, kiểm tra đạn và sửa soạn đồ lề khác.
Vào lúc chiều nhạt nắng trên sân nhà trưởng phường họ tụ họp, uống trà. Bà chủ
đem ra một rổ bánh mật nóng hôi hổi, lá gói còn bỏng rảy. Ðám thợ săn vừa bóc
bánh ăn vừa thổi phù phù. Hết bánh họ uống trà hút thuốc và chuyện bắt đầu ròn
như pháo nổ. Sự kiện trọng đại nhất là việc vắng mặt Xá chột. Anh ta đã hạ gấu
ngựa năm trước nữa, lại hạ con lợn độc mùa săn vừa rồi, đầy hứa hẹn để trở
thành trưởng phường tương lai vì dù sao người đang nhiệm chức cũng đã ngót
nghét sáu mươi.
- Tôi tiếc cho cậu ta thật... Cậu ta xứng đáng
hơn tất cả các cậu để giữ vai trò này. Tôi dù sao cũng đã mỏi gối chồn chân.
Ông trưởng phường lên giọng trước tiên, giống như
lời nhắc nhở. Nếu Xá chột không thay thế vị trí của ông, ắt hẳn một ai đó phải
cố gắng để làm chức phận ấy một chức phận không ít vinh hạnh nhưng cũng không dễ
dàng gánh vác. Thường trong mỗi phường có dăm ba tay súng cứng xấp xỉ nhau và sự
ganh đua giữa họ là thứ men kích thích cho mùa săn thêm sôi động. Những kinh
nghiệm thu lượm được sau mỗi mùa, sự đánh giá ngầm ẩn nhưng sắt sói từng đường
đi nước bước của kẻ cầm trịch, và các phẩm chất rèn tập lên bậc thủ lĩnh, ấy là
tất thảy những gì các ứng cử viên nung nấu thèm muốn. Họ thường phải nung nấu sự
thèm muốn đó trong nhiều năm, gắng gỏi trong nhiều năm, và cầu mong sự may mắn
trong nhiều năm mới có cơ hội được bước lên ghế trưởng phường. Riêng với Xá chột,
dường như mọi sự đều xảy ra ngược lại. Cái gã chột đó chưa kịp thèm muốn người
ta nói xưng xưng ra cửa miệng rằng chức trưởng phường nay mai sẽ lọt vào tay gã
không đối thủ, gã chưa kịp rèn tập tư cách thủ lĩnh người ta đã trầm trồ rằng
gã sinh ra để làm thủ lĩnh nghề săn bắn, gã chưa kịp để tâm đến kinh nghiệm nghề
nghiệp mọi người kể cả vị trưởng phường đương chức khả kính cũng phải công nhận
rằng gã đầy thiên năng dường như mười kiếp trước gã đã luôn luôn là tộc trưởng
một bộ lạc sống bằng săn bắn... Và tất cả những ưu thế đó chẳng phải do những
năm chinh chiến đem lại cho gã bởi trong phường săn có tới ngót hai chục tay
súng cựu chiến binh nhưng hoàn toàn bởi một thứ may mắn bẩm sinh đặc biệt người
ta vẫn gọi là trời cho... Vậy mà Xá chột lại từ bỏ cái vinh quang trong tầm
tay, từ bỏ niềm vui sảng khoái nhất, hào hùng nhất trong cuộc sống của gã... Và
đó là điều đám thợ săn không mường tượng nổi cho dù sự vắng mặt của Xá đã đem lại
niềm vui sướng và cơ hội cạnh tranh cho ít nhất năm tay súng, năm ứng cử viên hạng
ruồi này đang thầm lén chuẩn bị và chờ đợi cuộc ganh tài trong mùa săn tới:
- Tôi tiếc thật nhưng dù sao cũng là chuyện đã rồi,
không ai chọn được con đường đi cho kẻ khác...
Ông trưởng phường tiếp tục khi chẳng thấy tay
súng nào lên tiếng:
- Giờ đến lượt các cậu ganh sức trổ tài. Hoa có lứa
đàn bà có thì đàn ông có tuổi, tài giỏi đến mấy vào lúc tuổi già cũng thành kẻ
bại trận. Tôi không muốn cầm cờ cho đến tận ngày ngã ngựa đâu. Các cậu hãy lo
liệu mau mau...
Tới đấy ông ngừng lời và tất cả các ứng cử viên
cùng các tay súng khác đều im lặng. Như vậy, lời tuyên bố đã được chính thức
nêu lên và cuộc cạnh tranh được chính thức khởi động. Xá đã đứng ở giải bờ bên
kia, hoặc nói cách khác ở lại mảnh đất sau lưng họ. Giờ, họ có thể bàn đến anh
như nói tới một láng giềng:
- Vợ Xá nằm ổ được một tuần lễ chưa nhỉ?
- Hơn rồi chứ... Ðể tôi nhẩm xem... mười một...
A, mười hai ngày rồi.
- Tội nghiệp anh chàng, chắc giờ đang lo méo mặt.
- Mày nói gì thế? Có méo cái con đầu b... nó...
Nó đang sướng nhảy cẫng lên thì có.
- Tao đếch tin. Thời buổi này hai ba con nuôi đã
mệt, giờ nó lại lòi ra đứa thứ bốn... Rồi là chết với chính quyền xã.
- Thằng này ù ù cạc cạc lại thích bình phẩm... Chết
làm sao được? Nó tuyệt đối chấp hành chính sách sinh đẻ có kế hoạch, đưa vợ tới
trạm xá ngày đầu tiên trong chương trình đặt vòng phòng tránh thai. Vậy thì
không chủ tịch với bí thư nào dám hoạnh họe. Còn chuyện vài tháng sau vòng rơi
ra và cô Soan có chửa là do trời xui đất khiến, bố ai hiểu nổi chuyện gì xảy ra
trong cái nơi thăm thẳm hỏm hòm hom ấy? Bữa mới đón vợ từ trạm xá về, nó quạc mồm
oang oang trêu vợ: Thế nào cô mình đã thấy con cu của anh đây oanh liệt hay chưa?
Nó húc bắn vòng của chính phủ ra chui vào tận tổ con chuồn chuồn... Thế là bỗng
dưng vợ chồng mình có tứ tử trình làng, oai nhất Xóm Núi nhé. Ðiểm mặt xem, dê
xồm như cụ Phiều quanh năm tẩm bổ cao dê với hột dái dê cũng chỉ đẻ được ba mống
con trai, còn lại cả tiểu đội thị mẹt. Vậy mà cò súng anh đây nổ liền bốn phát
bốn thằng cu...
- Ð... mẹ cái thằng bố láo...
Cả đám phường săn phá lên cười. Ngớt cơn cười,
người ta hút thuốc uống trà râm ran đủ thứ chuyện vặt rồi lát sau một người lên
tiếng:
- Này, cái thằng cha Xá chột biến đằng nào không
thấy? Lẽ ra cũng phải biện cái lễ tạ từ để bọn ta cùng nâng chén lên hạ chén xuống
chớ? Làm thằng đàn ông dù hầu vợ hầu con cũng phải có lúc bỏ đi đàn đúm với
chúng với bạn, không lẽ suốt ngày úp mặt ngửi hơi cái lò ướt ấy hay sao?
Cả bọn lại cười khành khạch, và người láng giềng
của Xá chột cao giọng:
- Cái ông này nói tục bỏ mẹ... Làm như tất tật
đàn ông trong thiên hạ đều thích ngửi con ba ba như ông. Xá chột không còn ở
làng... Nó chỉ chạy đi chạy lại trông vợ còn công việc chính bây giờ là bán cửa
hàng sắt và nguyên vật liệu xây dựng dưới thành phố.
- Ai thuê nó vậy?
- Không ai thuê. Nó giờ là ông chủ. Chủ cũ là chị
họ của Xá, gái quá lứa lỡ thì. Những năm trước Xá chột thường qua lại trông nom
cửa nhà giúp, hoặc khi thuê thợ sửa nhà chữa điện, hoặc coi sổ sách đỡ đần. Nó
học hết cấp ba ngần ấy năm đi lính chữ chưa rơi vãi hết, vả lại nó vốn sáng dạ
nên bà chị cũng nhờ vả được nhiều. Bất đồ năm ngoái bà ta vào Sài gòn vớ được
ông tình nhân, một lão Tài già hơn bà ta đến hai chục tuổi nhưng còn bảnh bao.
Lão này giàu sụ, có tới năm cửa hàng ở Sài gòn và lục tỉnh. Ba đứa con gái đã lấy
chồng ở hết bên Tây còn mụ vợ già chết cũng ngót nghét mười lăm năm, vớ được
người nhan sắc lão mừng hơn bắt được vàng, đòi tổ chức cưới liền. Cưới xong bà
ta thu xếp vào Sài gòn ở hẳn với lão.
Vậy là bỗng dưng Xá chột được hưởng không căn nhà
hai tầng với cửa hàng dưới thành phố.
- Người ta nói đúng thật: Số giàu đem đến dửng
dưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
Khi chưa tới vận đỏ có làm thót hai hột cà cũng
chỉ đủ miếng bỏ vào mồm. Khi đến vận đến thời của nả từ trên trời tự dưng rơi
trúng cổ.
- Trời cũng chỉ một phần thôi chớ?... Cái chính
Xá chột là người tốt bụng, hẳn nó đỡ đần cái bà chị độc thân kia rất nhiều nên
tới khi giàu sang người ta mới trả quả.
- Ðúng. Cứ xem nó giúp cậu Bôn thì rõ. Người dưng
nó còn tốt được đến thế huống hồ có dây máu huyết?... Giọt máu đào hơn ao nước
lã...
- Nghe đâu cửa hàng khá lớn, phải thuê người coi sóc.
Cái chỗ ấy là của cậu Bôn nếu cậu ta sáng suốt khỏe mạnh. Nhưng vì Bôn đã lẩn
thẩn nên Xá mời Bình kều. Tay này chỉ nặng tình với bạn, còn anh em con chú con
bác có cả đống trong làng nó chẳng thèm để mắt tới ai, không phải như ông nói:
Giọt máu đào hơn ao nước lã đâu...
- Thế thì nó dại.
- Biết thế nào là dại với khôn?... Cái ông cho là
khôn thằng khác lại nghĩ là dại và ngược lại.
- Thôi đừng lý sự quèn... Dạo này cậu Bôn lẩn thẩn
rồi ư? Tôi nghĩ là cậu ta khá hơn hẳn thời kì trước. Quanh năm suốt tháng ở
nhà, mưa không tới mặt nắng chẳng tới đầu ăn uống thuốc thang tẩm bổ đều trông
cậu ta vâm vạp lắm.
- Thân sướng đã chắc gì tâm nhàn. Con người ta cũng
như cái máy lâu không chạy thì han rỉ.
- Tôi lại nghĩ con người ta như cái ống, có đầu
vào phải có đầu ra... Ðầu ra của cậu ta bị nút chặt rồi.
- Thằng cha này lại tán bậy... Cậu ta có còn ngó
ngoáy được đâu mà tính đầu ra với đầu vào?
- Ai biết được tổ chuồn chuồn ở chỗ nào?... Nó
còn trẻ thế, lại no cơm ấm cật sao khỏi có lúc dậm dật?... Khốn nỗi cửa buồng
cô Miên lúc nào cũng đóng chặt. Thêm nữa ba gian nhà giữa có một ông đứng lù lù
canh gác, đố mon men được tới gấu quần vợ.
- Vợ hờ thôi... Cô ta có còn yêu nó nữa đâu. Cô
ta sống với tay Hoan bụng chửa to bằng cái trống cà-rình cả làng nhìn rõ mười mươi,
ai dám hồ nghi... Nhưng cô ấy vẫn nuôi cậu ta như nuôi một ông bố già. Như thế
đã là tốt lắm, người đời khó theo được.
- Cậu ta tàng tàng từ hồi nào nhỉ?... Trước gặp
nó thấy ăn nói vui vẻ hoạt bát lắm.
- Nó tàng từ hồi vợ đẻ ra quái thai. Nghe họ nói
cái thai đó là con trai đủ hai tay hai chân lẫn buồi dái nhưng không có đầu. Cổ
nó rất to rất dài trên dính cái màng tròn như bọng đái lợn bên trong có đám
gium trắng bò ngoằn ngoèo lẫn tia máu.
- Sao biết được?
- Bà chị dâu họ tôi bên xã Vinh Quang nằm viện với
cô Miên một ngày. Ông chồng nghe đám y tá xì xào về cái quái thai nên lúc hộ lý
xách đi chôn ông ấy chạy theo vạch xô ra xem.
- Lạ nhỉ?... Xưa nay chỉ nghe quái thai thiếu hoặc
thừa ngón chân ngón tay, hoặc sứt môi sứt mũi... Chưa nghe ai nói quái thai cụt
đầu.
- Nghe như vậy thì chưa hẳn cụt đầu, nhưng không
có xương sọ và mặt. Tôi cho rằng cái đám giun trắng bò ngoằn ngoèo chính là óc.
Các ông ăn óc lợn có thấy hình dạng nó từa tựa như vậy không?
- Thôi đừng nói nữa nghe ghê tai bỏ mẹ... Này, lũ
trẻ nhà tôi đi lùa dê nói rằng hồi này cậu Bôn thường luẩn quẩn trên bãi tha
ma, có đúng không?
- Ðúng đấy, có lúc nó thủ theo con dao rựa. Bữa
tôi đi ngang qua cậu ta chào hỏi tử tế còn rút thuốc mời.
- Ông thấy thế nào?
- Tôi đang vội nên chỉ ngồi với cậu ta được tàn
điếu thuốc, thấy khẩu khí vẫn đàng hoàng tỉnh táo. Duy có điều đôi lúc đang nói
cậu ta lại mỉm cười với ai đó, tuồng như cười với cái kẻ cậu ta đang tơ tưởng rồi
sau đấy cậu ta lại tiếp tục nói chuyện như thường.
- Nó đem theo dao rựa làm gì nhỉ?
- Có lẽ cậu ta định chặt gai tầm ma hoặc cây dứa
dại.
- Nhà nó có làm nghề phù thủy đâu mà chặt gai tầm
ma với dứa dại?... Khéo nó đào mồ đào mả của chúng ta thì nguy.
- Ðừng lo. Mấy ngôi mả nhà ông xây cả rồi chứ?
- Rồi.
- Vậy làm sao cậu ta đào được gạch xây xi-măng bằng
con dao cùn như vậy?... Muốn thế nó phải có xà-beng. Dân Xóm Núi dù giàu dù
nghèo đều đã xây mộ. Duy chỉ còn gia đình cậu Bôn và ngoài ra là ba ngôi mồ vô
chủ từ nhiều đời nay đã lún gần hết, chỉ còn núm cỏ lùm lùm trên mặt đất. Không
lẽ Bôn lại tự tay đào mồ cha mẹ mình... Các ông cứ yên trí, dù ngây ngây chứ
điên thật cũng chẳng đứa con nào đào mả bố mẹ mình.
- Ðã mất trí thì còn hay biết gì nữa?...
- Bôn chưa phải người mất trí. Chỉ vì đau mất con
nên cậu ta hóa ngơ ngẩn. Phần trí não nào của cậu ta bị mất thì linh hồn tiên tổ
và cha mẹ cậu ta sẽ dẫn dắt. Tôi tin như vậy.
- Tội nghiệp... Hồi nhỏ, cậu ta học giỏi lắm, vẫn
thường giúp thằng út nhà tôi làm bài...
Chuyện tới đó ông trưởng phường xách ra sân hai
cây đèn bão vì trời đã nhọ mặt người. Ðặt hai cây đèn lên kệ xong xuôi, ông
quay xuống bếp dõng dạc cất tiếng:
- Thế nào, đã xong mẻ bánh mới chưa?... Xong rồi
đem lên đây cho anh em.
Có tiếng dạ ran của đám đàn bà bao gồm cả vợ cả
con gái cả con dâu của ông rồi không đầy phút sau hai cô con gái ông khiêng lên
một thúng bánh bốc khói nghi ngút, nước từ thúng bánh nhỏ xuống sân thành một
đường ngoằn ngoèo. Ông già quát:
- Chúng bay làm ăn thế hả?... Sao không lấy cái
chậu hứng bên dưới?
Hai cô con gái mặt đỏ bừng hơi lửa chưa kịp chống
chế bà vợ ông đã nói vóng từ bếp lên:
- Chậu đâu... có chậu đây... Rồi bà tong tả xách
chiếc thau đồng lớn đem lên, đặt ngay ngắn giữa sân để hai cô con hạ thúng
bánh. Xong xuôi, ba mẹ con lại thụt xuống bếp, mảnh đất an toàn và vui thú nhất
của họ. Vị gia trưởng lúc đó hài lòng tiếp tục nói:
- Này anh em, ăn bánh uống trà đi. Năm nay hơi hướng
đất trời xem ra êm thuận, tôi đang xem giờ để chúng ta xuất phát. Chút nữa
quên... Tôi báo một tin vui, phường săn chúng ta năm nay tuy thiếu cậu Xá nhưng
lại có thêm hai tay súng mới: chủ tịch xã và anh Hoan, chủ trại Suối Nhỏ. Hai
người cùng tới đây xin nhập hội một lần.
- Chủ tịch xã chiều nào chẳng uống trà trên sân
thượng nhà tay Hoan. Thế nên họ xin nhập hội một lần cũng là lẽ thường. Phải
nói gã nhà giàu này khéo ăn khéo ở thật.
Và thế là đám phường săn lại quay về những nhân vật
chính của cặp vợ chồng tay ba giống như trò chơi đổi chỗ, người chồng thứ nhất,
người chồng thứ hai và người đàn bà quyến rũ bùa phép cả hai gã đàn ông.
Xóm Núi nhỏ bé quá. Trong thế giới nhỏ bé và tù đọng
ấy, niềm vui thoáng qua mau như ánh hồi quang như hơi gió thoảng, nỗi âu sầu quẩn
quanh như thứ khí độc hại và mê say của bùa ngải, như thuốc phiện làm mê đắm và
tê bại hồn người, bởi trong mỗi tâm hồn yếu ớt lẻ loi man dại đó đều chứa mầm mống
bệnh hoạn một thứ thèm khát ngầm ẩn không thú nhận những bi kịch ghê gớm những
giông bão đường đột dù rằng cùng với nỗi thèm khát đó, sự sợ hãi thường trực
đeo đuổi như kẻ đồng hành...
Chương 27
Từ ngày về làng Bôn không nhìn dải Trường Sơn,
nghĩ sẽ chẳng bao giờ còn quay lại nơi đó. Màu xanh điệp trùng ẩn chứa bao kinh
hoàng. Như kẻ từ địa ngục quay về không dám ngoái nhìn con sông không bờ không
đáy phân chia nhân gian với cõi u tỳ anh không muốn nhìn lại dải rừng già con
quái vật vô song con ma cà-rồng thiên hình vạn trạng đã hút cạn máu đã hút kiệt
nguồn sinh lực và tuổi trẻ của anh. Anh muốn nó vĩnh viễn là mồ chôn quá khứ. Tất
cả những gì liên quan tới nó khiến anh hãi hùng. Vì thế khi đám cựu chiến binh
trong làng rủ anh gia nhập phường săn anh từ chối phắt. Vì thế mỗi khi mùa săn
lảng bảng tới tiếng kèn đâu đó vọng về da thịt anh lại sởn gai ốc. Trong tiếng
kèn u uột đó anh nghe trập trùng tiếng kêu của lũ chim ăn xác tiếng thì thào của
các bóng ma tiếng rít của bầy rắn đêm tiếng thở than não nề của gió trong hang
sâu vực thẳm, anh lại nhìn thấy những đám cây quằn quại sôi nhựa xèo xèo trong
lửa na-pan những khúc chân tay bị quăng ném những cái sọ vỡ toang óc trắng nhầy
như cháo nếp... Tất cả những gì đã trải nếm là quá sức đối với tâm hồn và thể
xác Bôn. Ðôi lúc anh hình dung mình đã bước vào dải núi xanh rì kia là một
chàng trai trẻ và ra khỏi nó dưới bộ dạng của xác con cua lột, chẳng còn gì bên
trong lớp vỏ xác xơ. Bôn thù ghét rừng già, vừa thù ghét vừa khiếp đảm. Nó quá
lớn mạnh quá thiêng liêng quá bất trắc quá tàn bạo đối với anh. Anh thèm muốn
biển khơi và bất cứ lúc nào rảnh rỗi anh cũng quay về hướng Ðông nơi mặt trời mọc
nơi có biển có sóng có nghề chài lưới có những đám trai da rám nâu bắp tay bắp
chân cuồn cuộn ngửi hít khí trời giông bão nổi ầm ầm như sóng và chắc chắn ngủ
với đàn bà không mỏi mệt:
... Nếu ta sinh ra trong một làng chài, ta sẽ trở
thành...
Giấc mơ cỏn con và muộn màng vẫn thường lặp đi lặp
lại.
Vậy mà mùa săn năm nay tiếng kèn xa xôi khởi đầu
từ chân trời nào đó vọng tới đã khuấy động tâm hồn thiu thiu ngủ của Bôn. Thoạt
tiên, nó là tiếng nức nở tuổi thơ anh âm vang trở lại. Tiếng nức nở nào?... Anh
không biết. Có thể là trận đòn oan uổng do lũ trẻ láng giềng mách bố mẹ anh hồi
anh bé tí ti, có thể là tiếng khóc sau linh cữu khi họ theo nhau về chầu tiên tổ,
có thể là lời nỉ non hồn tủi vào khoảnh khắc chông chênh khắc nghiệt khi tuổi
niên thiếu chưa qua và tuổi thanh xuân sắp đến anh chợt nhận ra sự thua thiệt
ghê gớm khi phải độc hành bước vào tương lai không một chút gia sản trong tay
không cha nâng mẹ đỡ... Tiếng nức nở nào... anh không nhớ rõ nhưng chúng khiến
tim anh thắt nghẹn:
... Mẹ ơi, cha ơi... Tại sao sinh con ra rồi bỏ
con trơ trọi lại cõi đời... Giá như...
Giá như, giá như... Anh mường tượng cha mẹ anh khỏe
khoắn và giàu sang. Khi anh làm đám cưới cũng như lúc anh trở về họ sẽ dựng rạp
lớn rạp nhỏ mổ bò mổ lợn giết dê mời làng xóm ăn mừng. Vợ chồng anh sẽ sống
trong ngôi nhà khang trang cao rộng như những đứa con cụ Phiều, ông Hơn, bà
Giá... Và rồi họ sẽ nuôi anh tiếp tục học đại học, theo đuổi giấc mơ thời trai
trẻ bị đứt đoạn bởi chiến tranh trong lúc Miên ở nhà coi sóc nương vườn và đẻ
cho anh những đứa con kháu khỉnh. Giá như những nương tiêu của cha mẹ anh đã
xanh rờn, những nương cà-phê đã chín đỏ lúc anh quay về hẳn anh sẽ không phải
cuốc đồi vỡ nương tới ngất xỉu, sẽ không phải sống nhờ đồng tiền của Miên và
không phải cưu mang gia đình người chị bần hàn vô sỉ... Giá như giấc mơ đó là sự
thật, tình thế sẽ khác đi... Giá như, nhưng anh biết chữ giá như đó không có.
Cha mẹ anh hiền lành nhưng vô năng. Họ cần mẫn kiếm miếng cơm như lũ kiến kiếm
mồi và tất thảy mọi ước mộng dồn trút lên vai anh từ khi anh bé tí... “Làm rạng
danh tổ tông, làm dòng tộc nở mày nở mặt với thiên hạ.”... Chao ôi giấc mộng lớn
lao. Khủng khiếp. Họ đã ăn sắn và ăn ngô dành cho anh cơm trắng, họ ăn mắm tôm
vằm ớt sả để xẻ vào bát anh con cá suối bé tẻo teo hoặc miếng thịt lợn vào ngày
giỗ tết. Tình yêu của họ giằng trói anh. Tuổi thiếu niên anh đã gánh lệch vai
giấc mơ khổng lồ kia cái ước nguyện khổng lồ thiêu đốt trái tim trong trắng như
than đỏ trong lò, anh đã lệch vai gánh củi đốt than kiếm tiền đèn sách, anh đã
học đến kiệt hơi như thằng rồ ngoài việc cắm mặt xuống trang sách không còn tơ
tưởng đến bất cứ trò chơi nào thú vui nào khác... Và cánh cửa tương lai đã mở
ra với anh. Vào buổi sáng anh xuống thành phố thi học sinh giỏi toàn diện của tỉnh,
thầy giáo chủ nhiệm lẫn thầy hiệu trưởng đều đưa tiễn anh, đều nở nụ cười lạc
quan và nụ cười đó, trên gương mặt hom hem với hàm răng ám vàng khói thuốc của
họ giống như mảnh bùa hộ mạng dán vào trán anh suốt cuộc chiến tranh đinh ninh
rằng khi ra khỏi cuộc chiến này ném đi tấm áo lính ám mùi khói súng anh sẽ mặc
lại chiếc sơ-mi trắng để bước vào cửa trường đại học, tuy có chút muộn màng về
tuổi tác nhưng vẫn dư thừa niềm tin và sinh lực...
Mười bốn năm trôi qua, trở lại Xóm Núi sinh lực
chẳng còn nhưng niềm tin của anh vẫn đầy ắp. Có lẽ cha mẹ anh giàu mơ mộng và sự
kế thừa cái tài sản phù du đó đem cho anh những thời khắc tột cùng sung sướng,
bay bổng tột cùng trong cõi phù vân. Thay vì ước mộng bước vào trường đại học
anh mơ tưởng sẽ trở thành chủ trang trại với người đàn bà anh yêu, anh mơ ngày
anh giàu có đủ tiền xây mồ cho cha mẹ, đủ tiền làm một chuyến du lịch khắp đất
nước thăm những gia đình bạn hữu, đồng đội, người còn cũng như kẻ mất trước hết
là bà cô tiểu đội trưởng. Mơ mộng và mộng mơ... Không có chúng làm sao mà sống
được?... Nhưng có chúng người ta cũng chẳng thể sống bình an. Vào buổi sáng
Hoan bước vào căn buồng tồi tàn của anh, anh biết mọi sự đã hết. Cái người đàn
ông cao lớn da trắng môi đỏ mái tóc đổ xuống trán mềm và bóng như tóc đàn bà đó
đã khiến anh đứng sững giữa sân, nghẹt thở. Chính hắn, chính anh ta, chủ sở hữu
chiếc quần thun màu xám sọc đỏ. Trong giây lát, mắt mũi anh tối sầm, toàn thân
anh run bắn, và mồ hôi bắt đầu toát dọc sống lưng. Phải, chính người đàn ông
đó. Anh ta giống cái gì đó đã từng quen thuộc và từng làm anh khiếp sợ?...
Không phải một người bằng xương bằng thịt, nhưng là một thứ thật khủng khiếp,
mơ hồ, vĩ đại, bí ẩn, đầy quyền năng... Sau cơn choáng váng dài, rất dài tưởng
như không bao giờ chấm dứt, Bôn đã lấy lại được hơi thở và anh hiểu người đàn
ông cao lớn đường bệ có vẻ quyến rũ dịu dàng đó là ai: Anh ta là dải Trường Sơn
thứ hai, một thực tế toàn năng, một ông trời tàn bạo dưới dáng vẻ ôn hòa, kẻ sẽ
thế chân dải rừng già khắc nghiệt kia phá hủy nốt phần đời còn lại của anh, con
ma cà-rồng sẽ hút cạn tới giọt cuối cùng hy vọng và niềm vui sống còn rơi sót.
Thế là hết.
Những ngày sau đó trôi qua ra sao, anh không nhớ.
Miên đi rồi gian phòng của anh chỉ còn là mái lều hoang, nơi lũ con Tá cùng đám
gián chuột tha hồ kiểm soát, nơi thấp thoáng bóng ma xưa thăm hỏi khi là tiểu đội
trưởng khi là cha mẹ anh hoặc một vài đồng đội cũ người nào cũng vội vàng người
nào cũng câm lặng nhìn anh với cái nhìn xanh xao vàng vọt người nào cũng giơ
lên những đốt xương tay vẫy chào anh khi đứng ở ngưỡng cửa buồng. Bao lần anh gọi
họ, chẳng ai đáp lời, kể cả tiểu đội trưởng. Vì sao, anh không rõ, đồ chừng các
bóng ma không thể cất lời ở những nơi nhiều dương khí. Lũ con Tá và đám trẻ
láng giềng khiến họ câm nín và chắc hẳn anh phải ra bãi tha ma hoặc đồi hoang nếu
muốn cùng họ chuyện trò. Nhưng anh ốm, không thể cất lưng khỏi giường, anh nằm
ngày này qua ngày khác thi thoảng ăn bát cháo do cô Soan hoặc lũ con Xá chột
đem tới, ăn vài củ khoai luộc do Tá mang vào. Những ngày ấy khung trời ngoài cửa
bị chôn vùi trong mây khói. Anh không thấy màu trời, không thấy các đám mây
không thấy cả những ngọn soan xác xơ vẫn thường đong đưa nỗi cô đơn sầu muộn.
Anh chỉ hồi nhớ cánh cửa đã một lần hé mở trước mắt anh, cánh cửa tương lai.
Anh nhớ cậu thiếu niên hăm hở xuống thành phố, nhận phần thưởng cuộc thi cả
gương mặt lẫn hai mang tai nóng ran máu chạy rần rật như kiến bò, anh nhớ tiếng
cười xưa cũ... Tất cả ở trên một chuyến tàu chuyến tàu đó chạy đã xa bỏ lại anh
trên sân ga hoang phế.
... Ta là kẻ lỡ tàu, chuyến tàu đó không bao giờ
quay lại. Sân ga chỉ còn cỏ lẫn lá khô, không hành khách đợi tàu, không cả dấu
vết con tàu cũ... Phải, ta đã nhầm, con tàu cuộc đời chỉ chạy một ca, đã rời ga
không còn trở lại...
Anh đã mang quá nhiều ước vọng và niềm tin, thứ
ánh sáng nổi trôi trên dòng nước, càng đuổi bắt chúng càng tuột khỏi tay. Mười
bốn năm chiến tranh. Cánh cửa nào đóng trong mười bốn năm cũng rỉ sét không còn
cơ mở được.
... Ta là kẻ lỡ tàu. Kẻ trắng tay không còn cơ để
tự lừa dối bản thân thêm một lần nữa...
Ðó là lần đầu tiên anh tự thú nhận rằng anh đã tự
lừa, tự huyễn mình suốt thời gian qua. Vào lúc anh bấu chặt tay cánh tay người
nữ hộ sinh gào lên:
- Con tôi đâu? Cô giấu nó ở đâu? Cô đánh tráo nó
cho ai rồi?
Trái tim anh đầy tràn phẫn nộ và ráo rốt khao
khát. Anh nóng lòng nhìn thấy đứa con trai, hy vọng duy nhất cây cầu duy nhất nối
anh với tương lai, anh đinh ninh rằng người ta đã đánh tráo nó cho kẻ nào đó
khát đứa con thừa tự người ta đã sắp đặt những âm mưu để lừa dối anh một gã đàn
ông hiền lành miền sơn dã. Nhưng người nữ hộ sinh to lớn có gương mặt vuông đã
quay lại nhìn anh với cặp mắt lạnh như nước đá. Cái nhìn đó rọi thẳng vào mắt
anh, uy nghiêm. Rồi hất mái đầu lờm xờm một cách giận dữ, cô ta cất tiếng:
- Anh nói bậy bạ gì thế?
Bôn không đáp, chỉ lập lại câu hỏi:
- Con tôi đâu? Cho tôi xem....
Cô ta gằn giọng:
- Có thật anh muốn xem không?
- Có.
Bôn gào lên tức khắc. Người hộ sinh nắm lấy cánh
tay anh kéo xềnh xệch vào phòng trong, căn phòng trắng toát như tấm khăn tang
và rồi ở đó, cô ta kéo chiếc xô loảng xoảng trên nền gạch lát, mở chiếc nắp xô
cũng với cử chỉ dữ dằn như vậy:
- Ðó. Con anh đó. Cúi xuống mà xem.
Anh cúi xuống. Cái đó. Cái vật đó. Cái thai đó.
Con anh. Tất cả những gì còn lại trong tương lai và cho tương lai của anh...
Anh không dám tin. Một khúc thịt đỏ bầm nằm giữa đám máu lầy nhầy, hai tay và
hai chân co lại. Một bộ não hiện lờ mờ dưới tấm màng, như bộ óc người ngâm
trong lọ phoóc-môn phòng thí nghiệm trường cấp ba tỉnh. Cái cổ bào thai phình
to, giống như quả da ếch. Và không còn gì nữa. Trời ơi, anh đã tơ tưởng bao
nhiêu ngày, thầm ước mắt nó giống anh, còn sống mũi làn da khuôn miệng và thân
hình giống Miên bởi anh biết anh chỉ có một thứ khả dĩ là đôi mắt. Anh đã đợi
chờ phút nó mở mắt để soi mắt anh vào mắt nó để nó hướng về anh cái nhìn trong
trẻo bởi ánh sáng trong đôi mắt nó là tất cả nguồn sáng chiếu rọi tương lai
anh, bù trả anh khung trời đã mất. Nó là sức mạnh của anh, là lý do để anh tồn
tại. Ðôi mắt đó không có. Không có cả gương mặt của Miên, sống mũi và khóe môi
của Miên. Không gì hết.
... Tại sao con người không chết đi khi họ chẳng
còn gì để sống?
Anh đã tự hỏi anh bao nhiêu lần. Bấy nhiêu lần
anh ra lệnh:
... Mình phải chết. Cần phải chết. Càng nhanh
càng tốt. Một sợi dây thôi. Xà ngang đủ chắc chắn để thực hiện điều đó...
Và sau bấy nhiêu lần anh vẫn nằm dán lưng trên
giường, khi Soan đem cháo tới anh ngồi lên lau mặt bằng tấm khăn bông lâu chưa
giặt ăn bát cháo nóng do người đàn bà hồn hậu kia nấu rồi lại tiếp tục lau mồ
hôi bằng tấm khăn bông, vừa lau vừa lơ mơ cảm thấy một cơn khoan khoái nhẹ
nhàng nâng đỡ tâm hồn cùng thể xác.
... Mình yếu đuối quá. Mình nhát nhúa quá... Có lẽ
vì cha mẹ đã ngăn cản, hoặc vì chưa đến số và trời phật chưa cho phép lìa bỏ
cõi trần... Mẹ ơi, sao mà nhớ mẹ...
Anh nghĩ. Sau ý nghĩ đó anh ngủ thiếp đi.
Một sợi dây mong manh lung linh nối liền cuộc sống
của anh với cõi xa mù, nơi đó có bóng dáng một người đàn bà. Mẹ anh, Miên, người
đàn bà Lào câm điếc hay những cô thanh niên xung phong những thôn nữ anh gặp
trong những cuộc gặp gỡ chóng vánh hối hả ven lề chiến tranh? Bôn không biết.
Nhưng anh biết đó là đàn bà. Anh ngửi thấy mùi đàn bà. Anh cảm thấy từ trường của
họ mùi mồ hôi mùi da thịt mùi tóc và hơi nóng thần bí toát ra từ thân thể họ. Sợi
dây mong manh đó giằng trói anh.
Buổi sáng Miên quay lại đem cho anh liễn cháo gà
nóng hổi anh đã nhìn chị như nhìn một người đàn bà mới lạ, vừa là người đã từng
cùng anh chăn gối vừa như ai đó vừa bước tới từ một cõi đất khác chân trời
khác. Buồn và tủi, vui sướng lẫn hững hờ, anh xúc cháo ăn không hiểu vì sao vị
cháo ngon lành đến thế và gương mặt chị không còn khiến anh say đắm hãi hùng.
Gương mặt đó đã ở ngoài khung trời của anh.
... Miên và chẳng còn là Miên...
Ý nghĩ đó được lặp lại, một cách mạch lạc hơn và
thanh thản hơn. Mùi cháo thơm nức khiến anh bị lôi cuốn. Khi những giọt mồ hôi
lớn toát ra đầy mặt, đầy cổ anh đặt bát cháo xuống rút khăn lau. Càng lau, anh
càng thấy dễ chịu. Thân xác anh nhẹ bổng như mây, và tâm hồn anh bình lặng. Ngọn
triều đã rút. Và bãi cát phẳng lì phơi trong nắng ấm.
Ngày thứ ba Miên tới, chị bảo anh hãy về cùng với
chị. Bôn ư hử nhưng trong thâm tâm, một tiếng đáp tức khắc bật lên: Sao không?
Miên và chẳng còn là Miên ngày xưa. Nhưng một người đàn bà. Miền yên ấm. Giải
cát phẳng lặng ven biển khi thủy triều đã lùi xa...
Anh thầm nghĩ và mường tượng giải bờ cát anh đã
thấy hồi trai trẻ. Cái sợi dây mong manh lung linh kia nối anh với một người
đàn bà, anh chỉ nhìn thấy tấm lưng mà không rõ mặt. Tấm lưng thon nhỏ với cái
hông đong đưa mỗi bước chân... Miên, mẹ anh, người đàn bà Lào câm điếc, các cô
gái dọc đường hành quân? Người đàn bà có thể mang bất cứ gương mặt nào bởi vì mặt
họ ẩn giấu trong sương mù anh chỉ nhìn rõ eo lưng, cặp mông dày và cong, cái
hông đong đưa theo nhịp bước.
Khi ngọn gió thổi tới mùi thơm của tỏi xào rau muống
anh bỗng nhớ mẹ xống xang gan ruột. Anh xách ba-lô quần áo theo Miên, đúng hơn
là theo sau cái người đàn bà vô tên tuổi đã níu giữ anh với trần thế bởi một sợi
dây lung linh huyền ảo. Anh không để ý ánh mắt tò mò của làng xóm cũng không để
ý tới bất cứ ai anh gặp trên đường, anh chào hỏi họ nhưng tâm hồn anh chìm đắm
giữa sương mù kỉ niệm. Mùi rau muống xào tỏi đem lại cho anh nỗi êm dịu khôn
cùng. Vừa đi anh vừa mỉm cười:
... Mẹ biết không, bao nhiêu lần con đã được tiểu
đội trưởng khen vì xào rau muống với tỏi ngon tuyệt... Ấy là nhờ món ăn tủ của
mẹ. Hình như trước kia không phải bà ngoại mà là một người bạn lấy chồng dưới
phố đã dạy mẹ cách xào rau?
Mẹ mỉm cười. Bà không trả lời nhưng lại vạch áo
cho anh thấy bầu vú trái có một nốt ruồi lớn bằng nửa hạt gạo. Hồi nhỏ anh vẫn
thích mân mê cái nốt ruồi đó... Anh đưa tay rờ vú mẹ và thấy tuổi thơ ấu tái hồi.
... Mẹ ơi, con nhớ mẹ...
Anh kêu to. Mẹ vuốt tóc anh rồi bay đi, bay như một
đám khói bốc lên từ miệng nồi cơm vừa bắc trên bếp than xuống. Anh đã sống dưới
mái nhà của Miên, như người khách, như người thân, như người bạn cũ:
... Ờ, có sao đâu? Chúng ta đã từng yêu nhau từng
là vợ chồng và giờ đây là bạn. Như thời tiết luân chuyển, tàn hạ sang thu. Căn
nhà này đặt trong từ trường của Miên, của người đàn bà, người thân thiết...
Anh dần quen cuộc sống mới. Ăn cơm sáng với ông
Lư, ăn cơm trưa với ông Lư, ăn cơm tối với ông Lư. Khoảng sau bữa cơm tối, có
tiếng xe máy ngoài cổng, và Miên dắt con trai vào. Chị vừa bước lên thềm vừa cất
tiếng:
- Hôm nay ở nhà mọi người ăn gì thế?
Khi là ông Lư và khi là anh đáp lời:
- Chúng tôi ăn canh dưa nấu cá với lạc rang.
Hoặc:
- Chúng tôi ăn trứng tráng với rau luộc.
Hoặc:
- Hôm nay chúng tôi bắt con gà nấu cháo.
Miên rút trong làn khi vài trái cây mua từ thành
phố, khi phong bánh mới hoặc gói kẹo đặt lên bàn:
- Bác Lư cất đi để hai người uống trà.
Sau thủ tục đó chị đem con xuống nhà tắm rửa ráy,
thay quần áo cho cả hai mẹ con rồi vào buồng riêng. Bao giờ chị cũng xách theo
cái bô tráng men để không phải rời khỏi buồng ban đêm. Sau đó chị gài chốt cửa
và khóa lại. Bôn nghe rất rõ tiếng chốt cửa sau đó tiếng khóa xoay trong ổ. Những
tiếng động đó đâm nhói vào tim anh, nhưng vì nỗi đau đớn nào, anh không muốn hiểu
và không muốn nhớ. Sáng hôm sau, Bôn chưa thức giấc Hoan đã tới đón mẹ con
Miên. Thường khi anh rời khỏi giường cũng là lúc tiếng động cơ từ ngoài cổng nhỏ
dần rồi tắt hẳn.
... Miên đi rồi. Nhọ mặt người cô ấy mới quay lại...
Anh thầm nghĩ rồi xuống bếp uống trà với người quản
gia. Và ông Lư tức khắc bắt chuyện, lúc nào ông già gầy như hạc này cũng có
chuyện để nói, cặp mắt già nua dường như không bao giờ mỏi mệt và đôi tai dường
như không bỏ sót một tiếng động nhỏ nhoi nào. Bôn nghĩ rằng ông ta biết tất cả
những gì anh nghĩ nhưng với vẻ câm lặng ôn nhu ông tỏ ra trìu mến với anh.
Chính ông đã sắc thuốc cho anh uống, những thang thuốc Miên nhờ người cắt dưới
thành phố. Chính ông hỏi và nấu những món ăn anh ưa thích. Cũng chính ông bày
cho anh cách ngâm chân vào nước muối nóng trước khi đi ngủ cách xoa bóp lưng lẫn
hai đùi khi vừa thức giấc. Trong ngôi nhà thênh thang lẫn vườn tược thênh thang
ấy, mối gắn bó giữa hai người đàn ông côi đơn cũng dễ nảy sinh. Khỏe dần lên,
Bôn theo ông lên coi sóc các nương tiêu nương cà-phê, một ngày ông chợt hỏi:
- Ông có còn giữ ý định làm nương riêng nữa
không?
Bôn lúng búng không trả lời được. Khu đồi xã phân
cho anh bỏ hoang lâu giờ đã cho một cặp vợ chồng trẻ khai phá tuy danh nghĩa chỉ
là cho mượn. Cặp vợ chồng này đang tuổi trẻ bẻ gẫy sừng trâu lại đang cơn khát
khao tát cạn biển Ðông nên họ làm ngày làm đêm và giờ đây những cây tiêu đã leo
cao già non một thước. Tuy chẳng có văn bản, luật lệ nhưng dù muốn Bôn cũng
không thể đòi lại đất, mảnh đất đang sắp sửa hái ra tiền nhờ tưới đẫm mồ hôi kẻ
khác. Thấy anh lúng búng ông Lư nói tiếp:
- Tôi thấy bà Miên đối với ông rất tốt.
Biết người quản gia dò ý, anh đáp:
- Tôi rõ điều đó.
Ông cụ gật đầu:
- Ông là người đã từng luân lạc, chắc hiểu sự đời.
Chẳng có nơi nào là cõi tiên dành cho đám người trần mắt thịt như chúng ta nhưng
cũng có nơi đất lành nơi đất dữ. Chim đã mỏi cánh rồi gặp đất lành thì đậu lại.
- Tôi biết.
Bôn lặp lại câu trả lời cũ và hiểu rằng người quản
gia đã nói lên ý nguyện của Hoan và Miên, họ sẵn lòng nuôi anh cho tới mãn đời
trong vai trò người anh hoặc người bạn hoặc người quản gia thứ hai cùng ông Lư
chăm sóc vườn tược, nhà cửa một khi anh đã hoàn toàn bình phục và muốn làm việc
để tránh sự buồn chán trong cảnh ăn không ngồi rồi. Anh sẽ được chấp nhận dưới
mái nhà này tới lúc chết nếu anh giữ đúng bản hợp đồng ấy.
... Người chồng ngày xưa và người bạn ngày nay.
Ta sẽ ăn cơm nơi Miên từng nấu cơm, ta sẽ sống dưới cùng mái nhà với Miên nhưng
ở đầu này hồi nhìn sang đầu hồi bên kia như kẻ đứng bên này nhìn sang bờ sông
bên kia và giữa hai bờ không phải dòng nước trôi mà là dầu cháy... Nhưng có
sao, đời đẩy đưa đến cảnh trớ trêu này. Ta đã theo Miên về đây không phải như
người chồng theo vợ mà là kẻ mồ côi đi tới nhà bảo trợ, như kẻ bị bỏ rơi tìm tới
miền đất ấm...
- Ngày hôm nay trời đẹp thật.
Bôn bỗng thốt lên dù anh chẳng hề đưa mắt nhìn trời
mà đang đăm đăm nhìn chùm cà-phê non nơi kẽ lá. Người quản gia chớp mắt rồi
đáp:
- Dạ. Trời đẹp thật. Thời tiết thuận, mùa này hẳn
bội thu.
Họ không nói gì thêm.
Từ ngày họ nói chuyện đó tới hôm nay bao nhiêu tuần
trăng trôi qua. Bôn ngỡ rằng anh đã hoàn toàn thích ứng với cảnh sống mới nhưng
chợt một đêm nào đó cơ thể anh nổi loạn. Anh không ngủ được. Những đợt sóng u
cuồng râm ran nổi lên trong da thịt trong máu huyết. Những đợt sóng không thể
làm an dịu. Không gì làm nguôi dịu. Chúng cuộn lên, cuộn lên dập dồn dập dồn
khiến anh như tắc thở, chúng tràn qua tim anh nhận chìm nó dưới những xung đột
hối hả không ngưng nghỉ, chúng vọt lên óc não anh đập tan mọi ý nghĩ, che phủ mọi
hình ảnh và chỉ còn lại duy nhất cái hình ảnh trần tục và dâm đãng của những
con đàn bà cởi truồng, những con vật giống cái lang thang trong rừng anh từng bắt
gặp. Hình ảnh dâm đãng ấy mỗi lúc mỗi nở phồng lên, như được chiếu vào tấm
gương phóng đại, nó choán hết tâm trí anh không cho anh lối thoát lui. Anh bóp
chặt hai thái dương nóng rực, anh nằm úp mặt xuống chiếu cố tình dùng sức mạnh
trấn áp cơn ham muốn, anh nghiến chặt hai hàm răng để khỏi bật ra tiếng rên rỉ.
Tất cả đều vô hiệu. Những đợt sóng u cuồng chuyển sắc, từ màu đỏ sang màu đỏ bầm
của máu đọng rồi màu tím dữ dằn của ráng mây chiều giông gió. Trong huyết mạch
anh không còn máu mà chỉ còn những dòng chì nung lỏng, sôi sục, thiêu đốt khoan
xoáy làm tê bại thân xác lẫn tâm hồn, và từ trong cái thân xác quằn quại đó
trong cái tâm hồn điên dại ấy bỗng vụt lên tiếng thét:
... Miên, Miên... Em là người đàn bà của tôi, của
tôi...
Ngồi bật dậy, anh bóp chặt hai đầu gối để chống lại
ý muốn chạy sang căn buồng gian hãm người đàn bà của anh, húc đổ cánh cửa dù nó
được gài chốt và được khóa bằng ổ khóa lớn hơn cả bàn tay... Anh đủ sức đập tan
bất cứ ổ khóa nào đủ sức khá vỡ bất cứ cánh cửa nào... Thời gian đã trả lại cho
anh sức lực. Anh đang còn trẻ. Anh mới ngoài tuổi ba mươi... Nhưng anh vẫn bóp
chặt hai đầu gối vì hiểu mình đã bị trói buộc bởi một hợp đồng.
... Miên không còn yêu ta nữa... Mọi cố gắng đều
vô ích... Bởi ta không thể cưỡng ép cô ấy yêu ta...
Phần lý trí sót lại trong anh lên tiếng. Nhưng tức
khắc một tiếng nói khác mãnh liệt hơn hung dữ hơn rốt ráo hơn đáp lại:
... Nhưng ta yêu Miên, ta đã tìm lại đường về,
tìm vầng trăng bằng chính sinh mạng mình, những ngày chui lủi vượt rừng chống lại
đói khát muỗi vắt và các bóng ma thù nghịch... những ngày ấy đã hút kiệt sinh lực
của ta. Trái tim ta hàng ngàn lần tưởng vỡ vụn vì sợ hãi, ta đã phải tự trói
mình vào thân cây ban đêm giấc ngủ mong manh mướt lạnh mồ hôi vì tiếng rít của
trăn gió và rắn độc, ta đã phải sống như thú vật bằng cây củ và lá rừng... tất
cả những nhục nhằn ấy là vì em... Em không có quyền đuổi tôi ra khỏi trái tim
em. Tôi đã đánh canh bạc này bằng chính cuộc đời tôi, hoặc tôi phải được chia
phần hoặc tôi chết...
Mắt anh mờ đi, mồ hôi anh vã đầy ngực lẫn hai bả
vai. Anh giật cửa ra ngoài.
- Ông không ngủ được hay sao? Ra uống nước chè với
tôi. Ðêm nay tôi cũng chẳng làm sao chợp mắt...
Người quản gia cất tiếng. Ông ta đang ngồi trước
khay trà, ngọn đèn đêm đã được khêu to và dường như tất cả đã sắp đặt:
- A... bác đã dậy rồi ư ư?
Bôn lúng túng đáp hai thái dương vẫn nóng ran.
Ông già Lư đứng lên đổ thêm nước sôi vào ấm trà,
ung dung đáp:
- Tôi chưa ngủ... Người già thường ít ngủ.
Và không chờ anh trả lời, ông nói tiếp:
- Trà ướp nhài đợt này thơm lắm, mời ông ra uống
cho nóng. Tôi vừa bóc phong bánh đậu xanh bà Miên đưa ngày hôm qua. Ăn thứ bánh
này với nước trà thật phải vị.
Bôn không nói được gì, anh đi tới kéo ghế ngồi đối
diện với người quản gia tâm hồn sục sôi căm uất:
... Thằng già này đúng là con chó săn của tay
Hoan. Sẽ có ngày ta cho mi về chầu tiên tổ...
Anh uống trà, nói vài câu nhạt nhẽo với người quản
gia hiểu rằng tất cả những thiện cảm ông ta dành cho anh chỉ là chút tình
thương phổ biến giữa con người với con người và điều hệ trọng là chính ông, người
gác ngục tận tụy trung thành sẽ không bao giờ cho phép anh được bước tới cánh cửa
buồng của Miên, người đàn bà của anh hơn mười sáu năm trước, người đàn bà của
Hoan bây giờ. Anh uống liên tiếp hai chén trà và tâm hồn anh rền rĩ:
... Ðồ chó săn già, mi đã bao giờ yêu chưa nhỉ?
Mi cũng có tuổi trẻ, không lẽ mi chưa từng yêu chưa từng thất tình chưa từng bị
thân xác dày vò hành hạ?
Người quản gia đổ ấm trà cũ, tra nhúm trà mới rồi
chế nước sôi, mọi cử chỉ khoan thai. Ðôi mắt ông chăm chú nhìn vào ấm pha trà
nhưng Bôn biết rằng chúng không bỏ sót hành vi nào của anh và hẳn chúng cũng đọc
thấu những gì anh nghĩ. Ngọn đèn đêm mọi ngày vẫn đặt trên nóc tủ chè, đêm nay
được khêu tỏ đặt ngay trên mặt bàn uống nước, sát căn buồng của anh. Vẻ mặt ông
già chứng tỏ ông đã thức dậy từ lâu, đã nghe rõ tiếng thở hổn hển và những cơn
vật vã của anh. Mọi dáng nét, cử chỉ lẫn cặp mắt trầm tư bình thản kia chứng tỏ
ông đã tính mọi đường đi nước bước để phòng thủ, và nếu anh có manh động hẳn cũng
chẳng thu được chút hy vọng nào.
... Ta không thể làm gì được sao? Ta phải sống
trong ngôi nhà này như một bóng ma sao?
Trái tim anh tiếp tục rền rĩ và anh tưởng anh có
thể chồm qua bàn dáng cây đèn pin hoặc chiếc giá nến đồng vào cái sọ già nua của
ông Lư. Nhưng phần tinh khôn sót lại trong óc não anh run sợ. Anh biết con người
đó mạnh hơn anh, khôn ngoan hơn anh, tỉnh táo hơn anh, nhiều ưu thắng hơn anh.
Vài lần, đi ra nghĩa địa làng anh thấy lũ trẻ đi theo. Thoạt đầu, anh tưởng
chúng cùng đi chơi nên quay lại vui vẻ chào hỏi, chuyện trò. Nhưng lần sau, anh
chợt nhận thấy nỗi tò mò và sự sợ hãi trong mắt chúng, và dù đi theo anh chúng
vẫn chuẩn bị sẵn sàng tư thế quay một trăm tám mươi độ để tháo chạy. Lúc đó,
anh nghĩ người đời vốn sợ những kẻ hay lân la ngoài nghĩa địa cho rằng họ thường
dắt lối đưa đường cho ma quỷ về thôn xóm trêu ghẹo dân chúng. Nhưng có một ý
nghĩ khác lờ mờ ẩn núp sau ý nghĩ đó giống như bóng đen núp sau pho tượng trong
chùa. Anh sợ. Anh không dám nghĩ tiếp...
Giờ đây, cái bóng đen phía sau ý nghĩ của anh lại
hiện về:
... Phải chăng lũ trẻ tò mò kia có lý?... Ta điên
chăng? Hay ta đã mắc căn bệnh bất thường nào đó mà tất cả mọi người cả Miên cả
ông Lư đều không nói cho ta biết?...
Một con bướm đêm to tướng bay qua cửa sổ vào nhà,
chập chờn múa lượn quanh cây đèn ánh lửa xuyên qua đôi cánh bướm nhuộm thắm những
nét vẽ những đốm màu khiến con bướm đẹp một vẻ đẹp anh chưa từng nhận biết. Bôn
đặt chén nước xuống, mê mải nhìn con bướm chợt nhớ một mùa Xuân xa xôi, anh
cùng Toàn béo, Hải đen đứng ngắm lũ bướm vờn quanh lèn núi. Hàng triệu con bướm
cùng bay lượn hân hoan rối rít chấp chới lộng lẫy. Vũ điệu của chúng làm quay
cuồng rừng núi. Ba thằng lính nhẩy cẫng. Lần đầu họ thấy một cảnh kì diệu đến
thế. Những năm sau màu sắc rực rỡ của lũ bướm xuân không còn cuốn hút họ như
trước, họ không còn đứng hàng giờ ngắm chúng múa lượn, lò dò trên bãi cỏ rình
những đôi bướm giao phối rơi xuống. Lũ lính trẻ quay sang rình những cặp khỉ phủ
nhau. Một lần, họ bắt gặp một cặp đười ươi trong cơn say mê tình ái. Cặp đười ươi
đó rất giống người, động tác làm tình cũng vậy, chúng dai dẳng đến độ người ta
thần phục và thèm muốn. Bôn hình dung lại cảnh tượng đó, anh nhìn thấy bộ mặt
con đực nằm trên, tiếng rên, vành môi nhếch nhe những chiếc răng trắng nhởn...
Trong giây lát máu trong cơ thể anh sôi trào lên, anh khép chặt hai đùi nốc cạn
chén trà thứ ba rồi nói với người quản gia:
- Bác ngồi uống trà nhé... Tôi đi ngủ.
Ông già gật đầu:
- Ông đi đi. Ðêm nay chắc tôi không nhắm mắt được.
Anh vào buồng gài chặt chốt cửa như để tự ngăn cấm
vì ngày thường không có lý do nào làm việc ấy. Ðoạn anh lên giường phủ phục mặt
úp xuống gối như đứa trẻ sắp phải ăn đòn, hai bàn tay nắm chặt:
- Thôi đi thôi đi thôi đi...
Anh tự nhủ. Nhưng không thôi được. Bộ phận kín cương
cứng như con ngựa chiến sung mãn chờ phút sổng khỏi chuồng. Nó thống lĩnh tâm hồn
cùng thể xác anh. Anh không thể nghĩ tới điều gì khác. Màn hình trong óc não
anh chỉ hiện lên hình ảnh duy nhất là hình ảnh cặp đười ươi đang làm tình. Cặp
vợ chồng khỉ đểu giả đó không ngừng lôi cuốn anh, kích thích anh, kể từ giây
lát trí nhớ lôi cuốn chúng khỏi cánh rừng dĩ vãng. Anh nhớ lại từng tiếng kêu
khoái lạc của chúng, từng động tác nhỏ nhặt trong giao phối, cánh mũi chúng nở
to trong cơn hứng tình, vẻ mệt nhọc đờ đẫn sau khi thỏa mãn...
.... Trời ơi, sao tôi khốn khổ thế này?...
Tâm hồn bầm giập của anh kêu thét lên. Và bỗng
dưng anh căm ghét cái nhúm thịt thừa giữa hai bẹn mình, cái cục thịt thối tha
đã hành hạ anh một cách giảo quyệt tàn nhẫn. Khi anh cần nó hùng mạnh, anh vỗ về
chăm chút nó bằng đủ loại thuốc lẫn các món ăn bổ dưỡng thì nó rũ xuống như lá
cờ buộc ở đầu gậy thằng chăn vịt. Khi anh cần nó an nhu, chấp thuận một đời sống
êm lành chay tịnh thì nó dựng ngược lên, kêu gào cơn thỏa mãn dục tình:
... Ðịt mẹ mày... Ðịt con mẹ mày nhé...
Anh thầm cất tiếng chửi, giống năm nào anh chửi lũ
kền kền đã moi ruột tiểu đội trưởng trong rừng khộp xem như cách thức bắt buộc
để khạc nhổ nỗi uất hận trong lòng. Nhưng nhúm thịt đểu cáng thối tha kia điếc
đặc, nó không chịu nghe chửi, nó cứ ngỏng lên một cách lì lợm và tàn nhẫn. Bôn
đành thọc tay vào trong quần, tìm mọi cách làm nguôi dịu cái bộ phận cơ thể đã
phản bội đã trở thành một con vật xa lạ quái dị, ở ngoài mọi điều anh nghĩ và
anh muốn.
Chiều hôm sau Bôn chờ Miên về. Anh vờ bế cu Hạnh
mặc dù thằng bé luôn luôn giữ vẻ xa cách và dè chừng. Khi Miên xuống nhà tắm
anh bế đứa bé xuống theo, chặn chị ngay ở cửa phòng tắm:
- Miên này, tôi có chuyện muốn nói.
Miên quay lại nhìn anh, anh biết chị đã hiểu điều
anh muốn nói. Chính chị lên tiếng trước:
- Anh Bôn, em đã nói rồi. Chúng ta không còn tình
nhưng còn nghĩa. Và em sẵn lòng coi anh như anh trai mình. Ngoài ra, không thể
có gì hơn.
Anh gật đầu:
- Tôi vẫn biết thế. Nhưng tôi không thể sống mãi
như thế này. Tôi biết Miên có người đàn ông khác nhưng tôi vẫn yêu Miên, tôi muốn
có phần của tôi.
Chị nhìn anh bằng cặp mắt lạ lùng:
- Em không hiểu.
Anh gắng nuốt nước bọt, gắng ghìm giữ nỗi nhục và
nói tiếp:
- Chuyện thường thôi... Ngày xưa người đàn ông có
năm thê bảy thiếp. Giờ chúng ta cũng có thể chung sống hòa bình theo kiểu đó...
Tôi không dám đòi hỏi nhiều... Nhưng tôi yêu em, tôi phải có phần của tôi.
Mặt Miên vutỳ đỏ dựng lên, chị đưa mắt rất nhanh
nhìn về phía bếp như sợ người quản gia nghe thấy. Rồi chị nghiêm mặt lại, một vẻ
lạnh lùng dữ tợn hiện trong đôi mắt:
- Anh đừng bao giờ nhắc lại chuyện này lần nữa, với
bất cứ ai. Nếu không xóm giềng sẽ cho anh là kẻ điên dại hoặc vô luân. Không
người đàn bà tử tế nào lại làm chuyện đó.
Anh không dám nhìn vào mắt chị, nhưng tiếp tục
nói:
- Tôi không phải quan hoạn... Tôi không thể sống
mãi như thế này.
- Vậy anh có thể rời khỏi đây...
Miên đáp, giọng lạnh lùng và gương mặt chị rắn lại
như đá:
- Anh có thể về lại nhà, em sẽ gắng giúp anh vốn
làm ăn. Rồi anh tìm người nào đó thương yêu anh xây dựng cuộc đời mới.
- Không. Tôi không muốn...
Anh đáp. Ðoạn đặt đứa bé xuống, bỏ lên nhà trên.
Miên không gọi anh, không nói gì thêm, bế đứa con vào phòng tắm. Ở đó chị gọi
vóng xuống bếp:
- Bác Lư xem giùm tôi nồi nước.
Tiếng người quản gia đáp lại tức thì:
- Nước được từ lâu. Bà chờ tôi đem lại ngay.
Dường như bất cứ lúc nào người quản gia cũng chờ
đợi và sẵn sàng làm theo ý muốn của Miên. Bôn nhìn ông ta bưng nồi nước lá qua
sân, cái bóng rắn rỏi hắt dài trên nền gạch và biết rằng ông Lư không chỉ là
con chó trung thành của Hoan mà còn là kẻ tháp tùng tín cẩn của Miên. Ông ta
cùng một lúc sùng phục cả hai, với người này có lẽ do gắn bó quyền lợi và với
người kia là tự nguyện. Anh là kẻ đứng một mình trong ngôi nhà này. Và có lẽ
anh là kẻ đứng một mình trên trái đất.
Ðêm ấy Bôn mơ giấc mơ siêu tuyệt. Giấc mơ đem cho
anh cảm giác vẹn toàn về hạnh phúc, một thứ hạnh phúc sung mãn chưa bao giờ mon
men tới trong đời sống thật. Anh mơ một cơn đại hồng thủy bao trùm toàn trái đất,
nhấn chìm tất cả các châu lục, các quản gia, mọi giống người da vàng da đen da
trắng đều chết sạch, duy mình anh được Ðấng Tối Cao ban cho cây bè. Trên mặt nước
mênh mông có triệu triệu người chết đuối hoặc đang lóp ngóp một cách tuyệt vọng
giữa các đám bọt nước anh đã kịp tìm thấy Miên, chị chìa bàn tay chới với trên
mặt nước về phía anh, hướng đôi mắt cầu khẩn về phía anh và lần nữa anh trở
thành người hùng cứu chị thoát khỏi cái chết. Anh ôm Miên vào lòng, người đàn
bà của anh run rẩy nhợt nhạt vì sợ hãi. Anh vuốt ve an ủi chị, vắt kiệt những lọn
tóc ướt sũng cho chị, cởi áo mình cho chị rồi lái cây bè vượt qua biển xác chết
anh đưa chị tới mỏm đảo hoang duy nhất còn nhô lên trong cơn hồng thủy, biết rằng
đó là mảnh đất Ðấng Tối Cao dành cho anh, để anh cùng người đàn bà anh yêu sản
sinh ra một nhân loại mới. Trên đảo hoang trơ trọi giữa bốn bề nước và thây ma,
tình yêu của họ sống lại, mãnh liệt gấp trăm lần thuở trước. Anh ái ân với Miên
trên cỏ, dưới trời sao dưới cả nắng mai, những cuộc ái ân hung dữ hơn cơn động tình
của hổ báo, dai dẳng hơn loài khỉ đột hoặc đười ươi, dường như trong thân xác họ
chảy những dòng máu hòa trộn của muôn loài... Bôn thức giấc vào buổi sáng hôm
sau, ngơ ngẩn tiếc, và rờ tay xuống chiếc đũng quần ẩm ướt, anh cố triệu hồi niềm
hạnh phúc tót vời thứ khoái lạc tót vời vừa nếm trải...
Rồi ngày nọ tiếp nối ngày kia, anh vẫn lên đồi ra
nương cùng người quản gia, ngồi tiếp ông uống trà ăn bánh đậu, vẫn cùng ông lúi
húi nấu cháo gà hoặc bún bung những khi họ muốn đổi món, sống cuộc sống sung
túc nhiều người dân Xóm Núi thèm muốn. Vào những đêm hứng tình, anh triệu hồi
giấc mộng cũ, mơ tưởng mùa ái ân của các loài thú trong rừng, giải thoát cơn
hành hạ dục tình một cách khốn khổ và không ngừng thèm muốn đập vỡ một cánh cửa
buồng, bẻ gẫy một ổ khóa. Ðã đôi lần, anh nghĩ:
... Hay ta ra đi... Hãy thử đến cái nông trường
Xá chột đã nói. Hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa đang ở đó, tha hồ
chọn, còn hơn sống nhục nhã thế này... Như thế, ta cũng giải thoát cho cả Miên,
Miên có thể lên trại Suối Nhỏ với Hoan hoặc gọi anh ta trở về ngôi nhà cũ. Hẳn
Miên sẽ giúp ta đủ vốn liếng làm ăn. Người đàn ông kia không thiếu tiền, anh ta
sẽ chẳng dè dặt khi trả giá cho một hạnh phúc vẹn toàn. Rồi mai đây, ta cũng sẽ
có một mái ấm một đứa con với người đàn bà mới, người đàn bà ta tuyển chọn
trong đám hơn hai trăm cô gái quá thì...
Thoạt đầu, ý nghĩ mình được quyền tuyển lựa một
người đàn bà giữa đám hai trăm cô gái quá lứa làm anh sung sướng, lờ mờ thú nhận
điều đó cho phép anh có được quyền năng và sự hãnh diện của một vị vua. Nhưng
sau thoáng kiêu hãnh, anh chợt hiểu ra rằng hơn hai trăm cô gái quá lứa kia đối
với anh chỉ là một đám bụi mịt mờ, một khối đen đặc không hình thù đường nét
không gương mặt nào rõ rệt và lôi cuốn. Hai trăm cô gái chẳng phải là một số lượng
ghê gớm bởi anh từng gặp đến ngàn cô gái trên lề chiến tranh... Và chẳng mảy
may xúc động... Cũng có thể những cuộc gặp gỡ trong chiến tranh chỉ là những tụ
hợp phù du, ít ỏi là vài giờ đồng hồ, nhiều nhặn lắm cũng hai ba ngày không bao
giờ đủ thời gian để làm quen... nhưng cũng có thể vì con tim anh đã bị cột chặt
với một người đàn bà, mối tình đầu ác hại, và rồi sau đó bởi chính anh đã đặt cược
sinh mệnh vào người đàn bà đó, nên anh không còn chỗ tháo lui. Anh đã quăng
thân vào bao nhiêu cuộc phiêu lưu đến suy kiệt tinh thần hao mòn thể xác giờ
đây những cuộc phiêu lưu đó đọng lại trong anh như một thứ cặn lắng, bít bùng,
mờ tối:
... Không, không, không, ta không thể xách ba-lô
tới một nơi xa lạ, tìm trong đám đông xa lạ kia một người đàn bà nào đó có thể
trở thành thân thiết, hơn nữa có thể cùng chia sẻ gối chăn... Ta chẳng còn sức
để lao vào một cuộc phiêu lưu như thế...
Chỉ mới nghĩ đến một con đường trải ra phía trước
anh đã thấy gân cốt rã rời, những khớp xương muốn long rụng tơi tả. Chỉ mới mường
tượng một cuộc ra đi da thịt anh đã ớn lạnh và những chân tóc anh dựng lên như
chúng sắp sửa phải chống chọi với hơi giá rừng già, với gió độc lùa dưới vực
sâu, với mưa sương trên những vòm lá dày rớt xuống... Không, anh không còn sức
cho một cuộc phiêu lưu mới. Vả chăng, tại sao anh phải ra đi như một kẻ trắng
tay, để người đàn bà anh yêu hoàn toàn thuộc về người đàn ông khác?... Tại sao
anh lại chịu thua cuộc nhục nhã và vô điều kiện như thế, sau bấy nhiêu nỗ lực
gian truân?... Và lờ mờ, trong đáy sâu con tim anh, niềm hy vọng tuy mong manh
vẫn le lói chiếu:
... Biết đâu đấy, biết đâu một ngày nào?...
Anh tự nhủ. Nhưng ngày nào và có sự gì xảy ra,
anh mơ tưởng điều gì... anh hoàn toàn không biết.
Và bỗng dưng mùa săn năm nay tiếng kèn xa xăm kia
không còn làm anh run sợ. Những âm thanh lúc đều đều buồn tẻ lúc vót gắt rền rĩ
của nó lay động góc trời tĩnh lặng trong anh, gọi về tuổi thơ, nức nở khúc ca sầu
muộn. Anh ngồi trên đồi vắng khoanh tay nghe giờ này qua giờ khác. Rồi một chiều
những âm thanh kia vang động hơn, xô dạt hơn, vừa như sóng biển vừa như nhịp
quân hành vẳng lại. Bôn chợt nhìn thấy một khoảng trời trong veo trong vắt, những
nương ngô trổ bông phơi dưới nắng chiều, những thân mía tím mập mạp cao trên đầu
anh phủ đầy phấn trắng và bao trùm lên tất cả khung cảnh đó là một không gian
trầm lặng, thanh sạch với tiếng ong rù rì êm ả...
... Khung trời này ở đâu và những nương ngô kia ở
đâu?... Ta đã từng gặp, đã từng sống... Chúng ở đâu trên cõi đất này? Anh lục
tìm trí nhớ. Quá khứ như hang động mịt mù khói phủ. Lạnh. U buồn. Kinh hoàng.
Da diết. Tan loãng. Tơi tả. Ngoài ra anh không thấy một cảnh tượng nào. Anh ngồi
đăm đăm nhìn mặt trời từ từ chìm xuống núi. Khi mặt trời tắt trên các rặng núi
phía Tây cũng là lúc mặt trời trong trí nhớ anh nhô khỏi cánh rừng u tối thổi
tan lớp khói mịt mù, rọi vào cái hang sâu bị rấp lối. Và anh chợt bật lên tiếng
kêu:
- Bản Kheo.
Tiếng kêu của anh vọng trên các nương tiêu nương
cà-phê lẫn dải đồi xung quanh. Vài người chăn dê chăn bò đang lùa gia súc về
làng giật mình đưa mắt nhìn anh nhưng anh không nhận thấy. Ðứng thẳng dậy, anh
hét thật to cái tên vừa tìm thấy:
- Bản Kheo... Ðúng là Bản Kheo. Bản Kheo. Bản
Kheo. Bản Kheo...
Và cùng tiếng vọng, âm vang trong anh tiếng xe
trâu kẽo kẹt, tiếng gà gáy vọng qua thung lũng, tiếng bọt củi nổ lách tách tiếng
sôi của mật nấu trong chảo, tiếng chim ríu ran thanh bình tiếng cười nói lao
xao nghe thân ái và nhu mì dù rằng đó là thứ ngôn ngữ lạ lùng anh không rõ nghĩa.
Giờ Bôn đã nhận diện được Bản Kheo, nơi anh sống với người đàn bà Lào câm điếc,
người chưa cùng anh kết hôn theo thủ tục của Việt Nam nhưng đã kết hôn theo
phong tục địa phương cô sinh thành. Bôn nhớ lại vị xôi trắng lẫn thịt nướng
ngày đó, nhớ cử chỉ của trưởng tộc khi ông cầu chúc lễ hợp hôn của họ, nhớ gương
mặt với cặp mắt xếch sáng loáng của người anh trai cô dâu và rọi soi trên tất cả
các ảnh hình ấy, lung linh trên tất cả các ảnh hình ấy là ngọn lửa lớn, một bếp
lửa chụm bởi các thân gỗ to hơn đùi người cháy suốt ngày đêm không tàn, ngọn lửa
vĩnh cửu nơi Bản Kheo:
... Phải, đó chính là nơi ta sống với người đàn
bà có một rương đầy váy áo. Cô đã trải tất cả đám váy áo rực rỡ ấy lên sàn cho
ta xem trước ngày làm lễ hợp hôn. Và đêm đó cô đã đun nồi nước lá thơm cao gần
đến thắt lưng để hai người cùng tắm... Ðêm ấy ta đã hạnh phúc. Dẫu sao cũng vẫn
là hạnh phúc. Mùi nệm mới ủ lá thơm bốc lên ngào ngạt sao...
Anh nhắm mắt lại, thấy mình được tắm rửa sạch sẽ
thơm tho nằm trần truồng trên tấm nệm lanh thêu rực rỡ, thân thể trần truồng của
một người đàn bà kề bên. Cách họ chừng vài thước bếp lửa cháy bừng bừng, lửa đỏ
tỏa hơi ấm và rọi sáng... Anh nhớ lại cảm giác mãn nguyện khi người đàn bà tì
đôi vú nặng của cô vào ngực anh, đôi tay cô ve vuốt cơ thể anh, và những động
tác của cuộc làm tình đưa dẫn anh tới ngọn triều khoái lạc. Sự hồi nhớ khiến cơn
thèm muốn dục tình trong anh bật dậy.
... Ta đã từng được sung sướng với người đàn bà ấy...
Tại sao ta rời bỏ cô ta? Giờ ta ao ước được như cặp đười ươi phủ nhau trong xó
rừng... Tại sao con người ngu xuẩn như vậy?...
Nỗi hối tiếc điên cuồng vò xé tim Bôn. Con giống
anh đã dựng ngược lên trong quần. Cái con vật quái gở khốn kiếp đó càng lồng lộn
hung dữ, cơn hồi nhớ càng gợi lại.
Lúc Miên mở cánh cửa bước vào buồng đã non trưa.
Như trời xui đất khiến, Bôn ngồi phắt dậy đạp tấm chăn xuống chân giường. Anh
im lặng. Miên cũng im lặng. Chị đặt liễn cháo lên mặt bàn đưa mắt nhìn quanh để
tìm cái bát sạch, không còn cái bát ăn nào trong gian buồng của Bôn, chạn bát lẫn
đống bát đĩa chị đem tới mẹ con Tá đã tha lôi đi hết. Chị bước tới chum đựng gạo
nhìn vào dù biết trước sẽ chẳng sót hạt nào. Một chiếc quần bẩn vắt lòng thòng
trên miệng chum, vài chiếc may-ô lẫn sơ-mi bẩn cuộn thành nùi đặt trên nắp hòm
quần áo của chị. Chiếc hòm được khóa cẩn thận, hẳn nó là vật duy nhất không bị
lục lọi trong gian buồng này. Trên mặt bàn lẫn trên sàn nhà đầy những vỏ khoai
lang khô và cứt chuột. Hai đứa con nhỏ của Tá ngồi chầu hẫu nơi cửa buồng nhìn
chị dù trời đã lạnh chúng vẫn cởi truồng và con cu đen thủi đen thui chấm xuống
nền gạch bẩn. Sau lưng chúng, ngay trên hè một rổ khoai lang rễ luộc ăn dở
dang, vương vãi đầu mẫu lẫn những vụn khoai bị giẫm be bét... Không có gì thay
đổi ở nơi đây, đúng như Miên dự đoán, có điều cảnh tượng còn tồi tệ hơn bởi khi
chị không còn sống với Bôn, sự bần hàn dơ dáy kéo anh xuống với gia đình bà chị.
Miên xuống gian bếp thấy đống bát đĩa đã bị tống vào cái trạn bẩn thỉu của mẹ
con Tá, còn chiếc trạn của chị bị trưng dụng thành chỗ nhét quần áo của lũ trẻ.
Chị lấy một chiếc bát đem rửa rồi mang lên múc cháo cho Bôn:
- Anh ăn đi.
Bôn không nói gì, lẳng lặng đón bát cháo từ tay
chị xúc ăn. Cháo rất nóng vì chị ủ liễn cháo trong tấm khăn bông, hơi nghi
ngút. Mồ hôi Bôn rịn trên trán, nơi hai thái dương. Miên kéo tấm khăn phơi trên
dây đưa cho anh:
- Anh lau mặt đi, ra mồ hôi như thế rất tốt.
Bôn lau mặt. Chị nhìn những ngón tay khô xác run
rẩy của anh và nghĩ tới mảnh đất xã chia cho anh đang còn rậm rì cỏ mọc:
... Làm sao Bôn kiếm nổi miếng cơm với những ngón
tay đó?... Ðất đầy sỏi và cỏ tranh, không nước tưới và không tiền mua phân
bón... Chị đã từng vỡ đất trồng tiêu và trong vài năm đầu sống với Hoan họ cũng
từng làm cỏ tưới nương như tất cả mọi người, chị biết rằng phải có sức khỏe mới
vượt được giai đoạn khởi đầu gian nan ấy. Nghề trồng tiêu và cà-phê cũng từa tựa
như buôn lớn, không hòng kiếm lãi ngay, vốn càng trường càng thắng đậm. Làm sao
Bôn bước nổi vào chiếu của các ông chủ trại?...
Không tiền, không kinh nghiệm, vốn tối thiểu là sức
khỏe cũng không. Giờ đây, anh còn suy kiệt hơn cả những ông già sáu mươi trong
Xóm Núi. Dạo chị mới quay về sống với Bôn, đang còn tràn đầy hy vọng và lòng
hăng hái anh đã hai lần ra vỡ đất, lần nào anh cũng cảm nằm bệt cả tuần. Hồi
đó, anh vẫn thường bảo chị:
- Thôi, mình đàng chờ cho tôi lại sức... Dù sao cũng
phải có thời gian, chúng ta còn trẻ và rồi đây...
Và rồi đây... Ấy là câu cửa miệng của Bôn và mỗi
lần lặp lại câu nói ấy, mắt long lanh như lửa rọi. Ngọn lửa đó đã tắt rụi chẳng
còn mảy may tia khói từ lúc người hộ lý trong phòng hộ sinh chỉ cho Bôn thấy
cái thai nhi không đầu. Khi bà ta xách xô đi, Bôn đã túm lấy chân chị, hai bàn
tay anh lạnh như nước đá cặp mắt vô hồn và môi anh mấp máy ngọng nghịu như kẻ tật
nguyền:
- Miên... Miên... Con đâu?... Con đâu âu...?
Lúc đó chị không trả lời anh. Chị mệt mỏi sau cơn
sinh nở. Chị cũng thấy hụt hẫng. Nhưng cùng với sự hụt hẫng còn có cả sự thanh
thản và nơi đáy sâu con tim chị một niềm vui tăm tối mà chị không dám thú nhận
ngay với chính mình.
... Tội nghiệp cho Bôn. Ta chẳng muốn thế nhưng cũng
không thể nào khác...
Bôn ăn xong đặt bát xuống giường mà không nhìn chị.
Miên đem bát đi rửa rồi mang trở lại chiếc bát sạch đặt lên mặt bàn:
- Em để sẵn cho anh ăn bữa chiều.
Anh lắng nghe nhưng không trả lời đưa mắt thẫn thờ
nhìn khuôn cửa. Trời không nắng. Gió đu mấy ngọn xoan xơ xác ngoài vườn. Trên
sân hai đứa cháu tồng ngồng của anh đang chúi đầu chơi đáo. Miên thấy anh cứ
nhìn mãi vào đám xoan, bèn đứng lên:
- Em về đây.
Lúc đó Bôn giật nẩy mình và đôi mắt thẫn thờ của
anh chợt nhớn nhác nhìn chị:
- Miên đi đâu?
Chị đáp:
- Em về nhà em.
Trên gương mặt xa vắng của Bôn chợt thoáng qua một
nét nhăn đau đớn, dường như anh vừa bị nghiến một ngón tay hoặc bị xé rách một
thớ thịt:
- Miên về nhà...
Bôn lặp lại, không trả lời và cũng không để hỏi.
Ðơn thuần chỉ là một câu lặp, một hồi âm, như tiếng dội khi ta cất tiếng kêu giữa
một thung lũng bốn bề là vách đá. Miên nhìn anh và hồi nhớ tuổi trẻ của mình, hồi
nhớ những ngày cùng lũ con gái trong xóm đi kiếm củi, họ thi nhau hét vào hang
nghe xem tiếng vọng của ai âm vang hơn, ngân dài hơn. Rồi họ đứng bên này suối,
xem đứa nào ném trúng bụi sơn trà. Rồi họ cùng nhau hái sim mùa sim chín, dải đồi
nhấp nhô, nhấp nhô, tiếng cười lanh lảnh từ đồi này vọng sang đồi khác, mùi
trái chín và những cặp môi nhỏ nhuộm màu sim... Không hiểu vì sao tiếng nói vô
hồn của Bôn bỗng gọi về đầy ắp âm thanh và màu sắc thời con gái, những hồi nhớ
đó khiến tim chị xót xa, và chị không còn muốn chấp nê sự câm lặng lạnh lùng của
Bôn. Chị ngồi xuống ghế, kéo ghế gần lại trước anh và nói:
- Anh Bôn, hãy theo em về đằng kia.
- Không.
- Ðằng kia là nhà của em, của riêng em. Anh Hoan
đang cất nhà trên khu Suối Nhỏ.
- Tôi ở nhà của tôi.
- Anh với em tình đã cạn, duyên đã hết. Chúng ta
không thể là vợ chồng. Nhưng dẫu sao, cũng đã từng chia sẻ gối chăn. Một ngày
nên nghĩa. Em không yêu anh nhưng em có thể chăm sóc anh như anh ruột mình.
- Không.
- Anh không thể sống ở đây. Chị Tá không giúp anh
được. Sức khỏe của anh bây giờ còn tệ hơn hồi anh mới về. Anh Xá tốt thật nhưng
còn cả một đàn con.
- Miên mặc tôi.
- Anh cứ nghĩ kĩ đi...
Chị nói tiếp một cách nhẫn nại:
- Anh cứ nghĩ kĩ đi. Chúng ta dù không có con sống
nhưng cũng có chung con chết... Em vẫn còn nặng nghĩa với anh...
Nói xong, Miên đứng lên ngay, ra về. Chị không muốn
ngồi lại thêm bởi sợ phải nhìn thấy Bôn khóc. Chị không muốn, không bao giờ muốn
nhìn thấy nước mắt trên gương mặt một người đàn ông. Và chị nhớ lại cái đêm bất
thần mở mắt, thấy anh ngồi chầu hẩu dưới chân giường, nước mắt tuôn như suối. Cảnh
tượng đó não nề sao và nó có cái gì đó khiến cho chị vừa đau đớn vừa nhục nhã.
Chị rảo bước khỏi căn ngõ, hai thái dương nóng bừng bừng trái tim chị cũng cháy
như lửa bừng bừng nửa xót xa nửa vui sướng:
... Không, không... ta không thể nào yêu Bôn được.
Ta trở về mái nhà của ta là đúng. Giống như kẻ đã đến cửa địa phủ lại tìm được
lối về cõi nhân gian... Nhưng ta sẽ cam lòng nuôi Bôn, như nuôi một người anh
em bị tật nguyền, cam lòng gánh anh ấy cho tới ngày mãn kiếp...
Hôm sau, Miên quay lại gian buồng của Bôn từ sáng
sớm. Chị lại đem cho anh liễn cháo với mấy tấm bánh nếp. Bôn rất thích ăn bánh
nếp nhân mặn. Họ không nói chuyện gì bởi Miên phải vội trở về trông con. Người
quản gia lên công trường ngay sau bữa ăn sáng còn dì Huyên theo mấy bà trong
Xóm Núi xuống phố huyện:
- Anh gắng ăn cho hết mọi thứ. Mai em sẽ nhờ người
xuống phố mua thuốc.
Anh không trả lời đưa mắt nhìn chị với cái nhìn
âu sầu nửa như hờn dỗi nửa như chấp thuận.
Hôm sau nữa Miên bới cơm và thức ăn mặn đem cho
anh. Chị ngồi chờ anh ăn xong bữa để thu dọn bát đĩa đem về. Liễn đựng cháo hôm
qua lũ cháu Bôn đã mang ra sân thả cá con, chiếc thìa bị bẻ cong lên làm xẻng
đào đất. Bôn ngượng ngùng nói:
- Tôi ốm nằm đây, không bảo được lũ trẻ.
Miên lặng im. Chờ anh ăn xong, chị nói:
- Hiện giờ em còn có thể mang cơm cho anh. Nhưng
ít bữa nữa em sẽ phải coi sóc nương vườn vì ông già Lư hàng ngày lên công trường
theo đám thợ.
Bôn im lặng. Miên nói tiếp:
- Nếu anh có gia đình thân quyến ăn nên làm ra
như người khác đã đi một nhẽ. Nhưng hiện tình anh không thể bấu víu vào ai...
Anh hãy nghĩ kĩ điều em nói.
Anh không trả lời. Họ cùng ngồi im lặng như thế hồi
lâu, cùng đưa mắt nhìn ra sân vì không còn gì để nhìn trong gian buồng tăm tối
đó. Ánh sáng trắng đục của một rạng đông không mặt trời tràn ngập không gian. Mảnh
sân vắng con mèo láng giềng sang cào kẽ gạch tìm bắt dế. Mấy đứa con Tá đã rủ
nhau đi chơi đâu không rõ để lại mấy mẫu khoai luộc lăn lóc trên chiếc đĩa nhôm
đầu hè. Chỉ mấy ngọn xoan ngoài vườn là nhúc nhích trong khung cảnh ơ hờ buồn tẻ
ấy. Những ngọn xoan đong đưa trong gió, đong đưa kiếp sống lắt lay của chúng
trên đám thân cành khẳng khiu, trong khu vườn cằn lụi đến mức chỉ còn trơ những
gân đất, cỏ cũng không buồn mọc. Gian nhà của Bôn không có tiếng động nào ngoài
tiếng thạch sùng tắc lưỡi và thi thoảng, một con chuột rúc rích trong xó, sau
chum đựng gạo, hẳn để kiếm một cách tuyệt vọng vài hột gạo rơi. Miên lắng nghe
những tiếng động đó, lần đầu tiên chị chú ý tới chúng:
... Vậy mà ta đã sống ở đây bao nhiêu ngày tháng.
Chẳng ngờ được. Giờ quay lại nhìn cứ ngỡ chuyện của ai...
Miên thầm nghĩ và chị tự hỏi chị làm cách nào để
nuốt trôi thời gian trong gian buồng này, với người đàn ông ngồi trên chiếc giường
cách chị nửa sải tay đang đưa cặp mắt trống rỗng nhìn những ngọn xoan đong đưa
trong gió. Ðôi mắt anh giờ này âm thầm quá. Nhìn vào chúng tựa nhìn vào những
ngôi mả hoang nơi người sống không còn lai vãng. Anh nghĩ gì vào lúc này hoặc
chẳng nghĩ gì hết?... Chị thầm hỏi và không tìm được câu trả lời. Chị đành ngồi
lặng lẽ chờ anh lên tiếng trước. Thời gian cứ thế trôi. Rồi có tiếng lao xao của
đám người nào vẳng tới. Lát sau, gió đổi chiều đưa mùi khói bếp, lẫn mùi khói bếp
là mùi tỏi phi mỡ thơm phức. Bất chợt Bôn cất tiếng bâng quơ:
- Nhà ai xào rau muống nhỉ?... Ðiếc mũi...
Miên hỏi:
- Anh thích rau muống xào à?
Bôn gật đầu:
- Món tủ của tôi đấy. Hồi trước mỗi bận bị điều
xuống làm bếp tôi với cậu Cảnh vẫn đi lùng tỏi xào rau muống. Tiểu đội trưởng
thích nhất món ấy mà các thủ trởng lớn trên quân đoàn xuống đơn vị chơi cũng
đòi ăn món ấy.
Dứt lời, anh chợt mỉm cười với ai đó trên ngọn
xoan và cặp mắt vô hồn của anh thoáng qua ánh ngày. Miên chờ Bôn dứt cơn trầm
ngâm, lên tiếng:
- Em cũng thích ăn rau muống xào tỏi. Nhưng rau
bí non hoặc rau cải ngồng xào tỏi còn ngon hơn...
Bôn gật đầu:
- Ờ... ờ...
Miên nói tiếp:
- Anh định hôm nào lại đằng kia?
- Tôi... tôi chưa biết... Tùy Miên...
- Hôm nay trời không nắng, gió cũng êm... Chỉ e
anh chưa chịu nổi...
- Chẳng sao. Tôi cũng dứt cơn sốt mấy hôm nay rồi.
- Ðể em đi thu xếp quần áo cho anh.
- Ờ, cứ mặc tôi...
Bôn ậm ừ, đưa mắt luống cuống nhìn chị. Nhưng
Miên đã quay đi tức khắc. Chị đến góc buồng nơi chiếc ba-lô của Bôn nằm bẹp dí
dưới đống đồ lặt vặt. Kéo chiếc ba-lô lên, Miên đập bụi xếp quần áo của Bôn và
bỗng dưng một giọt lệ trào ra, qua gò má lăn xuống khóe môi chị vừa ấm vừa mặn:
... Gia tài của Bôn đây, sau mười bốn năm rời
làng xa xóm... Ngoại trừ bánh xà-phòng anh ấy đưa cho ta, phần còn lại đúng là
chiếc bị ăn mày...
Chương 26
Ngày lại tháng qua, mọi sự kiện đưa đẩy theo dòng
đời, vài ba sự kiện lưu lại lềnh bềnh như đám bèo trên mặt sóng còn đa phần cuốn
trôi cùng làn nước. Ngày nào đó Xóm Núi râm ran tiếng pháo mừng khánh thành trường
tiểu học, xe lớn xe nhỏ đậu ngổn ngang nơi bãi Ðồi, quan huyện quan tỉnh kéo về
nườm nượp để chứng kiến phút cắt băng lụa đỏ, dân chúng mừng rỡ cuống cuồng
nháo nhác từ trẻ đến già, đám học sinh trong xã được phát nào cặp mới, mũ mới,
sách vở mới đi đi lại lại xốn xang, trống cà-rùng gõ đinh tai nhức óc... cái
không khí hội hè lạ lùng tựa không khí trong chuyện thần thoại tưởng sẽ mãi mãi
không phai nhạt... ngày đó đã qua, đã qua khá lâu, và dòng đời cô tịch lại trở
về ngự trị miền sơn dã.
Ðã qua những đêm Thu tạnh ráo sao đầy trời, gạo nếp
rang nở bung trong chảo, chuyện vãn của đám dân quê nở bung quanh các ấm trà,
các bát điếu, những ngọn đèn thắp lên những đóa lửa hồng điểm tô cho bóng tối
mênh mông nỗi an bình dịu ngọt. Cũng đã qua những đêm Ðông gió giật, nương vườn
trở nên thâm u, bóng người đi lại trên các nẻo đường đong đưa cây đèn bão trông
leo lắt chập chờn như lũ ma tội đồ đi rắc lửa địa ngục, lẫn cùng gió thi thoảng
một con hoẵng kêu sương vọng về, nghe như tiếng của lạc loài của đơn côi của những
nhục nhằn câm lặng. Bất chợt một sáng những mầm cỏ trắng li ti nở ra giữa các
búi cỏ xám già và tiếng vỗ cánh của chim non trên ngọn cây lay động một góc cỏn
con của bầu trời, chợt vỡ òa một màu lơ trong suốt như pha-lê, lấp lánh bọt nước
và từ khoảng rạn vỡ của khung trời đó, một biển lơ xanh thắm tuôn tràn.
Dân Xóm Núi đổ ra nương vườn, điểm tụ bạ không
còn là các câu lạc bộ gia đình mà là các bóng cây hoặc những lán tranh tạm trú,
nơi họ ngừng tay uống nước hoặc ăn bữa cơm trưa. Sau bữa trưa từng đám người nằm
duỗi dài trên cỏ khô, rơm khô hoặc các tấm cót rộng. Lũ trai trẻ có thể chợp mắt
làm một giấc ngủ ngắn gọn nhưng ngon lành còn những người lớn tuổi thường chỉ nằm
cho giãn xương lưng. Trong khoảng thời gian đó, các câu chuyện lại cất lên ròn
rã và không bao giờ ngưng lặng nếu họ chưa dựng nên được một pháp đình và ai đó
chưa được đóng vai trò của pháp quan, ít nhất một lần, trong cuộc đời bình lặng
và buồn nản của họ...
Bây giờ, nhân vật thường được bênh vực lại là
Hoan, chủ trại Suối Nhỏ, ân nhân chung thân của dân toàn xã:
- Suy đi tính lại chẳng ai thiệt như tay Hoan.
Dinh cơ của mình bỗng dưng thằng khác tới ở, phải bỏ tiền xây nhà mới. Vợ con
mình bỗng dưng phân cách, sáng nào cũng phải phóng xe vượt mấy cây số tới đón,
lặn mặt trời lại phải vượt mấy cây số đèo về... Rõ ràng không phải trời đầy mà
người đầy. Kiểu tù này là tù không án.
- Ờ, cũng lạ cho họ. Tại sao cô Miên không dọn về
ở hẳn trại Suối Nhỏ với anh ta?
- Như thế, cậu Bôn còn danh nghĩa gì để trụ lại dưới
mái nhà của cô ấy?
- Danh nghĩa có đem ra gặm được đâu?... Sự thật sờ
sờ trước mắt là cậu ta quanh quẩn suốt ngày với ông cụ Lư. Hai thằng đực rựa ăn
cơm với nhau cả trưa lẫn chiều... Họa hoằn buổi sáng cô Miên mới ngồi cùng mâm
vài phút.
- Nhưng người ta vẫn cần danh nghĩa. Ví như bà
Huyên, sang trại Suối Nhỏ ở với tay Hoan từ lâu nhưng vẫn khóa trái ba gian nhà
lại, ai hỏi mua cũng không bán. Ðó là đất lui chân. Như cậu Bôn vậy, đất lui
chân của cậu ta là danh nghĩa vợ chồng với cô Miên.
- Cò súng của nó hỏng từ lâu, còn chó gì mà vợ với
chồng.
- Con cu cậu ta không ngỏng lên được nhưng cái cổ
cậu ta vẫn cần ngỏng lên. Phải có lý do để ngửa mặt nhìn thiên hạ chứ...
- Vẽ sự... Ðứa trẻ lên năm cũng biết cô Miên nuôi
báo cô cậu ấy. Nghĩ cũng nhục... Tôi mà lâm cảnh ấy tôi chết mẹ nó đi cho rồi.
- Vậy ông thử chết xem sao?... Chết chẳng dễ đâu.
Chưa tới ngày tận số muốn chết trời không buông áo cho đi đất cũng không mở cửa
cho đến.
- Ông rủa tôi đấy hả?...
- Tôi không rủa nhưng đã nói chuyện phải nói cho
cạn lẽ.
- Thôi thôi... Các ông thừa sức hay sao mà gây sự?...
Dễ hồ họ thuê tiền mướn bạc để các ông cãi nhau?...
- Chẳng ai thuê nhưng thấy điều ngang tai chướng
mắt vẫn ngứa lưỡi.
- Lưỡi ai cũng ngứa nhưng ở đời đâu dễ nhìn ra lẽ
công bằng? Giờ tay Hoan thế mạnh như chẻ tre trong làng ngoài thôn không mấy ai
không đến cậy nhờ, bênh anh ta cũng giống khen phò mã tốt áo... Có điều chỉ ai
ăn nhạt mới biết thương mèo, rơi vào cảnh bần hàn mới biết sao là cùng khốn.
- A... Ông định ám chỉ tôi là kẻ dửng dưng không
đủ lòng tương thân bác ái chăng?... Vậy ngày cậu Bôn về làng không con trai tôi
dẫn bọn trai tráng tới lợp mái trát tường cho cậu ta thì ai? Lúc đó đâu thấy mặt
bố con ông?...
- Này các ông, sao bỗng dưng cãi cọ như trẻ
ranh... Ðầu hai thứ tóc mà còn háo thắng...
- Tôi chẳng háo thắng, nhưng tôi muốn chỉ ra đâu
là cái tổ con chuồn chuồn...
- Thôi đi ông ơi, nói cách gì cũng phải công nhận
tay Hoan là người quảng đại. Thiếu đâu kẻ giàu, càng giàu càng ăn bẩn... càng
giàu càng đểu càng riết nghiệt.
- Ông nghĩ đúng. Nhưng tôi phải thêm rằng anh ta
là người quá nhiều may mắn... Các ông nhớ hồi anh ta cưới cô Miên không? Lúc đó
họ đâu sẵn của nả như bây giờ, hai vợ chồng cũng trần lưng ra làm như lũ chúng
ta đây chồng một nón mê vợ một nón mê cặm cụi suốt ngày trên nương rẫy. Nhưng
trời phù cho họ, ngón tay họ đụng đến đâu đất nảy vàng nén bạc thoi tới đó. Số
người may mắn như thế chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn lại đa phần là bọn
làng ngàng như lũ chúng ta đây hoặc những kẻ bất hạnh, thua thiệt.
- Ðúng đấy... Ở đời biết ngửa mặt trông lên song
cũng cần biết cúi mặt nhìn xuống. Không phải cứ ăn kẹo uống trà của nhà giàu rồi
chỉ biết khen trà nhà giàu thơm ngon mà chẳng thèm nếm nước vối của đám cùng
đinh...
- Ông lại máy móc rồi... Ông đứng ở bụi duối nào
rình tôi thế?
- Cả đời tôi chưa đứng bụi duối rình ai. Tôi đi
trên đường thênh thênh thấy ông ôm lưng chủ tịch xã cưỡi xe vào nhà tay Hoan.
Sao dám nói tôi rình?
- Ðúng, không riêng tôi mà cả đống người trong
Xóm Núi đã trèo lên sân thượng nhà tay Hoan uống trà. Nhưng không phải vì mấy
chén trà mà tôi ca tụng anh ta. Ðời ông, liệu ông có dám bỏ tòa ngang dãy dọc
do chính tay ông làm ra đi để thằng đàn ông khác tới ở hay không?... Hơn nữa đó
lại chính là kẻ đã từng trèo lên bụng vợ mình?...
- Ðời mỗi người mỗi cảnh chẳng ai ví được với ai.
Bắt chúng ta sống như tay Hoan chẳng được mà bảo cậu Bôn phải đứng lên tự lo liệu
tay làm hàm nhai như chúng ta đây hẳn cậu ta cũng chịu. Chính tôi đã cùng cậu
ta lên nương vỡ đất. Chưa được một buổi nó đã lăn quay. Tôi phải bồng vào bóng
mát, vã nước lạnh cho tỉnh rồi gọi người võng về... Sinh ra đời ai chẳng muốn bằng
chị bằng em nhưng lộc trời vãi không đều may mắn chia không khắp, ta chẳng nên
riết nghiệt với ai...
- Các ông nghe đây này: Tôi chẳng có con có cháu
nên tôi là kẻ duy nhất không chịu ơn tay Hoan. Tôi cũng chẳng phải họ hàng nhà
Tá vậy tôi đứng giữa chẳng thiên vị bên nào. Tình cảnh cậu Bôn đáng thương thật
nhưng hàng trăm kẻ khác ở vào cảnh đó sẽ phải ra đường hoặc vào trại tế bần.
Như thế, trong số những kẻ bất hạnh cậu ta là người trúng độc đắc. Còn tay
Hoan, dù ăn một núi lộc trời, vẫn là trang quân tử đời hiếm thấy. Cứ cho xứ Việt
Nam mình có một ngàn người rơi vào cảnh oái oăm như thế, tôi không dám chắc có
tới người thứ hai cư xử như anh ta...
Những câu lạc bộ ngoài trời của Xóm Núi cứ thế hoạt
động khiến chuỗi ngày bận rộn trở nên thơ mộng hơn và công việc bớt đi đôi chút
nhọc nhằn. Vài tuần lễ qua rất nhanh, dường như không ai kịp nhận biết. Bất đồ
một sáng tiếng kèn mơ hồ từ cánh rừng nào vọng tới. Trong những sóng âm xa vời
man dại người ta tưởng nghe tiếng kêu của bầy nai đang soi mình trên suối, tiếng
kin kít nặng nề của lũ đại bàng đất, tiếng gõ móng lóc cóc của sơn dương và những
cặp hươu đa tình, tiếng thở hồng hộc của những con lợn lòi độc địa thường đi
trên lối vắng vừa đi vừa dũi bật các gốc cây với nỗi buồn miên hành sự hung dữ
trường cửu và khoái lạc tàn phá. Người ta rời khỏi mái nhà, chui từ những vườn
tiêu, vườn cà-phê ra bãi trống hoặc đỉnh đồi nhìn về giải Trường Sơn.
Trong khung trời mênh mông họ mơ tưởng các lối
mòn, giải cát ven suối, những bầy công múa trên vạt cỏ, lũ bướm hoang quay cuồng
quanh lèn đá xám nơi thi thoảng vươn lên những bông hoa dại màu nhung đỏ và vọt
ra những tia nước trong suốt tựa pha lê. Nỗi nhớ rừng mang mang lan tỏa cùng tiếng
kèn mơ hồ kia. Một sáng nào đó cơn mưa bụi là là từ chân trời phía Ðông bay tới,
là là bay từng đám bụi nước như sương trắng như tơ trời. Mùi ẩm ướt của hơi nước
đọng trên da thịt khiến máu chảy rần rật trong huyết mạch những tay thợ săn, những
chàng trai mới lớn và cả những người đã bước tới ngưỡng cửa tuổi già nhưng nỗi
nhớ rừng và khao khát mùa săn chưa thôi cháy. Trưởng phường chưa ra lệnh nhưng
khắp xóm các tay săn đã lôi súng ra lau, kiểm tra đạn và sửa soạn đồ lề khác.
Vào lúc chiều nhạt nắng trên sân nhà trưởng phường họ tụ họp, uống trà. Bà chủ
đem ra một rổ bánh mật nóng hôi hổi, lá gói còn bỏng rảy. Ðám thợ săn vừa bóc
bánh ăn vừa thổi phù phù. Hết bánh họ uống trà hút thuốc và chuyện bắt đầu ròn
như pháo nổ. Sự kiện trọng đại nhất là việc vắng mặt Xá chột. Anh ta đã hạ gấu
ngựa năm trước nữa, lại hạ con lợn độc mùa săn vừa rồi, đầy hứa hẹn để trở
thành trưởng phường tương lai vì dù sao người đang nhiệm chức cũng đã ngót
nghét sáu mươi.
- Tôi tiếc cho cậu ta thật... Cậu ta xứng đáng
hơn tất cả các cậu để giữ vai trò này. Tôi dù sao cũng đã mỏi gối chồn chân.
Ông trưởng phường lên giọng trước tiên, giống như
lời nhắc nhở. Nếu Xá chột không thay thế vị trí của ông, ắt hẳn một ai đó phải
cố gắng để làm chức phận ấy một chức phận không ít vinh hạnh nhưng cũng không dễ
dàng gánh vác. Thường trong mỗi phường có dăm ba tay súng cứng xấp xỉ nhau và sự
ganh đua giữa họ là thứ men kích thích cho mùa săn thêm sôi động. Những kinh
nghiệm thu lượm được sau mỗi mùa, sự đánh giá ngầm ẩn nhưng sắt sói từng đường
đi nước bước của kẻ cầm trịch, và các phẩm chất rèn tập lên bậc thủ lĩnh, ấy là
tất thảy những gì các ứng cử viên nung nấu thèm muốn. Họ thường phải nung nấu sự
thèm muốn đó trong nhiều năm, gắng gỏi trong nhiều năm, và cầu mong sự may mắn
trong nhiều năm mới có cơ hội được bước lên ghế trưởng phường. Riêng với Xá chột,
dường như mọi sự đều xảy ra ngược lại. Cái gã chột đó chưa kịp thèm muốn người
ta nói xưng xưng ra cửa miệng rằng chức trưởng phường nay mai sẽ lọt vào tay gã
không đối thủ, gã chưa kịp rèn tập tư cách thủ lĩnh người ta đã trầm trồ rằng
gã sinh ra để làm thủ lĩnh nghề săn bắn, gã chưa kịp để tâm đến kinh nghiệm nghề
nghiệp mọi người kể cả vị trưởng phường đương chức khả kính cũng phải công nhận
rằng gã đầy thiên năng dường như mười kiếp trước gã đã luôn luôn là tộc trưởng
một bộ lạc sống bằng săn bắn... Và tất cả những ưu thế đó chẳng phải do những
năm chinh chiến đem lại cho gã bởi trong phường săn có tới ngót hai chục tay
súng cựu chiến binh nhưng hoàn toàn bởi một thứ may mắn bẩm sinh đặc biệt người
ta vẫn gọi là trời cho... Vậy mà Xá chột lại từ bỏ cái vinh quang trong tầm
tay, từ bỏ niềm vui sảng khoái nhất, hào hùng nhất trong cuộc sống của gã... Và
đó là điều đám thợ săn không mường tượng nổi cho dù sự vắng mặt của Xá đã đem lại
niềm vui sướng và cơ hội cạnh tranh cho ít nhất năm tay súng, năm ứng cử viên hạng
ruồi này đang thầm lén chuẩn bị và chờ đợi cuộc ganh tài trong mùa săn tới:
- Tôi tiếc thật nhưng dù sao cũng là chuyện đã rồi,
không ai chọn được con đường đi cho kẻ khác...
Ông trưởng phường tiếp tục khi chẳng thấy tay
súng nào lên tiếng:
- Giờ đến lượt các cậu ganh sức trổ tài. Hoa có lứa
đàn bà có thì đàn ông có tuổi, tài giỏi đến mấy vào lúc tuổi già cũng thành kẻ
bại trận. Tôi không muốn cầm cờ cho đến tận ngày ngã ngựa đâu. Các cậu hãy lo
liệu mau mau...
Tới đấy ông ngừng lời và tất cả các ứng cử viên
cùng các tay súng khác đều im lặng. Như vậy, lời tuyên bố đã được chính thức
nêu lên và cuộc cạnh tranh được chính thức khởi động. Xá đã đứng ở giải bờ bên
kia, hoặc nói cách khác ở lại mảnh đất sau lưng họ. Giờ, họ có thể bàn đến anh
như nói tới một láng giềng:
- Vợ Xá nằm ổ được một tuần lễ chưa nhỉ?
- Hơn rồi chứ... Ðể tôi nhẩm xem... mười một...
A, mười hai ngày rồi.
- Tội nghiệp anh chàng, chắc giờ đang lo méo mặt.
- Mày nói gì thế? Có méo cái con đầu b... nó...
Nó đang sướng nhảy cẫng lên thì có.
- Tao đếch tin. Thời buổi này hai ba con nuôi đã
mệt, giờ nó lại lòi ra đứa thứ bốn... Rồi là chết với chính quyền xã.
- Thằng này ù ù cạc cạc lại thích bình phẩm... Chết
làm sao được? Nó tuyệt đối chấp hành chính sách sinh đẻ có kế hoạch, đưa vợ tới
trạm xá ngày đầu tiên trong chương trình đặt vòng phòng tránh thai. Vậy thì
không chủ tịch với bí thư nào dám hoạnh họe. Còn chuyện vài tháng sau vòng rơi
ra và cô Soan có chửa là do trời xui đất khiến, bố ai hiểu nổi chuyện gì xảy ra
trong cái nơi thăm thẳm hỏm hòm hom ấy? Bữa mới đón vợ từ trạm xá về, nó quạc mồm
oang oang trêu vợ: Thế nào cô mình đã thấy con cu của anh đây oanh liệt hay chưa?
Nó húc bắn vòng của chính phủ ra chui vào tận tổ con chuồn chuồn... Thế là bỗng
dưng vợ chồng mình có tứ tử trình làng, oai nhất Xóm Núi nhé. Ðiểm mặt xem, dê
xồm như cụ Phiều quanh năm tẩm bổ cao dê với hột dái dê cũng chỉ đẻ được ba mống
con trai, còn lại cả tiểu đội thị mẹt. Vậy mà cò súng anh đây nổ liền bốn phát
bốn thằng cu...
- Ð... mẹ cái thằng bố láo...
Cả đám phường săn phá lên cười. Ngớt cơn cười,
người ta hút thuốc uống trà râm ran đủ thứ chuyện vặt rồi lát sau một người lên
tiếng:
- Này, cái thằng cha Xá chột biến đằng nào không
thấy? Lẽ ra cũng phải biện cái lễ tạ từ để bọn ta cùng nâng chén lên hạ chén xuống
chớ? Làm thằng đàn ông dù hầu vợ hầu con cũng phải có lúc bỏ đi đàn đúm với
chúng với bạn, không lẽ suốt ngày úp mặt ngửi hơi cái lò ướt ấy hay sao?
Cả bọn lại cười khành khạch, và người láng giềng
của Xá chột cao giọng:
- Cái ông này nói tục bỏ mẹ... Làm như tất tật
đàn ông trong thiên hạ đều thích ngửi con ba ba như ông. Xá chột không còn ở
làng... Nó chỉ chạy đi chạy lại trông vợ còn công việc chính bây giờ là bán cửa
hàng sắt và nguyên vật liệu xây dựng dưới thành phố.
- Ai thuê nó vậy?
- Không ai thuê. Nó giờ là ông chủ. Chủ cũ là chị
họ của Xá, gái quá lứa lỡ thì. Những năm trước Xá chột thường qua lại trông nom
cửa nhà giúp, hoặc khi thuê thợ sửa nhà chữa điện, hoặc coi sổ sách đỡ đần. Nó
học hết cấp ba ngần ấy năm đi lính chữ chưa rơi vãi hết, vả lại nó vốn sáng dạ
nên bà chị cũng nhờ vả được nhiều. Bất đồ năm ngoái bà ta vào Sài gòn vớ được
ông tình nhân, một lão Tài già hơn bà ta đến hai chục tuổi nhưng còn bảnh bao.
Lão này giàu sụ, có tới năm cửa hàng ở Sài gòn và lục tỉnh. Ba đứa con gái đã lấy
chồng ở hết bên Tây còn mụ vợ già chết cũng ngót nghét mười lăm năm, vớ được
người nhan sắc lão mừng hơn bắt được vàng, đòi tổ chức cưới liền. Cưới xong bà
ta thu xếp vào Sài gòn ở hẳn với lão.
Vậy là bỗng dưng Xá chột được hưởng không căn nhà
hai tầng với cửa hàng dưới thành phố.
- Người ta nói đúng thật: Số giàu đem đến dửng
dưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
Khi chưa tới vận đỏ có làm thót hai hột cà cũng
chỉ đủ miếng bỏ vào mồm. Khi đến vận đến thời của nả từ trên trời tự dưng rơi
trúng cổ.
- Trời cũng chỉ một phần thôi chớ?... Cái chính
Xá chột là người tốt bụng, hẳn nó đỡ đần cái bà chị độc thân kia rất nhiều nên
tới khi giàu sang người ta mới trả quả.
- Ðúng. Cứ xem nó giúp cậu Bôn thì rõ. Người dưng
nó còn tốt được đến thế huống hồ có dây máu huyết?... Giọt máu đào hơn ao nước
lã...
- Nghe đâu cửa hàng khá lớn, phải thuê người coi
sóc. Cái chỗ ấy là của cậu Bôn nếu cậu ta sáng suốt khỏe mạnh. Nhưng vì Bôn đã
lẩn thẩn nên Xá mời Bình kều. Tay này chỉ nặng tình với bạn, còn anh em con chú
con bác có cả đống trong làng nó chẳng thèm để mắt tới ai, không phải như ông
nói: Giọt máu đào hơn ao nước lã đâu...
- Thế thì nó dại.
- Biết thế nào là dại với khôn?... Cái ông cho là
khôn thằng khác lại nghĩ là dại và ngược lại.
- Thôi đừng lý sự quèn... Dạo này cậu Bôn lẩn thẩn
rồi ư? Tôi nghĩ là cậu ta khá hơn hẳn thời kì trước. Quanh năm suốt tháng ở
nhà, mưa không tới mặt nắng chẳng tới đầu ăn uống thuốc thang tẩm bổ đều trông
cậu ta vâm vạp lắm.
- Thân sướng đã chắc gì tâm nhàn. Con người ta cũng
như cái máy lâu không chạy thì han rỉ.
- Tôi lại nghĩ con người ta như cái ống, có đầu
vào phải có đầu ra... Ðầu ra của cậu ta bị nút chặt rồi.
- Thằng cha này lại tán bậy... Cậu ta có còn ngó
ngoáy được đâu mà tính đầu ra với đầu vào?
- Ai biết được tổ chuồn chuồn ở chỗ nào?... Nó
còn trẻ thế, lại no cơm ấm cật sao khỏi có lúc dậm dật?... Khốn nỗi cửa buồng
cô Miên lúc nào cũng đóng chặt. Thêm nữa ba gian nhà giữa có một ông đứng lù lù
canh gác, đố mon men được tới gấu quần vợ.
- Vợ hờ thôi... Cô ta có còn yêu nó nữa đâu. Cô
ta sống với tay Hoan bụng chửa to bằng cái trống cà-rình cả làng nhìn rõ mười
mươi, ai dám hồ nghi... Nhưng cô ấy vẫn nuôi cậu ta như nuôi một ông bố già.
Như thế đã là tốt lắm, người đời khó theo được.
- Cậu ta tàng tàng từ hồi nào nhỉ?... Trước gặp
nó thấy ăn nói vui vẻ hoạt bát lắm.
- Nó tàng từ hồi vợ đẻ ra quái thai. Nghe họ nói
cái thai đó là con trai đủ hai tay hai chân lẫn buồi dái nhưng không có đầu. Cổ
nó rất to rất dài trên dính cái màng tròn như bọng đái lợn bên trong có đám
gium trắng bò ngoằn ngoèo lẫn tia máu.
- Sao biết được?
- Bà chị dâu họ tôi bên xã Vinh Quang nằm viện với
cô Miên một ngày. Ông chồng nghe đám y tá xì xào về cái quái thai nên lúc hộ lý
xách đi chôn ông ấy chạy theo vạch xô ra xem.
- Lạ nhỉ?... Xưa nay chỉ nghe quái thai thiếu hoặc
thừa ngón chân ngón tay, hoặc sứt môi sứt mũi... Chưa nghe ai nói quái thai cụt
đầu.
- Nghe như vậy thì chưa hẳn cụt đầu, nhưng không
có xương sọ và mặt. Tôi cho rằng cái đám giun trắng bò ngoằn ngoèo chính là óc.
Các ông ăn óc lợn có thấy hình dạng nó từa tựa như vậy không?
- Thôi đừng nói nữa nghe ghê tai bỏ mẹ... Này, lũ
trẻ nhà tôi đi lùa dê nói rằng hồi này cậu Bôn thường luẩn quẩn trên bãi tha
ma, có đúng không?
- Ðúng đấy, có lúc nó thủ theo con dao rựa. Bữa
tôi đi ngang qua cậu ta chào hỏi tử tế còn rút thuốc mời.
- Ông thấy thế nào?
- Tôi đang vội nên chỉ ngồi với cậu ta được tàn
điếu thuốc, thấy khẩu khí vẫn đàng hoàng tỉnh táo. Duy có điều đôi lúc đang nói
cậu ta lại mỉm cười với ai đó, tuồng như cười với cái kẻ cậu ta đang tơ tưởng rồi
sau đấy cậu ta lại tiếp tục nói chuyện như thường.
- Nó đem theo dao rựa làm gì nhỉ?
- Có lẽ cậu ta định chặt gai tầm ma hoặc cây dứa
dại.
- Nhà nó có làm nghề phù thủy đâu mà chặt gai tầm
ma với dứa dại?... Khéo nó đào mồ đào mả của chúng ta thì nguy.
- Ðừng lo. Mấy ngôi mả nhà ông xây cả rồi chứ?
- Rồi.
- Vậy làm sao cậu ta đào được gạch xây xi-măng bằng
con dao cùn như vậy?... Muốn thế nó phải có xà-beng. Dân Xóm Núi dù giàu dù
nghèo đều đã xây mộ. Duy chỉ còn gia đình cậu Bôn và ngoài ra là ba ngôi mồ vô
chủ từ nhiều đời nay đã lún gần hết, chỉ còn núm cỏ lùm lùm trên mặt đất. Không
lẽ Bôn lại tự tay đào mồ cha mẹ mình... Các ông cứ yên trí, dù ngây ngây chứ
điên thật cũng chẳng đứa con nào đào mả bố mẹ mình.
- Ðã mất trí thì còn hay biết gì nữa?...
- Bôn chưa phải người mất trí. Chỉ vì đau mất con
nên cậu ta hóa ngơ ngẩn. Phần trí não nào của cậu ta bị mất thì linh hồn tiên tổ
và cha mẹ cậu ta sẽ dẫn dắt. Tôi tin như vậy.
- Tội nghiệp... Hồi nhỏ, cậu ta học giỏi lắm, vẫn
thường giúp thằng út nhà tôi làm bài...
Chuyện tới đó ông trưởng phường xách ra sân hai
cây đèn bão vì trời đã nhọ mặt người. Ðặt hai cây đèn lên kệ xong xuôi, ông
quay xuống bếp dõng dạc cất tiếng:
- Thế nào, đã xong mẻ bánh mới chưa?... Xong rồi
đem lên đây cho anh em.
Có tiếng dạ ran của đám đàn bà bao gồm cả vợ cả
con gái cả con dâu của ông rồi không đầy phút sau hai cô con gái ông khiêng lên
một thúng bánh bốc khói nghi ngút, nước từ thúng bánh nhỏ xuống sân thành một
đường ngoằn ngoèo. Ông già quát:
- Chúng bay làm ăn thế hả?... Sao không lấy cái
chậu hứng bên dưới?
Hai cô con gái mặt đỏ bừng hơi lửa chưa kịp chống
chế bà vợ ông đã nói vóng từ bếp lên:
- Chậu đâu... có chậu đây... Rồi bà tong tả xách
chiếc thau đồng lớn đem lên, đặt ngay ngắn giữa sân để hai cô con hạ thúng
bánh. Xong xuôi, ba mẹ con lại thụt xuống bếp, mảnh đất an toàn và vui thú nhất
của họ. Vị gia trưởng lúc đó hài lòng tiếp tục nói:
- Này anh em, ăn bánh uống trà đi. Năm nay hơi hướng
đất trời xem ra êm thuận, tôi đang xem giờ để chúng ta xuất phát. Chút nữa
quên... Tôi báo một tin vui, phường săn chúng ta năm nay tuy thiếu cậu Xá nhưng
lại có thêm hai tay súng mới: chủ tịch xã và anh Hoan, chủ trại Suối Nhỏ. Hai
người cùng tới đây xin nhập hội một lần.
- Chủ tịch xã chiều nào chẳng uống trà trên sân
thượng nhà tay Hoan. Thế nên họ xin nhập hội một lần cũng là lẽ thường. Phải
nói gã nhà giàu này khéo ăn khéo ở thật.
Và thế là đám phường săn lại quay về những nhân vật
chính của cặp vợ chồng tay ba giống như trò chơi đổi chỗ, người chồng thứ nhất,
người chồng thứ hai và người đàn bà quyến rũ bùa phép cả hai gã đàn ông.
Xóm Núi nhỏ bé quá. Trong thế giới nhỏ bé và tù đọng
ấy, niềm vui thoáng qua mau như ánh hồi quang như hơi gió thoảng, nỗi âu sầu quẩn
quanh như thứ khí độc hại và mê say của bùa ngải, như thuốc phiện làm mê đắm và
tê bại hồn người, bởi trong mỗi tâm hồn yếu ớt lẻ loi man dại đó đều chứa mầm mống
bệnh hoạn một thứ thèm khát ngầm ẩn không thú nhận những bi kịch ghê gớm những
giông bão đường đột dù rằng cùng với nỗi thèm khát đó, sự sợ hãi thường trực
đeo đuổi như kẻ đồng hành...
Chương 27
Từ ngày về làng Bôn không nhìn dải Trường Sơn,
nghĩ sẽ chẳng bao giờ còn quay lại nơi đó. Màu xanh điệp trùng ẩn chứa bao kinh
hoàng. Như kẻ từ địa ngục quay về không dám ngoái nhìn con sông không bờ không
đáy phân chia nhân gian với cõi u tỳ anh không muốn nhìn lại dải rừng già con
quái vật vô song con ma cà-rồng thiên hình vạn trạng đã hút cạn máu đã hút kiệt
nguồn sinh lực và tuổi trẻ của anh. Anh muốn nó vĩnh viễn là mồ chôn quá khứ. Tất
cả những gì liên quan tới nó khiến anh hãi hùng. Vì thế khi đám cựu chiến binh
trong làng rủ anh gia nhập phường săn anh từ chối phắt. Vì thế mỗi khi mùa săn
lảng bảng tới tiếng kèn đâu đó vọng về da thịt anh lại sởn gai ốc. Trong tiếng
kèn u uột đó anh nghe trập trùng tiếng kêu của lũ chim ăn xác tiếng thì thào của
các bóng ma tiếng rít của bầy rắn đêm tiếng thở than não nề của gió trong hang
sâu vực thẳm, anh lại nhìn thấy những đám cây quằn quại sôi nhựa xèo xèo trong
lửa na-pan những khúc chân tay bị quăng ném những cái sọ vỡ toang óc trắng nhầy
như cháo nếp... Tất cả những gì đã trải nếm là quá sức đối với tâm hồn và thể
xác Bôn. Ðôi lúc anh hình dung mình đã bước vào dải núi xanh rì kia là một chàng
trai trẻ và ra khỏi nó dưới bộ dạng của xác con cua lột, chẳng còn gì bên trong
lớp vỏ xác xơ. Bôn thù ghét rừng già, vừa thù ghét vừa khiếp đảm. Nó quá lớn mạnh
quá thiêng liêng quá bất trắc quá tàn bạo đối với anh. Anh thèm muốn biển khơi
và bất cứ lúc nào rảnh rỗi anh cũng quay về hướng Ðông nơi mặt trời mọc nơi có
biển có sóng có nghề chài lưới có những đám trai da rám nâu bắp tay bắp chân cuồn
cuộn ngửi hít khí trời giông bão nổi ầm ầm như sóng và chắc chắn ngủ với đàn bà
không mỏi mệt:
... Nếu ta sinh ra trong một làng chài, ta sẽ trở
thành...
Giấc mơ cỏn con và muộn màng vẫn thường lặp đi lặp
lại.
Vậy mà mùa săn năm nay tiếng kèn xa xôi khởi đầu
từ chân trời nào đó vọng tới đã khuấy động tâm hồn thiu thiu ngủ của Bôn. Thoạt
tiên, nó là tiếng nức nở tuổi thơ anh âm vang trở lại. Tiếng nức nở nào?... Anh
không biết. Có thể là trận đòn oan uổng do lũ trẻ láng giềng mách bố mẹ anh hồi
anh bé tí ti, có thể là tiếng khóc sau linh cữu khi họ theo nhau về chầu tiên tổ,
có thể là lời nỉ non hồn tủi vào khoảnh khắc chông chênh khắc nghiệt khi tuổi
niên thiếu chưa qua và tuổi thanh xuân sắp đến anh chợt nhận ra sự thua thiệt
ghê gớm khi phải độc hành bước vào tương lai không một chút gia sản trong tay
không cha nâng mẹ đỡ... Tiếng nức nở nào... anh không nhớ rõ nhưng chúng khiến
tim anh thắt nghẹn:
... Mẹ ơi, cha ơi... Tại sao sinh con ra rồi bỏ
con trơ trọi lại cõi đời... Giá như...
Giá như, giá như... Anh mường tượng cha mẹ anh khỏe
khoắn và giàu sang. Khi anh làm đám cưới cũng như lúc anh trở về họ sẽ dựng rạp
lớn rạp nhỏ mổ bò mổ lợn giết dê mời làng xóm ăn mừng. Vợ chồng anh sẽ sống
trong ngôi nhà khang trang cao rộng như những đứa con cụ Phiều, ông Hơn, bà
Giá... Và rồi họ sẽ nuôi anh tiếp tục học đại học, theo đuổi giấc mơ thời trai
trẻ bị đứt đoạn bởi chiến tranh trong lúc Miên ở nhà coi sóc nương vườn và đẻ
cho anh những đứa con kháu khỉnh. Giá như những nương tiêu của cha mẹ anh đã
xanh rờn, những nương cà-phê đã chín đỏ lúc anh quay về hẳn anh sẽ không phải
cuốc đồi vỡ nương tới ngất xỉu, sẽ không phải sống nhờ đồng tiền của Miên và
không phải cưu mang gia đình người chị bần hàn vô sỉ... Giá như giấc mơ đó là sự
thật, tình thế sẽ khác đi... Giá như, nhưng anh biết chữ giá như đó không có.
Cha mẹ anh hiền lành nhưng vô năng. Họ cần mẫn kiếm miếng cơm như lũ kiến kiếm
mồi và tất thảy mọi ước mộng dồn trút lên vai anh từ khi anh bé tí... “Làm rạng
danh tổ tông, làm dòng tộc nở mày nở mặt với thiên hạ.”... Chao ôi giấc mộng lớn
lao. Khủng khiếp. Họ đã ăn sắn và ăn ngô dành cho anh cơm trắng, họ ăn mắm tôm
vằm ớt sả để xẻ vào bát anh con cá suối bé tẻo teo hoặc miếng thịt lợn vào ngày
giỗ tết. Tình yêu của họ giằng trói anh. Tuổi thiếu niên anh đã gánh lệch vai
giấc mơ khổng lồ kia cái ước nguyện khổng lồ thiêu đốt trái tim trong trắng như
than đỏ trong lò, anh đã lệch vai gánh củi đốt than kiếm tiền đèn sách, anh đã
học đến kiệt hơi như thằng rồ ngoài việc cắm mặt xuống trang sách không còn tơ
tưởng đến bất cứ trò chơi nào thú vui nào khác... Và cánh cửa tương lai đã mở
ra với anh. Vào buổi sáng anh xuống thành phố thi học sinh giỏi toàn diện của tỉnh,
thầy giáo chủ nhiệm lẫn thầy hiệu trưởng đều đưa tiễn anh, đều nở nụ cười lạc
quan và nụ cười đó, trên gương mặt hom hem với hàm răng ám vàng khói thuốc của
họ giống như mảnh bùa hộ mạng dán vào trán anh suốt cuộc chiến tranh đinh ninh
rằng khi ra khỏi cuộc chiến này ném đi tấm áo lính ám mùi khói súng anh sẽ mặc
lại chiếc sơ-mi trắng để bước vào cửa trường đại học, tuy có chút muộn màng về
tuổi tác nhưng vẫn dư thừa niềm tin và sinh lực...
Mười bốn năm trôi qua, trở lại Xóm Núi sinh lực
chẳng còn nhưng niềm tin của anh vẫn đầy ắp. Có lẽ cha mẹ anh giàu mơ mộng và sự
kế thừa cái tài sản phù du đó đem cho anh những thời khắc tột cùng sung sướng,
bay bổng tột cùng trong cõi phù vân. Thay vì ước mộng bước vào trường đại học
anh mơ tưởng sẽ trở thành chủ trang trại với người đàn bà anh yêu, anh mơ ngày
anh giàu có đủ tiền xây mồ cho cha mẹ, đủ tiền làm một chuyến du lịch khắp đất
nước thăm những gia đình bạn hữu, đồng đội, người còn cũng như kẻ mất trước hết
là bà cô tiểu đội trưởng. Mơ mộng và mộng mơ... Không có chúng làm sao mà sống
được?... Nhưng có chúng người ta cũng chẳng thể sống bình an. Vào buổi sáng
Hoan bước vào căn buồng tồi tàn của anh, anh biết mọi sự đã hết. Cái người đàn
ông cao lớn da trắng môi đỏ mái tóc đổ xuống trán mềm và bóng như tóc đàn bà đó
đã khiến anh đứng sững giữa sân, nghẹt thở. Chính hắn, chính anh ta, chủ sở hữu
chiếc quần thun màu xám sọc đỏ. Trong giây lát, mắt mũi anh tối sầm, toàn thân
anh run bắn, và mồ hôi bắt đầu toát dọc sống lưng. Phải, chính người đàn ông
đó. Anh ta giống cái gì đó đã từng quen thuộc và từng làm anh khiếp sợ?...
Không phải một người bằng xương bằng thịt, nhưng là một thứ thật khủng khiếp,
mơ hồ, vĩ đại, bí ẩn, đầy quyền năng... Sau cơn choáng váng dài, rất dài tưởng
như không bao giờ chấm dứt, Bôn đã lấy lại được hơi thở và anh hiểu người đàn
ông cao lớn đường bệ có vẻ quyến rũ dịu dàng đó là ai: Anh ta là dải Trường Sơn
thứ hai, một thực tế toàn năng, một ông trời tàn bạo dưới dáng vẻ ôn hòa, kẻ sẽ
thế chân dải rừng già khắc nghiệt kia phá hủy nốt phần đời còn lại của anh, con
ma cà-rồng sẽ hút cạn tới giọt cuối cùng hy vọng và niềm vui sống còn rơi sót.
Thế là hết.
Những ngày sau đó trôi qua ra sao, anh không nhớ.
Miên đi rồi gian phòng của anh chỉ còn là mái lều hoang, nơi lũ con Tá cùng đám
gián chuột tha hồ kiểm soát, nơi thấp thoáng bóng ma xưa thăm hỏi khi là tiểu đội
trưởng khi là cha mẹ anh hoặc một vài đồng đội cũ người nào cũng vội vàng người
nào cũng câm lặng nhìn anh với cái nhìn xanh xao vàng vọt người nào cũng giơ
lên những đốt xương tay vẫy chào anh khi đứng ở ngưỡng cửa buồng. Bao lần anh gọi
họ, chẳng ai đáp lời, kể cả tiểu đội trưởng. Vì sao, anh không rõ, đồ chừng các
bóng ma không thể cất lời ở những nơi nhiều dương khí. Lũ con Tá và đám trẻ
láng giềng khiến họ câm nín và chắc hẳn anh phải ra bãi tha ma hoặc đồi hoang nếu
muốn cùng họ chuyện trò. Nhưng anh ốm, không thể cất lưng khỏi giường, anh nằm
ngày này qua ngày khác thi thoảng ăn bát cháo do cô Soan hoặc lũ con Xá chột
đem tới, ăn vài củ khoai luộc do Tá mang vào. Những ngày ấy khung trời ngoài cửa
bị chôn vùi trong mây khói. Anh không thấy màu trời, không thấy các đám mây
không thấy cả những ngọn soan xác xơ vẫn thường đong đưa nỗi cô đơn sầu muộn.
Anh chỉ hồi nhớ cánh cửa đã một lần hé mở trước mắt anh, cánh cửa tương lai.
Anh nhớ cậu thiếu niên hăm hở xuống thành phố, nhận phần thưởng cuộc thi cả
gương mặt lẫn hai mang tai nóng ran máu chạy rần rật như kiến bò, anh nhớ tiếng
cười xưa cũ... Tất cả ở trên một chuyến tàu chuyến tàu đó chạy đã xa bỏ lại anh
trên sân ga hoang phế.
... Ta là kẻ lỡ tàu, chuyến tàu đó không bao giờ
quay lại. Sân ga chỉ còn cỏ lẫn lá khô, không hành khách đợi tàu, không cả dấu
vết con tàu cũ... Phải, ta đã nhầm, con tàu cuộc đời chỉ chạy một ca, đã rời ga
không còn trở lại...
Anh đã mang quá nhiều ước vọng và niềm tin, thứ
ánh sáng nổi trôi trên dòng nước, càng đuổi bắt chúng càng tuột khỏi tay. Mười
bốn năm chiến tranh. Cánh cửa nào đóng trong mười bốn năm cũng rỉ sét không còn
cơ mở được.
... Ta là kẻ lỡ tàu. Kẻ trắng tay không còn cơ để
tự lừa dối bản thân thêm một lần nữa...
Ðó là lần đầu tiên anh tự thú nhận rằng anh đã tự
lừa, tự huyễn mình suốt thời gian qua. Vào lúc anh bấu chặt tay cánh tay người
nữ hộ sinh gào lên:
- Con tôi đâu? Cô giấu nó ở đâu? Cô đánh tráo nó
cho ai rồi?
Trái tim anh đầy tràn phẫn nộ và ráo rốt khao
khát. Anh nóng lòng nhìn thấy đứa con trai, hy vọng duy nhất cây cầu duy nhất nối
anh với tương lai, anh đinh ninh rằng người ta đã đánh tráo nó cho kẻ nào đó
khát đứa con thừa tự người ta đã sắp đặt những âm mưu để lừa dối anh một gã đàn
ông hiền lành miền sơn dã. Nhưng người nữ hộ sinh to lớn có gương mặt vuông đã
quay lại nhìn anh với cặp mắt lạnh như nước đá. Cái nhìn đó rọi thẳng vào mắt
anh, uy nghiêm. Rồi hất mái đầu lờm xờm một cách giận dữ, cô ta cất tiếng:
- Anh nói bậy bạ gì thế?
Bôn không đáp, chỉ lập lại câu hỏi:
- Con tôi đâu? Cho tôi xem....
Cô ta gằn giọng:
- Có thật anh muốn xem không?
- Có.
Bôn gào lên tức khắc. Người hộ sinh nắm lấy cánh
tay anh kéo xềnh xệch vào phòng trong, căn phòng trắng toát như tấm khăn tang
và rồi ở đó, cô ta kéo chiếc xô loảng xoảng trên nền gạch lát, mở chiếc nắp xô
cũng với cử chỉ dữ dằn như vậy:
- Ðó. Con anh đó. Cúi xuống mà xem.
Anh cúi xuống. Cái đó. Cái vật đó. Cái thai đó.
Con anh. Tất cả những gì còn lại trong tương lai và cho tương lai của anh...
Anh không dám tin. Một khúc thịt đỏ bầm nằm giữa đám máu lầy nhầy, hai tay và
hai chân co lại. Một bộ não hiện lờ mờ dưới tấm màng, như bộ óc người ngâm
trong lọ phoóc-môn phòng thí nghiệm trường cấp ba tỉnh. Cái cổ bào thai phình
to, giống như quả da ếch. Và không còn gì nữa. Trời ơi, anh đã tơ tưởng bao
nhiêu ngày, thầm ước mắt nó giống anh, còn sống mũi làn da khuôn miệng và thân
hình giống Miên bởi anh biết anh chỉ có một thứ khả dĩ là đôi mắt. Anh đã đợi
chờ phút nó mở mắt để soi mắt anh vào mắt nó để nó hướng về anh cái nhìn trong
trẻo bởi ánh sáng trong đôi mắt nó là tất cả nguồn sáng chiếu rọi tương lai
anh, bù trả anh khung trời đã mất. Nó là sức mạnh của anh, là lý do để anh tồn
tại. Ðôi mắt đó không có. Không có cả gương mặt của Miên, sống mũi và khóe môi
của Miên. Không gì hết.
... Tại sao con người không chết đi khi họ chẳng
còn gì để sống?
Anh đã tự hỏi anh bao nhiêu lần. Bấy nhiêu lần
anh ra lệnh:
... Mình phải chết. Cần phải chết. Càng nhanh
càng tốt. Một sợi dây thôi. Xà ngang đủ chắc chắn để thực hiện điều đó...
Và sau bấy nhiêu lần anh vẫn nằm dán lưng trên
giường, khi Soan đem cháo tới anh ngồi lên lau mặt bằng tấm khăn bông lâu chưa
giặt ăn bát cháo nóng do người đàn bà hồn hậu kia nấu rồi lại tiếp tục lau mồ
hôi bằng tấm khăn bông, vừa lau vừa lơ mơ cảm thấy một cơn khoan khoái nhẹ
nhàng nâng đỡ tâm hồn cùng thể xác.
... Mình yếu đuối quá. Mình nhát nhúa quá... Có lẽ
vì cha mẹ đã ngăn cản, hoặc vì chưa đến số và trời phật chưa cho phép lìa bỏ
cõi trần... Mẹ ơi, sao mà nhớ mẹ...
Anh nghĩ. Sau ý nghĩ đó anh ngủ thiếp đi.
Một sợi dây mong manh lung linh nối liền cuộc sống
của anh với cõi xa mù, nơi đó có bóng dáng một người đàn bà. Mẹ anh, Miên, người
đàn bà Lào câm điếc hay những cô thanh niên xung phong những thôn nữ anh gặp
trong những cuộc gặp gỡ chóng vánh hối hả ven lề chiến tranh? Bôn không biết.
Nhưng anh biết đó là đàn bà. Anh ngửi thấy mùi đàn bà. Anh cảm thấy từ trường của
họ mùi mồ hôi mùi da thịt mùi tóc và hơi nóng thần bí toát ra từ thân thể họ. Sợi
dây mong manh đó giằng trói anh.
Buổi sáng Miên quay lại đem cho anh liễn cháo gà
nóng hổi anh đã nhìn chị như nhìn một người đàn bà mới lạ, vừa là người đã từng
cùng anh chăn gối vừa như ai đó vừa bước tới từ một cõi đất khác chân trời
khác. Buồn và tủi, vui sướng lẫn hững hờ, anh xúc cháo ăn không hiểu vì sao vị
cháo ngon lành đến thế và gương mặt chị không còn khiến anh say đắm hãi hùng.
Gương mặt đó đã ở ngoài khung trời của anh.
... Miên và chẳng còn là Miên...
Ý nghĩ đó được lặp lại, một cách mạch lạc hơn và
thanh thản hơn. Mùi cháo thơm nức khiến anh bị lôi cuốn. Khi những giọt mồ hôi
lớn toát ra đầy mặt, đầy cổ anh đặt bát cháo xuống rút khăn lau. Càng lau, anh
càng thấy dễ chịu. Thân xác anh nhẹ bổng như mây, và tâm hồn anh bình lặng. Ngọn
triều đã rút. Và bãi cát phẳng lì phơi trong nắng ấm.
Ngày thứ ba Miên tới, chị bảo anh hãy về cùng với
chị. Bôn ư hử nhưng trong thâm tâm, một tiếng đáp tức khắc bật lên: Sao không?
Miên và chẳng còn là Miên ngày xưa. Nhưng một người đàn bà. Miền yên ấm. Giải
cát phẳng lặng ven biển khi thủy triều đã lùi xa...
Anh thầm nghĩ và mường tượng giải bờ cát anh đã
thấy hồi trai trẻ. Cái sợi dây mong manh lung linh kia nối anh với một người
đàn bà, anh chỉ nhìn thấy tấm lưng mà không rõ mặt. Tấm lưng thon nhỏ với cái
hông đong đưa mỗi bước chân... Miên, mẹ anh, người đàn bà Lào câm điếc, các cô
gái dọc đường hành quân? Người đàn bà có thể mang bất cứ gương mặt nào bởi vì mặt
họ ẩn giấu trong sương mù anh chỉ nhìn rõ eo lưng, cặp mông dày và cong, cái
hông đong đưa theo nhịp bước.
Khi ngọn gió thổi tới mùi thơm của tỏi xào rau muống
anh bỗng nhớ mẹ xống xang gan ruột. Anh xách ba-lô quần áo theo Miên, đúng hơn
là theo sau cái người đàn bà vô tên tuổi đã níu giữ anh với trần thế bởi một sợi
dây lung linh huyền ảo. Anh không để ý ánh mắt tò mò của làng xóm cũng không để
ý tới bất cứ ai anh gặp trên đường, anh chào hỏi họ nhưng tâm hồn anh chìm đắm
giữa sương mù kỉ niệm. Mùi rau muống xào tỏi đem lại cho anh nỗi êm dịu khôn
cùng. Vừa đi anh vừa mỉm cười:
... Mẹ biết không, bao nhiêu lần con đã được tiểu
đội trưởng khen vì xào rau muống với tỏi ngon tuyệt... Ấy là nhờ món ăn tủ của
mẹ. Hình như trước kia không phải bà ngoại mà là một người bạn lấy chồng dưới
phố đã dạy mẹ cách xào rau?
Mẹ mỉm cười. Bà không trả lời nhưng lại vạch áo
cho anh thấy bầu vú trái có một nốt ruồi lớn bằng nửa hạt gạo. Hồi nhỏ anh vẫn
thích mân mê cái nốt ruồi đó... Anh đưa tay rờ vú mẹ và thấy tuổi thơ ấu tái hồi.
... Mẹ ơi, con nhớ mẹ...
Anh kêu to. Mẹ vuốt tóc anh rồi bay đi, bay như một
đám khói bốc lên từ miệng nồi cơm vừa bắc trên bếp than xuống. Anh đã sống dưới
mái nhà của Miên, như người khách, như người thân, như người bạn cũ:
... Ờ, có sao đâu? Chúng ta đã từng yêu nhau từng
là vợ chồng và giờ đây là bạn. Như thời tiết luân chuyển, tàn hạ sang thu. Căn
nhà này đặt trong từ trường của Miên, của người đàn bà, người thân thiết...
Anh dần quen cuộc sống mới. Ăn cơm sáng với ông
Lư, ăn cơm trưa với ông Lư, ăn cơm tối với ông Lư. Khoảng sau bữa cơm tối, có
tiếng xe máy ngoài cổng, và Miên dắt con trai vào. Chị vừa bước lên thềm vừa cất
tiếng:
- Hôm nay ở nhà mọi người ăn gì thế?
Khi là ông Lư và khi là anh đáp lời:
- Chúng tôi ăn canh dưa nấu cá với lạc rang.
Hoặc:
- Chúng tôi ăn trứng tráng với rau luộc.
Hoặc:
- Hôm nay chúng tôi bắt con gà nấu cháo.
Miên rút trong làn khi vài trái cây mua từ thành
phố, khi phong bánh mới hoặc gói kẹo đặt lên bàn:
- Bác Lư cất đi để hai người uống trà.
Sau thủ tục đó chị đem con xuống nhà tắm rửa ráy,
thay quần áo cho cả hai mẹ con rồi vào buồng riêng. Bao giờ chị cũng xách theo
cái bô tráng men để không phải rời khỏi buồng ban đêm. Sau đó chị gài chốt cửa
và khóa lại. Bôn nghe rất rõ tiếng chốt cửa sau đó tiếng khóa xoay trong ổ. Những
tiếng động đó đâm nhói vào tim anh, nhưng vì nỗi đau đớn nào, anh không muốn hiểu
và không muốn nhớ. Sáng hôm sau, Bôn chưa thức giấc Hoan đã tới đón mẹ con
Miên. Thường khi anh rời khỏi giường cũng là lúc tiếng động cơ từ ngoài cổng nhỏ
dần rồi tắt hẳn.
... Miên đi rồi. Nhọ mặt người cô ấy mới quay lại...
Anh thầm nghĩ rồi xuống bếp uống trà với người quản
gia. Và ông Lư tức khắc bắt chuyện, lúc nào ông già gầy như hạc này cũng có
chuyện để nói, cặp mắt già nua dường như không bao giờ mỏi mệt và đôi tai dường
như không bỏ sót một tiếng động nhỏ nhoi nào. Bôn nghĩ rằng ông ta biết tất cả
những gì anh nghĩ nhưng với vẻ câm lặng ôn nhu ông tỏ ra trìu mến với anh.
Chính ông đã sắc thuốc cho anh uống, những thang thuốc Miên nhờ người cắt dưới
thành phố. Chính ông hỏi và nấu những món ăn anh ưa thích. Cũng chính ông bày
cho anh cách ngâm chân vào nước muối nóng trước khi đi ngủ cách xoa bóp lưng lẫn
hai đùi khi vừa thức giấc. Trong ngôi nhà thênh thang lẫn vườn tược thênh thang
ấy, mối gắn bó giữa hai người đàn ông côi đơn cũng dễ nảy sinh. Khỏe dần lên,
Bôn theo ông lên coi sóc các nương tiêu nương cà-phê, một ngày ông chợt hỏi:
- Ông có còn giữ ý định làm nương riêng nữa
không?
Bôn lúng búng không trả lời được. Khu đồi xã phân
cho anh bỏ hoang lâu giờ đã cho một cặp vợ chồng trẻ khai phá tuy danh nghĩa chỉ
là cho mượn. Cặp vợ chồng này đang tuổi trẻ bẻ gẫy sừng trâu lại đang cơn khát
khao tát cạn biển Ðông nên họ làm ngày làm đêm và giờ đây những cây tiêu đã leo
cao già non một thước. Tuy chẳng có văn bản, luật lệ nhưng dù muốn Bôn cũng
không thể đòi lại đất, mảnh đất đang sắp sửa hái ra tiền nhờ tưới đẫm mồ hôi kẻ
khác. Thấy anh lúng búng ông Lư nói tiếp:
- Tôi thấy bà Miên đối với ông rất tốt.
Biết người quản gia dò ý, anh đáp:
- Tôi rõ điều đó.
Ông cụ gật đầu:
- Ông là người đã từng luân lạc, chắc hiểu sự đời.
Chẳng có nơi nào là cõi tiên dành cho đám người trần mắt thịt như chúng ta nhưng
cũng có nơi đất lành nơi đất dữ. Chim đã mỏi cánh rồi gặp đất lành thì đậu lại.
- Tôi biết.
Bôn lặp lại câu trả lời cũ và hiểu rằng người quản
gia đã nói lên ý nguyện của Hoan và Miên, họ sẵn lòng nuôi anh cho tới mãn đời
trong vai trò người anh hoặc người bạn hoặc người quản gia thứ hai cùng ông Lư
chăm sóc vườn tược, nhà cửa một khi anh đã hoàn toàn bình phục và muốn làm việc
để tránh sự buồn chán trong cảnh ăn không ngồi rồi. Anh sẽ được chấp nhận dưới
mái nhà này tới lúc chết nếu anh giữ đúng bản hợp đồng ấy.
... Người chồng ngày xưa và người bạn ngày nay.
Ta sẽ ăn cơm nơi Miên từng nấu cơm, ta sẽ sống dưới cùng mái nhà với Miên nhưng
ở đầu này hồi nhìn sang đầu hồi bên kia như kẻ đứng bên này nhìn sang bờ sông
bên kia và giữa hai bờ không phải dòng nước trôi mà là dầu cháy... Nhưng có
sao, đời đẩy đưa đến cảnh trớ trêu này. Ta đã theo Miên về đây không phải như
người chồng theo vợ mà là kẻ mồ côi đi tới nhà bảo trợ, như kẻ bị bỏ rơi tìm tới
miền đất ấm...
- Ngày hôm nay trời đẹp thật.
Bôn bỗng thốt lên dù anh chẳng hề đưa mắt nhìn trời
mà đang đăm đăm nhìn chùm cà-phê non nơi kẽ lá. Người quản gia chớp mắt rồi
đáp:
- Dạ. Trời đẹp thật. Thời tiết thuận, mùa này hẳn
bội thu.
Họ không nói gì thêm.
Từ ngày họ nói chuyện đó tới hôm nay bao nhiêu tuần
trăng trôi qua. Bôn ngỡ rằng anh đã hoàn toàn thích ứng với cảnh sống mới nhưng
chợt một đêm nào đó cơ thể anh nổi loạn. Anh không ngủ được. Những đợt sóng u
cuồng râm ran nổi lên trong da thịt trong máu huyết. Những đợt sóng không thể
làm an dịu. Không gì làm nguôi dịu. Chúng cuộn lên, cuộn lên dập dồn dập dồn
khiến anh như tắc thở, chúng tràn qua tim anh nhận chìm nó dưới những xung đột
hối hả không ngưng nghỉ, chúng vọt lên óc não anh đập tan mọi ý nghĩ, che phủ mọi
hình ảnh và chỉ còn lại duy nhất cái hình ảnh trần tục và dâm đãng của những
con đàn bà cởi truồng, những con vật giống cái lang thang trong rừng anh từng bắt
gặp. Hình ảnh dâm đãng ấy mỗi lúc mỗi nở phồng lên, như được chiếu vào tấm
gương phóng đại, nó choán hết tâm trí anh không cho anh lối thoát lui. Anh bóp
chặt hai thái dương nóng rực, anh nằm úp mặt xuống chiếu cố tình dùng sức mạnh
trấn áp cơn ham muốn, anh nghiến chặt hai hàm răng để khỏi bật ra tiếng rên rỉ.
Tất cả đều vô hiệu. Những đợt sóng u cuồng chuyển sắc, từ màu đỏ sang màu đỏ bầm
của máu đọng rồi màu tím dữ dằn của ráng mây chiều giông gió. Trong huyết mạch
anh không còn máu mà chỉ còn những dòng chì nung lỏng, sôi sục, thiêu đốt khoan
xoáy làm tê bại thân xác lẫn tâm hồn, và từ trong cái thân xác quằn quại đó
trong cái tâm hồn điên dại ấy bỗng vụt lên tiếng thét:
... Miên, Miên... Em là người đàn bà của tôi, của
tôi...
Ngồi bật dậy, anh bóp chặt hai đầu gối để chống lại
ý muốn chạy sang căn buồng gian hãm người đàn bà của anh, húc đổ cánh cửa dù nó
được gài chốt và được khóa bằng ổ khóa lớn hơn cả bàn tay... Anh đủ sức đập tan
bất cứ ổ khóa nào đủ sức khá vỡ bất cứ cánh cửa nào... Thời gian đã trả lại cho
anh sức lực. Anh đang còn trẻ. Anh mới ngoài tuổi ba mươi... Nhưng anh vẫn bóp
chặt hai đầu gối vì hiểu mình đã bị trói buộc bởi một hợp đồng.
... Miên không còn yêu ta nữa... Mọi cố gắng đều
vô ích... Bởi ta không thể cưỡng ép cô ấy yêu ta...
Phần lý trí sót lại trong anh lên tiếng. Nhưng tức
khắc một tiếng nói khác mãnh liệt hơn hung dữ hơn rốt ráo hơn đáp lại:
... Nhưng ta yêu Miên, ta đã tìm lại đường về,
tìm vầng trăng bằng chính sinh mạng mình, những ngày chui lủi vượt rừng chống lại
đói khát muỗi vắt và các bóng ma thù nghịch... những ngày ấy đã hút kiệt sinh lực
của ta. Trái tim ta hàng ngàn lần tưởng vỡ vụn vì sợ hãi, ta đã phải tự trói
mình vào thân cây ban đêm giấc ngủ mong manh mướt lạnh mồ hôi vì tiếng rít của
trăn gió và rắn độc, ta đã phải sống như thú vật bằng cây củ và lá rừng... tất
cả những nhục nhằn ấy là vì em... Em không có quyền đuổi tôi ra khỏi trái tim
em. Tôi đã đánh canh bạc này bằng chính cuộc đời tôi, hoặc tôi phải được chia
phần hoặc tôi chết...
Mắt anh mờ đi, mồ hôi anh vã đầy ngực lẫn hai bả
vai. Anh giật cửa ra ngoài.
- Ông không ngủ được hay sao? Ra uống nước chè với
tôi. Ðêm nay tôi cũng chẳng làm sao chợp mắt...
Người quản gia cất tiếng. Ông ta đang ngồi trước
khay trà, ngọn đèn đêm đã được khêu to và dường như tất cả đã sắp đặt:
- A... bác đã dậy rồi ư ư?
Bôn lúng túng đáp hai thái dương vẫn nóng ran.
Ông già Lư đứng lên đổ thêm nước sôi vào ấm trà,
ung dung đáp:
- Tôi chưa ngủ... Người già thường ít ngủ.
Và không chờ anh trả lời, ông nói tiếp:
- Trà ướp nhài đợt này thơm lắm, mời ông ra uống
cho nóng. Tôi vừa bóc phong bánh đậu xanh bà Miên đưa ngày hôm qua. Ăn thứ bánh
này với nước trà thật phải vị.
Bôn không nói được gì, anh đi tới kéo ghế ngồi đối
diện với người quản gia tâm hồn sục sôi căm uất:
... Thằng già này đúng là con chó săn của tay
Hoan. Sẽ có ngày ta cho mi về chầu tiên tổ...
Anh uống trà, nói vài câu nhạt nhẽo với người quản
gia hiểu rằng tất cả những thiện cảm ông ta dành cho anh chỉ là chút tình
thương phổ biến giữa con người với con người và điều hệ trọng là chính ông, người
gác ngục tận tụy trung thành sẽ không bao giờ cho phép anh được bước tới cánh cửa
buồng của Miên, người đàn bà của anh hơn mười sáu năm trước, người đàn bà của
Hoan bây giờ. Anh uống liên tiếp hai chén trà và tâm hồn anh rền rĩ:
... Ðồ chó săn già, mi đã bao giờ yêu chưa nhỉ?
Mi cũng có tuổi trẻ, không lẽ mi chưa từng yêu chưa từng thất tình chưa từng bị
thân xác dày vò hành hạ?
Người quản gia đổ ấm trà cũ, tra nhúm trà mới rồi
chế nước sôi, mọi cử chỉ khoan thai. Ðôi mắt ông chăm chú nhìn vào ấm pha trà
nhưng Bôn biết rằng chúng không bỏ sót hành vi nào của anh và hẳn chúng cũng đọc
thấu những gì anh nghĩ. Ngọn đèn đêm mọi ngày vẫn đặt trên nóc tủ chè, đêm nay
được khêu tỏ đặt ngay trên mặt bàn uống nước, sát căn buồng của anh. Vẻ mặt ông
già chứng tỏ ông đã thức dậy từ lâu, đã nghe rõ tiếng thở hổn hển và những cơn
vật vã của anh. Mọi dáng nét, cử chỉ lẫn cặp mắt trầm tư bình thản kia chứng tỏ
ông đã tính mọi đường đi nước bước để phòng thủ, và nếu anh có manh động hẳn cũng
chẳng thu được chút hy vọng nào.
... Ta không thể làm gì được sao? Ta phải sống
trong ngôi nhà này như một bóng ma sao?
Trái tim anh tiếp tục rền rĩ và anh tưởng anh có
thể chồm qua bàn dáng cây đèn pin hoặc chiếc giá nến đồng vào cái sọ già nua của
ông Lư. Nhưng phần tinh khôn sót lại trong óc não anh run sợ. Anh biết con người
đó mạnh hơn anh, khôn ngoan hơn anh, tỉnh táo hơn anh, nhiều ưu thắng hơn anh.
Vài lần, đi ra nghĩa địa làng anh thấy lũ trẻ đi theo. Thoạt đầu, anh tưởng
chúng cùng đi chơi nên quay lại vui vẻ chào hỏi, chuyện trò. Nhưng lần sau, anh
chợt nhận thấy nỗi tò mò và sự sợ hãi trong mắt chúng, và dù đi theo anh chúng
vẫn chuẩn bị sẵn sàng tư thế quay một trăm tám mươi độ để tháo chạy. Lúc đó,
anh nghĩ người đời vốn sợ những kẻ hay lân la ngoài nghĩa địa cho rằng họ thường
dắt lối đưa đường cho ma quỷ về thôn xóm trêu ghẹo dân chúng. Nhưng có một ý
nghĩ khác lờ mờ ẩn núp sau ý nghĩ đó giống như bóng đen núp sau pho tượng trong
chùa. Anh sợ. Anh không dám nghĩ tiếp...
Giờ đây, cái bóng đen phía sau ý nghĩ của anh lại
hiện về:
... Phải chăng lũ trẻ tò mò kia có lý?... Ta điên
chăng? Hay ta đã mắc căn bệnh bất thường nào đó mà tất cả mọi người cả Miên cả
ông Lư đều không nói cho ta biết?...
Một con bướm đêm to tướng bay qua cửa sổ vào nhà,
chập chờn múa lượn quanh cây đèn ánh lửa xuyên qua đôi cánh bướm nhuộm thắm những
nét vẽ những đốm màu khiến con bướm đẹp một vẻ đẹp anh chưa từng nhận biết. Bôn
đặt chén nước xuống, mê mải nhìn con bướm chợt nhớ một mùa Xuân xa xôi, anh
cùng Toàn béo, Hải đen đứng ngắm lũ bướm vờn quanh lèn núi. Hàng triệu con bướm
cùng bay lượn hân hoan rối rít chấp chới lộng lẫy. Vũ điệu của chúng làm quay
cuồng rừng núi. Ba thằng lính nhẩy cẫng. Lần đầu họ thấy một cảnh kì diệu đến
thế. Những năm sau màu sắc rực rỡ của lũ bướm xuân không còn cuốn hút họ như
trước, họ không còn đứng hàng giờ ngắm chúng múa lượn, lò dò trên bãi cỏ rình
những đôi bướm giao phối rơi xuống. Lũ lính trẻ quay sang rình những cặp khỉ phủ
nhau. Một lần, họ bắt gặp một cặp đười ươi trong cơn say mê tình ái. Cặp đười ươi
đó rất giống người, động tác làm tình cũng vậy, chúng dai dẳng đến độ người ta
thần phục và thèm muốn. Bôn hình dung lại cảnh tượng đó, anh nhìn thấy bộ mặt
con đực nằm trên, tiếng rên, vành môi nhếch nhe những chiếc răng trắng nhởn...
Trong giây lát máu trong cơ thể anh sôi trào lên, anh khép chặt hai đùi nốc cạn
chén trà thứ ba rồi nói với người quản gia:
- Bác ngồi uống trà nhé... Tôi đi ngủ.
Ông già gật đầu:
- Ông đi đi. Ðêm nay chắc tôi không nhắm mắt được.
Anh vào buồng gài chặt chốt cửa như để tự ngăn cấm
vì ngày thường không có lý do nào làm việc ấy. Ðoạn anh lên giường phủ phục mặt
úp xuống gối như đứa trẻ sắp phải ăn đòn, hai bàn tay nắm chặt:
- Thôi đi thôi đi thôi đi...
Anh tự nhủ. Nhưng không thôi được. Bộ phận kín cương
cứng như con ngựa chiến sung mãn chờ phút sổng khỏi chuồng. Nó thống lĩnh tâm hồn
cùng thể xác anh. Anh không thể nghĩ tới điều gì khác. Màn hình trong óc não
anh chỉ hiện lên hình ảnh duy nhất là hình ảnh cặp đười ươi đang làm tình. Cặp
vợ chồng khỉ đểu giả đó không ngừng lôi cuốn anh, kích thích anh, kể từ giây
lát trí nhớ lôi cuốn chúng khỏi cánh rừng dĩ vãng. Anh nhớ lại từng tiếng kêu
khoái lạc của chúng, từng động tác nhỏ nhặt trong giao phối, cánh mũi chúng nở
to trong cơn hứng tình, vẻ mệt nhọc đờ đẫn sau khi thỏa mãn...
.... Trời ơi, sao tôi khốn khổ thế này?...
Tâm hồn bầm giập của anh kêu thét lên. Và bỗng
dưng anh căm ghét cái nhúm thịt thừa giữa hai bẹn mình, cái cục thịt thối tha
đã hành hạ anh một cách giảo quyệt tàn nhẫn. Khi anh cần nó hùng mạnh, anh vỗ về
chăm chút nó bằng đủ loại thuốc lẫn các món ăn bổ dưỡng thì nó rũ xuống như lá
cờ buộc ở đầu gậy thằng chăn vịt. Khi anh cần nó an nhu, chấp thuận một đời sống
êm lành chay tịnh thì nó dựng ngược lên, kêu gào cơn thỏa mãn dục tình:
... Ðịt mẹ mày... Ðịt con mẹ mày nhé...
Anh thầm cất tiếng chửi, giống năm nào anh chửi lũ
kền kền đã moi ruột tiểu đội trưởng trong rừng khộp xem như cách thức bắt buộc
để khạc nhổ nỗi uất hận trong lòng. Nhưng nhúm thịt đểu cáng thối tha kia điếc
đặc, nó không chịu nghe chửi, nó cứ ngỏng lên một cách lì lợm và tàn nhẫn. Bôn
đành thọc tay vào trong quần, tìm mọi cách làm nguôi dịu cái bộ phận cơ thể đã
phản bội đã trở thành một con vật xa lạ quái dị, ở ngoài mọi điều anh nghĩ và
anh muốn.
Chiều hôm sau Bôn chờ Miên về. Anh vờ bế cu Hạnh
mặc dù thằng bé luôn luôn giữ vẻ xa cách và dè chừng. Khi Miên xuống nhà tắm
anh bế đứa bé xuống theo, chặn chị ngay ở cửa phòng tắm:
- Miên này, tôi có chuyện muốn nói.
Miên quay lại nhìn anh, anh biết chị đã hiểu điều
anh muốn nói. Chính chị lên tiếng trước:
- Anh Bôn, em đã nói rồi. Chúng ta không còn tình
nhưng còn nghĩa. Và em sẵn lòng coi anh như anh trai mình. Ngoài ra, không thể
có gì hơn.
Anh gật đầu:
- Tôi vẫn biết thế. Nhưng tôi không thể sống mãi
như thế này. Tôi biết Miên có người đàn ông khác nhưng tôi vẫn yêu Miên, tôi muốn
có phần của tôi.
Chị nhìn anh bằng cặp mắt lạ lùng:
- Em không hiểu.
Anh gắng nuốt nước bọt, gắng ghìm giữ nỗi nhục và
nói tiếp:
- Chuyện thường thôi... Ngày xưa người đàn ông có
năm thê bảy thiếp. Giờ chúng ta cũng có thể chung sống hòa bình theo kiểu đó...
Tôi không dám đòi hỏi nhiều... Nhưng tôi yêu em, tôi phải có phần của tôi.
Mặt Miên đỏ dựng lên, chị đưa mắt rất nhanh nhìn
về phía bếp như sợ người quản gia nghe thấy. Rồi chị nghiêm mặt lại, một vẻ lạnh
lùng dữ tợn hiện trong đôi mắt:
- Anh đừng bao giờ nhắc lại chuyện này lần nữa, với
bất cứ ai. Nếu không xóm giềng sẽ cho anh là kẻ điên dại hoặc vô luân. Không
người đàn bà tử tế nào lại làm chuyện đó.
Anh không dám nhìn vào mắt chị, nhưng tiếp tục
nói:
- Tôi không phải quan hoạn... Tôi không thể sống
mãi như thế này.
- Vậy anh có thể rời khỏi đây...
Miên đáp, giọng lạnh lùng và gương mặt chị rắn lại
như đá:
- Anh có thể về lại nhà, em sẽ gắng giúp anh vốn
làm ăn. Rồi anh tìm người nào đó thương yêu anh xây dựng cuộc đời mới.
- Không. Tôi không muốn...
Anh đáp. Ðoạn đặt đứa bé xuống, bỏ lên nhà trên.
Miên không gọi anh, không nói gì thêm, bế đứa con vào phòng tắm. Ở đó chị gọi
vóng xuống bếp:
- Bác Lư xem giùm tôi nồi nước.
Tiếng người quản gia đáp lại tức thì:
- Nước được từ lâu. Bà chờ tôi đem lại ngay.
Dường như bất cứ lúc nào người quản gia cũng chờ
đợi và sẵn sàng làm theo ý muốn của Miên. Bôn nhìn ông ta bưng nồi nước lá qua
sân, cái bóng rắn rỏi hắt dài trên nền gạch và biết rằng ông Lư không chỉ là
con chó trung thành của Hoan mà còn là kẻ tháp tùng tín cẩn của Miên. Ông ta
cùng một lúc sùng phục cả hai, với người này có lẽ do gắn bó quyền lợi và với
người kia là tự nguyện. Anh là kẻ đứng một mình trong ngôi nhà này. Và có lẽ
anh là kẻ đứng một mình trên trái đất.
Ðêm ấy Bôn mơ giấc mơ siêu tuyệt. Giấc mơ đem cho
anh cảm giác vẹn toàn về hạnh phúc, một thứ hạnh phúc sung mãn chưa bao giờ mon
men tới trong đời sống thật. Anh mơ một cơn đại hồng thủy bao trùm toàn trái đất,
nhấn chìm tất cả các châu lục, các quản gia, mọi giống người da vàng da đen da
trắng đều chết sạch, duy mình anh được Ðấng Tối Cao ban cho cây bè. Trên mặt nước
mênh mông có triệu triệu người chết đuối hoặc đang lóp ngóp một cách tuyệt vọng
giữa các đám bọt nước anh đã kịp tìm thấy Miên, chị chìa bàn tay chới với trên
mặt nước về phía anh, hướng đôi mắt cầu khẩn về phía anh và lần nữa anh trở
thành người hùng cứu chị thoát khỏi cái chết. Anh ôm Miên vào lòng, người đàn
bà của anh run rẩy nhợt nhạt vì sợ hãi. Anh vuốt ve an ủi chị, vắt kiệt những lọn
tóc ướt sũng cho chị, cởi áo mình cho chị rồi lái cây bè vượt qua biển xác chết
anh đưa chị tới mỏm đảo hoang duy nhất còn nhô lên trong cơn hồng thủy, biết rằng
đó là mảnh đất Ðấng Tối Cao dành cho anh, để anh cùng người đàn bà anh yêu sản
sinh ra một nhân loại mới. Trên đảo hoang trơ trọi giữa bốn bề nước và thây ma,
tình yêu của họ sống lại, mãnh liệt gấp trăm lần thuở trước. Anh ái ân với Miên
trên cỏ, dưới trời sao dưới cả nắng mai, những cuộc ái ân hung dữ hơn cơn động
tình của hổ báo, dai dẳng hơn loài khỉ đột hoặc đười ươi, dường như trong thân
xác họ chảy những dòng máu hòa trộn của muôn loài... Bôn thức giấc vào buổi
sáng hôm sau, ngơ ngẩn tiếc, và rờ tay xuống chiếc đũng quần ẩm ướt, anh cố triệu
hồi niềm hạnh phúc tót vời thứ khoái lạc tót vời vừa nếm trải...
Rồi ngày nọ tiếp nối ngày kia, anh vẫn lên đồi ra
nương cùng người quản gia, ngồi tiếp ông uống trà ăn bánh đậu, vẫn cùng ông lúi
húi nấu cháo gà hoặc bún bung những khi họ muốn đổi món, sống cuộc sống sung
túc nhiều người dân Xóm Núi thèm muốn. Vào những đêm hứng tình, anh triệu hồi
giấc mộng cũ, mơ tưởng mùa ái ân của các loài thú trong rừng, giải thoát cơn
hành hạ dục tình một cách khốn khổ và không ngừng thèm muốn đập vỡ một cánh cửa
buồng, bẻ gẫy một ổ khóa. Ðã đôi lần, anh nghĩ:
... Hay ta ra đi... Hãy thử đến cái nông trường
Xá chột đã nói. Hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa đang ở đó, tha hồ
chọn, còn hơn sống nhục nhã thế này... Như thế, ta cũng giải thoát cho cả Miên,
Miên có thể lên trại Suối Nhỏ với Hoan hoặc gọi anh ta trở về ngôi nhà cũ. Hẳn
Miên sẽ giúp ta đủ vốn liếng làm ăn. Người đàn ông kia không thiếu tiền, anh ta
sẽ chẳng dè dặt khi trả giá cho một hạnh phúc vẹn toàn. Rồi mai đây, ta cũng sẽ
có một mái ấm một đứa con với người đàn bà mới, người đàn bà ta tuyển chọn
trong đám hơn hai trăm cô gái quá thì...
Thoạt đầu, ý nghĩ mình được quyền tuyển lựa một
người đàn bà giữa đám hai trăm cô gái quá lứa làm anh sung sướng, lờ mờ thú nhận
điều đó cho phép anh có được quyền năng và sự hãnh diện của một vị vua. Nhưng
sau thoáng kiêu hãnh, anh chợt hiểu ra rằng hơn hai trăm cô gái quá lứa kia đối
với anh chỉ là một đám bụi mịt mờ, một khối đen đặc không hình thù đường nét
không gương mặt nào rõ rệt và lôi cuốn. Hai trăm cô gái chẳng phải là một số lượng
ghê gớm bởi anh từng gặp đến ngàn cô gái trên lề chiến tranh... Và chẳng mảy
may xúc động... Cũng có thể những cuộc gặp gỡ trong chiến tranh chỉ là những tụ
hợp phù du, ít ỏi là vài giờ đồng hồ, nhiều nhặn lắm cũng hai ba ngày không bao
giờ đủ thời gian để làm quen... nhưng cũng có thể vì con tim anh đã bị cột chặt
với một người đàn bà, mối tình đầu ác hại, và rồi sau đó bởi chính anh đã đặt cược
sinh mệnh vào người đàn bà đó, nên anh không còn chỗ tháo lui. Anh đã quăng
thân vào bao nhiêu cuộc phiêu lưu đến suy kiệt tinh thần hao mòn thể xác giờ
đây những cuộc phiêu lưu đó đọng lại trong anh như một thứ cặn lắng, bít bùng,
mờ tối:
... Không, không, không, ta không thể xách ba-lô
tới một nơi xa lạ, tìm trong đám đông xa lạ kia một người đàn bà nào đó có thể
trở thành thân thiết, hơn nữa có thể cùng chia sẻ gối chăn... Ta chẳng còn sức
để lao vào một cuộc phiêu lưu như thế...
Chỉ mới nghĩ đến một con đường trải ra phía trước
anh đã thấy gân cốt rã rời, những khớp xương muốn long rụng tơi tả. Chỉ mới mường
tượng một cuộc ra đi da thịt anh đã ớn lạnh và những chân tóc anh dựng lên như
chúng sắp sửa phải chống chọi với hơi giá rừng già, với gió độc lùa dưới vực
sâu, với mưa sương trên những vòm lá dày rớt xuống... Không, anh không còn sức
cho một cuộc phiêu lưu mới. Vả chăng, tại sao anh phải ra đi như một kẻ trắng
tay, để người đàn bà anh yêu hoàn toàn thuộc về người đàn ông khác?... Tại sao
anh lại chịu thua cuộc nhục nhã và vô điều kiện như thế, sau bấy nhiêu nỗ lực
gian truân?... Và lờ mờ, trong đáy sâu con tim anh, niềm hy vọng tuy mong manh
vẫn le lói chiếu:
... Biết đâu đấy, biết đâu một ngày nào?...
Anh tự nhủ. Nhưng ngày nào và có sự gì xảy ra,
anh mơ tưởng điều gì... anh hoàn toàn không biết.
Và bỗng dưng mùa săn năm nay tiếng kèn xa xăm kia
không còn làm anh run sợ. Những âm thanh lúc đều đều buồn tẻ lúc vót gắt rền rĩ
của nó lay động góc trời tĩnh lặng trong anh, gọi về tuổi thơ, nức nở khúc ca sầu
muộn. Anh ngồi trên đồi vắng khoanh tay nghe giờ này qua giờ khác. Rồi một chiều
những âm thanh kia vang động hơn, xô dạt hơn, vừa như sóng biển vừa như nhịp
quân hành vẳng lại. Bôn chợt nhìn thấy một khoảng trời trong veo trong vắt, những
nương ngô trổ bông phơi dưới nắng chiều, những thân mía tím mập mạp cao trên đầu
anh phủ đầy phấn trắng và bao trùm lên tất cả khung cảnh đó là một không gian
trầm lặng, thanh sạch với tiếng ong rù rì êm ả...
... Khung trời này ở đâu và những nương ngô kia ở
đâu?... Ta đã từng gặp, đã từng sống... Chúng ở đâu trên cõi đất này? Anh lục
tìm trí nhớ. Quá khứ như hang động mịt mù khói phủ. Lạnh. U buồn. Kinh hoàng.
Da diết. Tan loãng. Tơi tả. Ngoài ra anh không thấy một cảnh tượng nào. Anh ngồi
đăm đăm nhìn mặt trời từ từ chìm xuống núi. Khi mặt trời tắt trên các rặng núi
phía Tây cũng là lúc mặt trời trong trí nhớ anh nhô khỏi cánh rừng u tối thổi
tan lớp khói mịt mù, rọi vào cái hang sâu bị rấp lối. Và anh chợt bật lên tiếng
kêu:
- Bản Kheo.
Tiếng kêu của anh vọng trên các nương tiêu nương
cà-phê lẫn dải đồi xung quanh. Vài người chăn dê chăn bò đang lùa gia súc về
làng giật mình đưa mắt nhìn anh nhưng anh không nhận thấy. Ðứng thẳng dậy, anh
hét thật to cái tên vừa tìm thấy:
- Bản Kheo... Ðúng là Bản Kheo. Bản Kheo. Bản
Kheo. Bản Kheo...
Và cùng tiếng vọng, âm vang trong anh tiếng xe
trâu kẽo kẹt, tiếng gà gáy vọng qua thung lũng, tiếng bọt củi nổ lách tách tiếng
sôi của mật nấu trong chảo, tiếng chim ríu ran thanh bình tiếng cười nói lao
xao nghe thân ái và nhu mì dù rằng đó là thứ ngôn ngữ lạ lùng anh không rõ nghĩa.
Giờ Bôn đã nhận diện được Bản Kheo, nơi anh sống với người đàn bà Lào câm điếc,
người chưa cùng anh kết hôn theo thủ tục của Việt Nam nhưng đã kết hôn theo
phong tục địa phương cô sinh thành. Bôn nhớ lại vị xôi trắng lẫn thịt nướng
ngày đó, nhớ cử chỉ của trưởng tộc khi ông cầu chúc lễ hợp hôn của họ, nhớ
gương mặt với cặp mắt xếch sáng loáng của người anh trai cô dâu và rọi soi trên
tất cả các ảnh hình ấy, lung linh trên tất cả các ảnh hình ấy là ngọn lửa lớn,
một bếp lửa chụm bởi các thân gỗ to hơn đùi người cháy suốt ngày đêm không tàn,
ngọn lửa vĩnh cửu nơi Bản Kheo:
... Phải, đó chính là nơi ta sống với người đàn
bà có một rương đầy váy áo. Cô đã trải tất cả đám váy áo rực rỡ ấy lên sàn cho
ta xem trước ngày làm lễ hợp hôn. Và đêm đó cô đã đun nồi nước lá thơm cao gần
đến thắt lưng để hai người cùng tắm... Ðêm ấy ta đã hạnh phúc. Dẫu sao cũng vẫn
là hạnh phúc. Mùi nệm mới ủ lá thơm bốc lên ngào ngạt sao...
Anh nhắm mắt lại, thấy mình được tắm rửa sạch sẽ
thơm tho nằm trần truồng trên tấm nệm lanh thêu rực rỡ, thân thể trần truồng của
một người đàn bà kề bên. Cách họ chừng vài thước bếp lửa cháy bừng bừng, lửa đỏ
tỏa hơi ấm và rọi sáng... Anh nhớ lại cảm giác mãn nguyện khi người đàn bà tì
đôi vú nặng của cô vào ngực anh, đôi tay cô ve vuốt cơ thể anh, và những động
tác của cuộc làm tình đưa dẫn anh tới ngọn triều khoái lạc. Sự hồi nhớ khiến cơn
thèm muốn dục tình trong anh bật dậy.
... Ta đã từng được sung sướng với người đàn bà ấy...
Tại sao ta rời bỏ cô ta? Giờ ta ao ước được như cặp đười ươi phủ nhau trong xó
rừng... Tại sao con người ngu xuẩn như vậy?...
Nỗi hối tiếc điên cuồng vò xé tim Bôn. Con giống
anh đã dựng ngược lên trong quần. Cái con vật quái gở khốn kiếp đó càng lồng lộn
hung dữ, cơn hồi nhớ càng gợi lại rõ rệt những khoái lạc anh từng nếm trải nơi
Bản Kheo. Những đường chỉ thêu trên tấm nệm lanh hiện lên cùng cặp vú người đàn
bà. Bộ phận thầm kín cùng cặp đùi rắn như sắt của người con gái miền sơn cước.
Chính anh đã biến cô thành đàn bà, khi thấy những giọt máu in lên tấm nệm cô ngồi
nhỏm dậy, giơ tay chỉ cho anh biết. Vào khoảnh khắc ấy, cô không còn xấu xí,
vào khoảnh khắc ấy mắt cô long lanh và ánh lửa rọi biến cô thành một nữ sơn thần
với mái tóc xõa quanh vai.
... Tại sao ta đã quăng thân vào cuộc phiêu lưu để
đến nỗi hơi tàn lực kiệt?... Phải chăng ta là kẻ tham mồi bắt bóng, phụ người
yêu mình để chạy theo một thứ không thể nắm được trong tay? Và những giây phút
cực nhục này là sự trừng phạt xứng đáng? Anh hồi nhớ cặp mắt lạnh như băng của
Miên khi chị từ chối lời cầu xin của anh, cầu xin một miếng cháy đáy nồi cơm, một
vụn lẻ tình yêu nơi chị. Và anh lại hồi nhớ cặp mắt sưng mọng những tiếng van vỉ
ú ớ của người đàn bà Lào, nhớ mái tóc xác xơ phủ phục dưới chân anh, nhớ bóng
dáng thảm thê của cô ngồi trước cây cầu thang canh giữ. Không phải riêng cô mà
cả gia đình người anh trai cả dân Bản Kheo, đám người khác ngôn ngữ và phong tục
ấy đã níu giữ, vây bắt anh không vì một ác ý nào, chỉ vì anh cần cho người con
gái thiếu may mắn kia...
Trong ngôi nhà sàn xếp ngay ngắn những dãy bịch đựng
ngô đựng nếp, những chum mật, đường phèn xếp thành tầng trên dàn tre giữa các lớp
lá chuối khô, bí ngô già chất thành đống. Những lùm cây trước sàn rất nhiều
chim, cả rạng đông lẫn chiều hôm tiếng chim ríu ran làm đầy khoảng không gian
yên ả. Bầu trời Bản Kheo trong vắt, khói bẩn của chiến tranh không bay tới rẻo
đất hẻo lánh này... Tại sao đến tận giờ anh mới nhận thấy cảnh sống thanh bình
như vậy đủ lấp đầy cuộc đời gian truân cơ cực của mình?... Cái gì đã thúc đẩy
anh ra đi, chạy trốn khỏi mái nhà sàn ấm áp đó?... Bôn nghĩ mãi, nghĩ mãi nhưng
không tìm được lời giải đáp. Anh cứ ngồi trên đồi cho tới lúc đêm đen vây phủ,
mê man trong các hồi tưởng, quay quắt vì tìm kiếm lời giải đáp, quằn quại bởi cơn
đói dục tình. Tất cả những nỗi dằn vặt ấy hòa trộn nhau, đồng hiện. Chúng căng
anh ra như mảnh da bị kéo cả bốn bề. Thời khắc cứ thế trôi. Cỏ xung quanh đã ướt
sương, tay Bôn quệt vào chúng. Anh thả tay áo sơ-mi gài cúc tay, gài cúc cổ.
Anh quên lối về nhà. Co hai chân lên cho đỡ lạnh, anh bó gối ngửa mặt nhìn trời.
Và rồi, trăng lên. Trên riềm núi phía Tây nó từ từ trồi lên như một khối bạc
tròn trĩnh, như gương mặt an hòa, thanh thản...
... Hằng Nga...
Một cái tên vọt lên giữa đáy vực sâu. Một con cá
óng ánh đột nhiên nhảy khỏi mặt hồ ảm đạm. Một tia sáng vụt xuyên qua đường hầm
tối trong óc não Bôn.
Anh vùng đứng lên, thét vang trời:
... Hằng Nga... Mặt trăng, chính là mặt trăng...
Chính nó...
Bây giờ anh đã nhớ. Chính những đêm Bản Kheo anh
đã ngửa mặt nhìn trời. Giữa đường cắt hình cánh nhạn của hai trái núi, mặt
trăng đã nhô lên như vầng trăng đêm nay. Chính vầng trăng quyến rũ ấy đã mê hoặc,
đã bỏ bùa ngải vào trái tim anh, làm tê bại óc não anh và anh đã bỏ trốn đi
theo nó, rời khỏi Bản Kheo. Anh đã bỏ người đàn bà hiền lành khốn khổ yêu mê
anh, tôn thờ anh như bị thần giáng thế. Chính là trăng, kẻ đầu độc anh, dẫn anh
tới nỗi thống khổ này. Anh phải tiêu diệt nó, nếu không có cung tên, anh sẽ
dùng súng, và cũng có thể là thuốc nổ. Phải trả thù vầng trăng lừa lọc đó...
... Nhưng nó chính là Miên... Sau khối tròn bạc ấy
chính là gương mặt của Miên... Người đàn bà ta yêu...
Trái tim anh lên tiếng, và cơm uất hận trong anh
như ngọn lửa bị nước dội. Bôn lại buông xuôi hai tay, ngồi xuống. Ðám cỏ đọng sương
thấm ướt quần. Có lời thầm thì nào đó vừa thoáng qua tai, anh chưa kịp nghe thấy.
Anh bó gối, giỏng tai lên chờ đón. Chỉ còn mình anh trên ngọn đồi tối đen này,
xung quanh là nương vườn và các đồi dứa chưa tới mùa đơm trái. Gió khẽ rì rầm,
rì rầm, nhẹ nhàng và mơn trớn. Côn trùng rỉ ran. Tiếng sột soạt đâu đó của những
con chuột núi hoặc lũ chồn cáo. Tiếng rụng của các cọng lá khô... Nhưng anh vẫn
kiên tâm chờ đợi tiếng thì thầm... Và sau rốt, lời thì thầm kia lặp lại:
... Miên và có thể chẳng là Miên. Em là vầng
trăng của tôi và kẻ kia lại là vầng trăng của em. Em đã quyến rũ tôi ra đi và hắn
lại quyến rũ em rời bỏ tôi... Ðó là trò hoán chỗ...õ rệt những khoái lạc anh từng
nếm trải nơi Bản Kheo. Những đường chỉ thêu trên tấm nệm lanh hiện lên cùng cặp
vú người đàn bà. Bộ phận thầm kín cùng cặp đùi rắn như sắt của người con gái miền
sơn cước. Chính anh đã biến cô thành đàn bà, khi thấy những giọt máu in lên tấm
nệm cô ngồi nhỏm dậy, giơ tay chỉ cho anh biết. Vào khoảnh khắc ấy, cô không
còn xấu xí, vào khoảnh khắc ấy mắt cô long lanh và ánh lửa rọi biến cô thành một
nữ sơn thần với mái tóc xõa quanh vai.
... Tại sao ta đã quăng thân vào cuộc phiêu lưu để
đến nỗi hơi tàn lực kiệt?... Phải chăng ta là kẻ tham mồi bắt bóng, phụ người
yêu mình để chạy theo một thứ không thể nắm được trong tay? Và những giây phút
cực nhục này là sự trừng phạt xứng đáng? Anh hồi nhớ cặp mắt lạnh như băng của
Miên khi chị từ chối lời cầu xin của anh, cầu xin một miếng cháy đáy nồi cơm, một
vụn lẻ tình yêu nơi chị. Và anh lại hồi nhớ cặp mắt sưng mọng những tiếng van vỉ
ú ớ của người đàn bà Lào, nhớ mái tóc xác xơ phủ phục dưới chân anh, nhớ bóng
dáng thảm thê của cô ngồi trước cây cầu thang canh giữ. Không phải riêng cô mà
cả gia đình người anh trai cả dân Bản Kheo, đám người khác ngôn ngữ và phong tục
ấy đã níu giữ, vây bắt anh không vì một ác ý nào, chỉ vì anh cần cho người con
gái thiếu may mắn kia...
Trong ngôi nhà sàn xếp ngay ngắn những dãy bịch đựng
ngô đựng nếp, những chum mật, đường phèn xếp thành tầng trên dàn tre giữa các lớp
lá chuối khô, bí ngô già chất thành đống. Những lùm cây trước sàn rất nhiều
chim, cả rạng đông lẫn chiều hôm tiếng chim ríu ran làm đầy khoảng không gian
yên ả. Bầu trời Bản Kheo trong vắt, khói bẩn của chiến tranh không bay tới rẻo
đất hẻo lánh này... Tại sao đến tận giờ anh mới nhận thấy cảnh sống thanh bình
như vậy đủ lấp đầy cuộc đời gian truân cơ cực của mình?... Cái gì đã thúc đẩy
anh ra đi, chạy trốn khỏi mái nhà sàn ấm áp đó?... Bôn nghĩ mãi, nghĩ mãi nhưng
không tìm được lời giải đáp. Anh cứ ngồi trên đồi cho tới lúc đêm đen vây phủ,
mê man trong các hồi tưởng, quay quắt vì tìm kiếm lời giải đáp, quằn quại bởi cơn
đói dục tình. Tất cả những nỗi dằn vặt ấy hòa trộn nhau, đồng hiện. Chúng căng
anh ra như mảnh da bị kéo cả bốn bề. Thời khắc cứ thế trôi. Cỏ xung quanh đã ướt
sương, tay Bôn quệt vào chúng. Anh thả tay áo sơ-mi gài cúc tay, gài cúc cổ.
Anh quên lối về nhà. Co hai chân lên cho đỡ lạnh, anh bó gối ngửa mặt nhìn trời.
Và rồi, trăng lên. Trên riềm núi phía Tây nó từ từ trồi lên như một khối bạc
tròn trĩnh, như gương mặt an hòa, thanh thản...
... Hằng Nga...
Một cái tên vọt lên giữa đáy vực sâu. Một con cá
óng ánh đột nhiên nhảy khỏi mặt hồ ảm đạm. Một tia sáng vụt xuyên qua đường hầm
tối trong óc não Bôn.
Anh vùng đứng lên, thét vang trời:
... Hằng Nga... Mặt trăng, chính là mặt trăng...
Chính nó...
Bây giờ anh đã nhớ. Chính những đêm Bản Kheo anh
đã ngửa mặt nhìn trời. Giữa đường cắt hình cánh nhạn của hai trái núi, mặt
trăng đã nhô lên như vầng trăng đêm nay. Chính vầng trăng quyến rũ ấy đã mê hoặc,
đã bỏ bùa ngải vào trái tim anh, làm tê bại óc não anh và anh đã bỏ trốn đi
theo nó, rời khỏi Bản Kheo. Anh đã bỏ người đàn bà hiền lành khốn khổ yêu mê
anh, tôn thờ anh như bị thần giáng thế. Chính là trăng, kẻ đầu độc anh, dẫn anh
tới nỗi thống khổ này. Anh phải tiêu diệt nó, nếu không có cung tên, anh sẽ
dùng súng, và cũng có thể là thuốc nổ. Phải trả thù vầng trăng lừa lọc đó...
... Nhưng nó chính là Miên... Sau khối tròn bạc ấy
chính là gương mặt của Miên... Người đàn bà ta yêu...
Trái tim anh lên tiếng, và cơm uất hận trong anh
như ngọn lửa bị nước dội. Bôn lại buông xuôi hai tay, ngồi xuống. Ðám cỏ đọng sương
thấm ướt quần. Có lời thầm thì nào đó vừa thoáng qua tai, anh chưa kịp nghe thấy.
Anh bó gối, giỏng tai lên chờ đón. Chỉ còn mình anh trên ngọn đồi tối đen này,
xung quanh là nương vườn và các đồi dứa chưa tới mùa đơm trái. Gió khẽ rì rầm,
rì rầm, nhẹ nhàng và mơn trớn. Côn trùng rỉ ran. Tiếng sột soạt đâu đó của những
con chuột núi hoặc lũ chồn cáo. Tiếng rụng của các cọng lá khô... Nhưng anh vẫn
kiên tâm chờ đợi tiếng thì thầm... Và sau rốt, lời thì thầm kia lặp lại:
... Miên và có thể chẳng là Miên. Em là vầng
trăng của tôi và kẻ kia lại là vầng trăng của em. Em đã quyến rũ tôi ra đi và hắn
lại quyến rũ em rời bỏ tôi... Ðó là trò hoán chỗ...
Trái tim anh dường như ngừng đập. Óc não anh cũng
gần như tê liệt trong cơn choáng váng. Khoảnh khắc đó qua đi, anh mới có thể tiếp
tục nói với chính mình:
... Phải, đó chính là trò chơi đổi chỗ. Ðiều đấy
thật giản đơn mà sao giờ ta mới nghĩ ra?... Nàng Thoọng khốn khổ không bắn nổi
vầng trăng quyến rũ kia... Nhưng tôi, tôi sẽ bắn rụng vầng trăng của em, để
không còn gì lôi cuốn em ra khỏi tôi, và chúng ta sẽ sống cùng nhau, cùng nhau
mãi mãi...
Nỗi sung sướng khiến Bôn lặng đi. Lần này anh
không hét lên mà cúi xuống hà hơi vào lòng bàn tay, thì thầm:
- Bôn ơi là Bôn, sao mà mày ngu dại, sao mà mày
chậm hiểu thế? Ðáng lẽ mày phải tính đến chuyện này từ lâu, từ lâu...
Trí óc anh trở nên tỉnh táo, sắc bén. Tức khắc,
nó phác ra kế hoạch hành động một cách tường tận, tỉ mỉ:
... Mai ta đến nhà Xá chột. May sao cậu ta vừa về
thăm vợ đẻ. Ta hỏi mượn khẩu súng săn, nói rằng phường săn bên xã thiếu tay
súng và vì trưởng phường có họ xa nên ta phải nể tình giúp họ. Xá đang sướng rơn
vì cửa hàng mới, vì vợ đẻ con trai nên không thể nghi ngờ. Từ nhà Xá, ta sẽ
theo cong đường vòng qua thung lũng Ớt để tránh gặp dân làng. Ta sẽ đón họ ở
bìa rừng bên kia Suối Lớn. Ở đó, định hình rất lợi. Vả chăng hắn cao to nhất phường
săn một mục tiêu như thế dễ dàng bị hạ. Trước kia, ta bắn cũng không đến nỗi
nào. Chẳng là thiện xạ nhưng cũng hơn hẳn gã lái buôn dân thành phố... Ngày mai
sẽ là ngày cuối cùng hắn được hưởng cuộc đời may mắn của mình...
Bôn đứng dậy, men theo lối đi đã thuộc trở về
làng. Lẹ làng như một con mèo và gian manh như con cáo gã đàn ông đang mưu tính
giành giật lại hạnh phúc mỉm cười. Hẳn đó là nụ cười đắc thắng...
No comments:
Post a Comment