Monday, January 4, 2016

Hành Trình Ngày Thơ Ấu (Chương 13 - 15)

Chương 13

Buổi sớm hôm đó trời lạnh. Tôi thức dậy, mặc tấm áo bông mới mua rồi bắt tay vào việc quét dọn nhà cửa. Cô Múi đang ngủ. Cô tự cho mình quyền được ngủ muộn vì những việc vặt vãnh đã có hai đứa chúng tôi lo. Loan cũng thức dậy sau tôi, mang rổ măng ra tước nhỏ. Món măng chỉ xào với trứng hay thịt bò là món được gọi nhiều nhất trong các bữa ăn. Hai đứa chúng tôi vừa làm vừa trao đổi về vụ xô xát giữa cô Múi và chủ quán bên cạnh đêm qua. Lúc đó, một ông già bận quần áo chàm, đeo tay nải cũng nhuộm chàm bước vào:
- Chà chà cô Múi đâu mà để hai đứa nhỏ trông hàng?
Tôi mau miệng trả lời:
- Cô Múi còn ngủ ạ. Ông muốn ăn bánh hay uống nước? Chưa có cơm đâu. Cô Múi chỉ nấu cơm đón khách chuyến tàu chín giờ rưỡi sáng thôi.
Ông già đặt tay nải xuống ghế, chăm chú nhìn tôi:
- Ông không ăn cơm. Onng chỉ muốn uống một chén trà với ăn cặp bánh mật.
Tôi bỏ chổi xuống, lau tay, rót nước cho ông. Sau đó tôi gỡ một cặp bánh mật trên dây treo cạnh bức tường, bóc đặt lên đĩa đem tới trước mặt ông:
- Bánh mới lấy chiều hôm qua, còn dẻo lắm ông ạ.
Ông gật đầu tỏ ý hài lòng. Ông ăn bánh chậm rãi, uống từng ngụm trà nhỏ rồi cất tiếng nhẹ nhàng hỏi:
- Cháu này… Ông mới tới đây tháng trước, quán chỉ có một mình A Múi. Hai cháu vừa ở dưới xuôi lên chăng?
- Thưa ông, vâng – Loan đáp – Chúng cháu không định lên đây đâu. Chúng cháu định lên đồn Khậu Phai, xa hơn Cao Bằng gần một trăm cây số nữa. Nhưng chúng cháu bị mất cắp hết quần áo, đồ đạc, không đủ tiền nên đành ở lại đây.
- Đồn Khậu Phai – ông già trầm ngâm nhắc lại, hai hàng lông mày rậm và trắng như cước nhíu lại – Các cháu lên đó làm gì?
- Lên thăm chú Tùng, bố của bạn Bê – Loan giơ tay chỉ vào tôi – Chú Tùng là đại uý, trưởng đồn biên phòng Khậu Phai. Ông đã lên tới trên đó bao giờ chưa?…
- Chưa. Ông chưa lên đó…
Ông già lắc đầu. Rồi sau khi ăn xong cặp bánh mật, uống cạn chén trà, ông hỏi:
- Các cháu có họ hàng với cô Múi không?
- Thưa ông, không.
- Các cháu làm ở đây mỗi tháng được bao nhiêu tiền công?
- Thưa ông, cô Múi chỉ nuôi chúng cháu ăn và cho ngủ nhờ thôi.
- Hả? Hả?…
Ông già nhướng cặp mày trắng lên hỏi. Rồi không chờ chúng tôi trả lời, ông lão lần trong túi áo chàm, lấy ra một gói thuốc lào, vê thuốc nạp vào nõ, châm lửa hút. Khói thuốc ông phả ra làm quán trắng mịt mờ. Lúc đó, cô Múi đã trở dậy. Cô ra bề nước sau nhà, súc miệng ùng ục.
Ông già nhìn chúng tôi hiền từ, chậm rãi nói:
- Ông chưa lên Khậu Phai bao giờ, nhưng ông có đứa cháu là lính biên phòng đóng ở gần đó. Khậu Phai, Khậu Phát, Nường Le, Phìa Khoảng là một dãy những đồn biên phòng ở trên vùng đá cheo leo. Các cháu không thể tự tìm lên đó được. Mà ở đây làm nười ở không công cho cô Múi bán cơm cũng chẳng hay. Ông chỉ có một mình thôi. Nhìn mặt các cháu sáng như gương, ăn nói lễ phép, ông thương lắm. Về ở với ông đi. Ba ông cháu mình sẽ cùng làm nương, cùng săn thú, cùng ăn con cá bắt dưới suối lên. Ông sẽ viết thư gọi thằng cháu của ông về phép. Khi nào đi, nó sẽ dẫn các cháu đi cùng. Nào, các cháu có bằng lòng không?
Tôi nhìn Loan. Loan nhìn tôi. Cả hai chúng tôi đều tin cậy ông già ngay từ phút đầu gặp gỡ và cùng cảm thấy sung sướng đến bàng hoàng khi nghe ông nói những lời giản dị dịu dàng như thế. Cô Múi dưới sân đi lên, khăn mặt vắt trên vai. Ông già bắt đầu nói với cô ý định của ông. Chúng tôi im lặng chờ đợi. Dẫu sao chúng tôi đi, cô Múi cũng mất một món hời, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi không ngờ, cô lại đỏ bừng mặt lên, nói sa sả:
- Không được, không được, anh Cao giao chúng nó cho tôi trông nom mà. Bao giờ anh Cao về, tôi mới trả.
Ông già gõ gõ ngón tay lên mặt bàn nước:
- Trông nom gì mà hai đứa phải làm từ tinh mơ, còn cô rúc trong chăn ngủ cho đẫy mắt. Tháng tháng, không cho trẻ lấy vài chục bạc cầm tay. Trông nom trẻ như vậy cũng gần giống địa chủ trông nom tá điền đấy…
Cô Múi đứng sững, nghẹn họng không nói được nữa. Nhưng gương mặt đỏ tía của cô chứng tỏ cô căm uất ông già tới bầm ruột bầm gan. Ông già nghiêm nghị nhìn tôi và Loan, nói như ra lệnh:
- Hai cháu thu xếp quần áo, đi thôi…
Những ngày tháng ở với người đời đã dạy tôi khôn lớn. Như con chồn, con cáo đánh hơi thấy mồi, tôi cũng nhận biết được khá chính xác ai là người tốt, ai là kẻ bất lương. Nhìn cặp mắt ông già, tôi biết ông là một cây đại thụ vững vàng mà tôi có thể tựa vào trong cuộc đời phía trước. Tôi đứng lên, bỏ cây chổi quét nhà ra sân sau, thu dọn đồ vật, gấp quần áo cho vào chiếc túi ngày xưa chúg tô dùng làm túi đựng đồ ăn khi bước vào cuộc hành trình. Chỉ vẻn vẹn hai bộ quần áo. Còn hai bộ mới mua, chúng tôi đã mặc lên người, cùng với tấm áo bông. Số tiền nằm trong cái túi con khâu dính với lưng quần. Chúng tôi bước tới trước mặt cô chủ quán cơm:
- Chúng cháu xin phép cô ạ. Chúng cháu chào cô ạ…
Dẫu sao, tôi cũng muốn coi cô như một ân nhân, mặc dù cô chỉ làm cái việc có lợi cho túi tiền của cô.
Cô Múi không trả lời, mặt hầm hầm đầy sát khí. Tôi nhẫn nại chào cô lần thứ hai. Lần này cô đành miễn cưỡng gật đầu. Ông già trả tiền chén nước trà với cặp bánh mật rồi khoác tay nải lên vai:
- Nào đi
Chúng tôi ra khỏi khu quán cơm, thẳng đường bước vào phố. Những cây đèn lồng lụa đỏ cũ kỹ, những ông phỗng xanh đỏ đầy bụi trông mới mẻ, rực rỡ hẳn lên trong mắt tôi. Cả những chiếc lá bàng đỏ úa rời khỏi cành đang nhào lộn trên không trung cũng như lời chào đón. Tôi thầm nghĩ: “Cuối cùng, mình sẽ gặp những điều may mắn, những con người nhân ái, giàu tình thương”.
Ông già đi rất nhanh. Cứ vài chục bước, ông lại dừng để đợi chúng tôi:
- Ông đưa các cháu vào chợ chơi. Quá trưa ta về bản. Hôm nay là ngày chợ phiên. Trai gái hát vui lắm đấy.
Tiếng là ở phố Lạng đã lâu nhưng chúng tôi bận phục vụ quán cơm của cô Múi nên chưa biết chợ phiên vùng núi ra sao. Nghe ông già nói vậy, tôi thú lắm. Loan nhảy cẫng lên như đứa bé lên ba. Ông già hỏi tên tuổi từng đứa. Chúng tôi lần lượt kể chuyện mình, không hề giấu giếm. Ngay cả món tiền nhỏ bé khâu ở lưng quần chưa bao giờ cho cô Múi biết, tôi cũng đưa cho ông. Ông già cười, xoa đầu tôi:
- Khổ thân con bé. Từng này tiền làm sao đủ mua bánh tét ăn mà đòi lên tận Khậu Phai.
Ông bỏ món tiền còm đó vào túi. Tới lúc vào chợ phiên, ông tiêu hết một món tiền lớn gấp ba số tiền chúng tôi dành dụm. Thoạt tiên, ông đưa hai đứa vào hàng phở chua nổi tiếng của người Hoa. Sau đó lại sang hàng bánh bao nhân xá xíu ăn mỗi người một chiếc lớn. Rồi ông dắt chúng tôi vào chợ chơi. Trai gái người các dân tộc thổi khèn, lượn lờ từng đôi một, hát đối đáp như kiểu hát quan họ, hát ghẹo vùng Bắc Ninh và Vĩnh Phú. Nhưng điệu hát của họ trầm buồn, đều đều, lại khác ngôn ngữ nên chúng tôi không hiểu. Ông già đưa chúng tôi tới dãy hàng bán thắng cố. Hàng chục chiếc chảo gang to tướng, nước đầy tới miệng, luôn luôn sôi sùng sục. Bên trong là những tảng thịt trâu, thịt ngựa, thịt bò thi nhau nhào lộn, váng mỡ lẫn bọt huyết nổi từng đám lềnh bềng. Ông già bảo:
- Dưới lớp thịt ninh kia có các loại xương nữa đấy. Phải có xương nước mới ngọt.
Những người dân miền núi tới chợ ngồi sụp xuống quanh chảo thắng cố. Nước sôi lục bục, khói tỏa nghi ngút. Người bán vớt thịt, xẻo một miếng, múc một bát nước đưa cho người mua. Người mua sì sụp húp nước, cắn thịt nhai ngon lành. Nhưng tôi ngửi mùi mỡ bò bay lên gây gây thì sợ hãi. Tôi nói với ông già:
- Cháu không biết ăn thứ này đâu.
Ông nhìn tôi, cười:
- Chính ông cũng không biết ăn. Cháu đừng sợ ông ép.
Ông dẫn chúng tôi đi một lượt qua những hàng bán hồng, bán bưởi, bán trám, hạt dẻ, củ mỡ, khoai sọ, nấm hương, mộc nhĩ… Lại tới một hàng bán thịt nhuộm hoa hòe đỏ chót lẫn những mảnh tiết đen thái nhỏ. Người ta gọi đó là món ngầu pín. Toàn đàn ông ngồi ăn. Họ ngồi uống rượu từng bát. Tôi hỏi ông già có ăn hay không. Ông cũng lắc đầu. Lòng đầy thắc mắc, tôi hỏi:
- Ông ơi, sao là người vùng này mà ông lại không biết ăn mấy món đó?
Ông già cười:
- Cháu có biết tên ông là gì không?... Ông tên là Mộc. Thời trẻ ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, theo ông chú làm thợ mộc đi lang thang khắp vùng kiếm ăn. Người ta gọi ông là anh thợ mộc. Gọi mãi đến quen miệng, quên cả tê cha mẹ đặt cho. Ông ở trên này, lấy vợ người Nùng. Bà xinh xắn lắm, dệt vải giỏi nhất bản. Ông với bà có hai đứa con. Hai năm sau chiến dịch biên giới, Tây càn giết sạch dân bản. Ông đang săn thú trong rừng nên thoát chết. Từ đó, ông cứ ở một mình, không lấy ai nữa. Từ ngày hòa bình, ông cũng chưa về thăm quê. Quê ông ở Kẻ Sặt. Chắc các cháu cũng chưa tới đó bao giờ?...
Tôi thú nhận:
- Vâng. Cháu chưa lần nào được ra khỏi thị trấn quê hương. Xa nhất cũng chỉ là quê ngoại, cách thị trấn mười lăm cây số.
Ông già Mộc nói tiếp:
- Ở vùng này lâu nhưng ông vẫn không quen được với nhiều món ăn của dân địa phương. Đặc biệt là món thắng cố và ngầu pín. Còn thịt thú rừng biết làm thì ngon lắm. Khi nào săn được, ông sẽ nấu nướng cho các cháu ăn.
Ông dắt chúng tôi dạo qua dãy hàng xén, mua kim chỉ, rất nhiều chỉ màu, phấn viết bảng, giấy viết và bút mực. Ông còn mua cả hai chiếc khung thêu bằng nhôm tròn. Ông mua cả một lô những chiếc vòng đeo tay đủ màu sắc. tôi kinh ngạc hỏi:
- Ông mua đem về bản bán lại hay sao?
Ông cười:
- Ờ, bán lại cho hai cháu.
Ông mua cho chúng tôi hai bộ quần áo hoa nữa, tuy đường may vụng nhưng vải láng rất dày và mịn. Sau đó, ông đưa chúng tôi sang dãy hàng bán cá mắm, mắm tôm, nước mắm khô, cá tép khô… Ông mua mỗi thứ một cân, đựng đầy cái bị cói mà ông rút trong tay nải ra. Đến lúc này, tôi mới hết ngỡ ngàng. Ông già Mộc đích thực là một nông dân vùng đồng bằng. Dẫu đã xa quê mấy chục năm ròng, ông vẫn không thể quên những món ăn quen của thời thơ ấu.
- Nào, hai đứa còn muốn ăn gì nữa không?
Ông hỏi chúng tôi khi đã ra khỏi khu chợ ồn ào, lấm bụi.
- Không, không, chúng cháu no căng bụng rồi ạ.
Tôi vội vã trả lời. Tuy vậy, ông vẫn đưa chúng tôi vào cửa hàng giải khát, gọi nước bát bảo lường xà uống rồi mới lên đường về bản.
- Ông ở có xa không ông?... Đi bộ mấy giờ thì đến nhà – Loan hạt mít hỏi.
- Cũng không xa lắm. nhưng đối với đôi chân của hai cháu thì khá xa đấy. Mình cứ đi chầm chậm thôi. Tới đâu mệ, ta lại nghỉ. Chưa về đến nhà ngay thì ta ngủ nhà bạn. Ông có vô khối bạn bè ở các bản dọc đường.
Tôi cau mày mắng Loan:
- Chưa chi đã ngại xa… Đáng lẽ đằng ấy cứ ngồi bán quán cơm như cô Múi là tốt hơn cả.
Ông già Mộc sợ Loan dỗi nên vội vã gạt đi:
- Ái chà, đừng nói bạn như thế, Loan nó hỏi cho biết đường thôi. Nào, đi đi. Hết đoạn phố này, ông cháu ta sẽ rẽ xuống đường tắt. Đúng trưa, nắng gay gắt. Trời lạ im gió nên chúng tôi đã cởi hết áo bông mà vẫn còn thấy nóng. Thời tiết ở miền núi thay đổi như một kẻ trái tính trái nết. Tuy vậy, tôi vẫn bước phăng phăng. Núi non như gần lại phía trước. Đường chân trời cũng trở nên thoáng đãng, thân thuộc. Những con đường mòn quanh co, uốn lượn qua các sườn non, vắt qua những thung lũng sâu trông như dải lụa mềm. Cảnh trí tươi đẹp quá, khi ta có một người để thương yêu, để tin cậy. Ông già Mộc gánh gánh đồ nặng trĩu đi phía trước chúng tôi. Những bước chân ông rắn rỏi, đều đặn, không có một chút cố gắng nào. Tôi bỗng hình dung rõ ràng, ông là ông bụt hiện lên với cô Tấm trong truyện cổ. Ôi, thật kỳ diệu khi ta bỗng bắt gặp những ông bụt sống cùng ta trên mặt đất, giữa cây cỏ, dưới ánh mặt trời. Những ông bụt hiền lành, bình dị của đời thường.

Chương 14

Tôi muốn kể lại quãng đường ông già Mộc đưa tôi từ phố Lạng về bản Muốn, những con suối tôi đã đi qua, những vòi nước phun từ kẽ đá mát lạnh và trong suốt, những con bướm to lớn kỳ dị chưa bao giờ tôi gặp trong đời… nhưng như vậy thì sẽ tốn vô khối trang giấu và thời giờ của các bạn. Tôi chỉ nói về quãng đời thần tiên tôi đã sống với ông già ở bản Muốn.Một bản nhỏ, nép mình trong thung lũng, bốn bề núi non vây bọc, nhưng xinh đẹp và thú vị đúng với cái tên của nó. Ai chưa đến đó thì muốn đến. Ai đã ở đó thì chẳng muốn đi. Cả bản có trên hai chục nóc nhà. Nhà nọ cách nhà kia chừng vài trăm thước, người ở bản gọi là cách nhau vài quăng dao. Nhưng đứng ở sàn trước nhà này nói với sang sàn trước nhà kia vẫn cứ nghe thấy. có lẽ không gian ở đây tĩnh lặng và mỗi âm thanh đều được các vách núi ném vọng lên gấp ba lần. Nhà ở bản Muốn toàn là nhà sàn kiên cố, dựng bởi hàng chục cây cột lớn, tầm cao mỗi cây cột đúng bằng hai chiều cao từ mặt đất lên tới nóc đình dưới vùng xuôi. Đi trong nhà, người chỉ thấp chưa đầy góc cột. Có thể dựng gỗ cưa xẻ, đóng đồ mộc ngay trong nhà. Sàn nhà lát gỗ tấm dày. Trước nhà, nối tiếp với cầu thang chính là sân ken bằng gỗ cây hoặc gỗ tấm, rộng chừng ba bốn chiếc chiếu. Sân sau nhà hẹp chừng non một thước, nối với cầu thang phụ, thường là nơi kê chum đựng nước, sắn mới dỡ ngoài nương về, củi khô sắp sẵn để tiện rút vào bếp đun. Gian dùng làm bếp đun kế với cầu thang phụ. Một gác gỗ chạy lưng chừng gian để chất các bồ đựng thóc nếp, thóc tẻ, khoai sắn khô cho lợn, ngô đậu và các thứ giống. Chính giữa sàn thường có một ô vuông khuôn bằng sắt hoặc đắp bằng đất ngăn cho lửa khỏi cháy lan ra gỗ sàn. Suốt mùa thu và mùa đông, những thân củi lớn dài chừng hai thước, châu đầu trên khuôn bếp. Ngọn lửa cháy không ngưng nghỉ, khi bùng lên rực rỡ, khi âm ỉ leo lét quanh các đốm than hồng. Bất cứ lúc nào người ta cũng có thể nướng khoai, nướng sắn, rang bỏng nếp hoặc bày những trò nấu ăn khác trên cái bếp lửa cháy trường kỳ đó. Đi qua gian bếp tới gian chính, nối liên sân trước và cầu thang lớn. Gian chính có khi rộng bằng cả năm gian nhà dưới xuôi cộng lại. Lần đầu tiên bước lên, tôi và Loan cứ ngỡ ngàng đi hết đầu nọ tới đầu kia, tường như mình lạc vào cái cung điện bằng gỗ của một bộ lạc nào đó còn sót lại. Phía bên trái gian nhà chính là một dãy bốn căn buồng nhỏ, có cửa gỗ dày, khép kín đáo. Ông già Mộc bảo những gian đó là để cho đàn bà, con gái trong nhà. Từ khi vợ và các con ông bị giặc Pháp giết, ông vẫn giữ nguyên chăn nệm, gối màn trong mỗi ngăn. Cứ đến mùa hè ông đem ra suối phơi giặt. Khi đưa tôi và Loan về, ông cũng đem những tấm nệm, những tấm chăn thêu ra trước sân phơi nắng, đập bụi. Chúng bốc lên mùi nấm mốc. Tôi nhìn gương mặt rắn rỏi như tạc bằng đá của ông già Mộc, biết rằng ông đã từng đau khổ và cô đơn, rằng ông thương chúng tôi bằng tình thương chân thực và bằng trái tim khao khát yêu thương của một ông già đơn chiếc. Sau khi đun nước nóng cho chúng tôi tắm giặt, ông bảo chúng tôi giũ nệm trải trong các ngăn buồng. Ông gọi một ông già rậm râu bên nhà tới. Ông nói một tràng tiếng Nùng. Lát sau, ông già rậm râu về lấy một con dao nhọn sáng loáng. Tôi trông thấy đã sởn gai ốc. Muốn gì đây cũng là xứ lạ. Chúng tôi không khỏi còn chút hồ nghi. Ông già Mộc với ông già rậm râu nói với nhau vài câu, chỉ trỏ đám lợn đang chạy lông nhông dưới sàn. Sau đó hình như họ thỏa thuận với nhau nên gật đầu một cách hỉ hả và cùng chạy xuống cầu thang phụ. Người hò, người hét, cuối cùng hai ông cũng túm được một con lợn lang cỡ bốn năm chục cân. Té ra, ông già Mộc gọi ông già rậm râu tới nhờ thịt lợn. Bấy giờ chúng tôi mới hoàn hồn.
Tôi không ngờ ông già Mộc đón chúng tôi thịnh soạn và trịnh trọng như thế. Hôm đó, ông thịt lợn, giã giò nạc, giò mỡ, làm lòng theo đúng kiểu miền xuôi. Còn thủ lợn và bốn chân giò, ông đem luộc lên bày tất cả vào một chiếc nông nhỏ, giống như chiếc mẹt dưới xuôi, đan bằng tre cật sợi tâm vàng óng.
Lặn mặt trời, ông đứng trước sân, khum tay che miệng làm loa hú gọi những người thân trong bản. người đầu tiên nghe tiếng hú của ông là một bà nạ dòng mặc áo dài nhuộm chàm, thắt lưng chàm bỏ múi. Bà lại đứng quay mặt về hướng núi hú gọi người khác. Người nọ gọi người kia theo kiểu dây chuyền. Cứ như thế chừng non nửa tiếng đồng hồ, thung lũng vang đầy những tiếng hú bổng trâm, cao thấp. Rồi người nọ theo người kia lục tục kéo đến. tôi rất ngạc nhiên vì người nào cũng đem theo một bó nứa rất dài. Ông già Mộc giải thích đó là bó đuốc. Đi chơi buổi chiều phải đem theo đuốc để soi đường lúc trở về. Người khách nào tới cũng ra cầu thang phụ rửa chân. Nước ở đây giống như vòi nước máy ở thành phố. Nhưng nó không chảy trong các ống thép mà chảy qua các ống nứa dài, ống nọ nối ống kia bắc ngang lưng núi, ăn sâu mãi tới đầu nguồn suối. Sau khi rửa sạch chân, khách bỏ dép dưới cầu thang, đi chân đất vào nhà, qua gian bếp, gian chính mà tới sân trước. Ông già Mộc bảo: “Khách thân tình được đi cửa sau, khách lạ, khách quý đi cửa trước”. Khi khách khứa đã xếp chân ngồi thành vòng tròn, ông già Mộc xoa tay nói:
- Hôm nay, tôi gặp hai đứa cháu dưới xuôi lên chơi. Tôi thịt con lợn mời bà con bản tới ăn mừng. miếng xôi người đàn ông hông vụng, miếng thịt người già nướng không ngon, nhưng trong bụng vui, mời bà con uống rượu.
Nói xong tiếng Kinh, ông lại dịch sang tiếng Nùng. Đám dân bản nhìn chúng tôi, người gật gù, người cười cười, người đưa tay vuốt tóc hoặc nắm tay hai đứa. Tự nhiên biến thành một nhân vật trung tâm được mọi người chú ý, tôi ngượng đỏ mặt. Loan hạt mít tự nhiên hơn tôi. Nó cứ tít mắt lại mà cười. Trong đám dân bản, bà nạ dòng mặc áo dài chàm biêt tiếng Kinh khá sõi.Bà ta quay sang nói dồn dập:
- Ôi dà, các cháu xinh đấy, trông các cháu ngoan đấy. Bao nhiêu tuổi rồi?... Á à…mười ba tuổi mà to vậy?... Lên ở bản Muốn là đẹp gái ra nhiều lắm đấy. Da hồng như cánh hoa đào. Rồi không muốn về dưới xuôi nữa đâu…
Chờ cho bà hết bài diễn thuyết lộn xộn và nồng nhiệt đó, ông già Mộc bưng hũ rượu rót vào từng chén. Ông có mười hai chiếc chén sứ Giang Tây rất đẹp. Không hiểu sao, bao nhiêu năm chiến tranh, qua những lần chạy giặc khổ sở như vậy mà ông vẫn giữ được nguyên vẹn những thứ của dễ vỡ đó?...
- Nào chúc hai cháu mạnh giỏi, ngoan ngoãn… Chúc bà con khỏe, cứng cáp chân tay, săn thú thú chết gieo lúa nương lúa nương đầy giàn.
Ông già Mộc bưng chén rượuc chúc. Những người khác cũng lần lượt chúc theo. Bữa ăn bắt đầu. Ba con dao nhỏ sắc lẻm đặt ba góc. Thịt nướng, thịt luộc, lòng lợn để nguyên trên từng chiếc nống xinh xắn, sạch sẽ. Ai ưng ăn miếng nào, cầm dao xẻo miếng nấy. Thoạt tiên, mọi người còn nói chuyện. Tới nửa chừng bữa ăn, rượu ngà ngà, ông già Mộc vào trong nhà lấy ra một cây đàn tính. Ông rậm râu lúc nãy cầm dao giết lợn trông thành thạo như một ông hàng thịt chính công, bây giờ cầm cây đàn tính gẩy. Cặp mắt đen của ông trở nên dại dại, hiền từ.
- Tính tính tinh… tang tình tình tang tính…
Âm điệu réo rắt của cây đàn hòa lẫn tiếng hát trầm đục, hòa lẫn tiếng suối reo xa xa vọng tới và tiếc nước chảy róc rách trong các ông dẫn nước thành bản nhạc lạ lùng, không bao giờ có thể quên. Đệm vào giai điệu đó là tiếng chày giã gạo ở các cối nước thì thụp đều đặn, khiến tôi tưởng như thời gian ở đây dài dằng dặc một năm bằng một thế kỷ ở vùng đồng bằng.
Mặt trời đã lặn từ lâu. Thoạt tiên còn nhìn rõ lờ mờ mặt người. Sau chỉ thấy những bóng đen ngồi đối diện hoặc cạnh ta. Mọi người say hát, không ăn và uống rượu nữa. họ cứ hát hết bài này sang bài khác. Những giai điệu không khác nhau là bao. Dân ca vùng này khác hẳn những bài quan họ dưới quê tôi, nó buồn, lặng lặng như cảnh núi non tĩnh mịch vậy. Khi đất trời đã tối đen như mực tàu, ngôi sao bạc nhỏ lấp láy trên đỉnh núi, ông già Mộc mới vào nhà lấy cây đèn ba dây lên thắp. Ánh sáng khiến đám người đang mê mẩn vì những bài ca kia bừng tỉnh lại. họ tiếp tục trao đổi những câu chuyện, tiếp tục uống rượu, ăn thịt, và cười khe khẽ mỗi khi ông già Mộc pha trò. Người bản thường ít cười. nếu không có ông già Mộc, hẳn suốt bữa ăn họ chỉ lầm rầm hoặc hát như vậy. Ngọn đèn ba dây sáng lay động một khoảng rộng. Ngoài xa, núi non chập chùng đen thẳm. Tiếng kêu của những con vật, chắc con hoẵng hoặc nai, tôi đoán vậy vì nó giống như tiếng kê của con nai, con hoẵng tôi đã được xem phim vọng tới. Bữa ăn đêm vùng núi đượm một vẻ kỳ dị khiến tôi thú vị. Tôi hít thở khí trời mát lạnh hơi sương, tìm một góc vắng nằm dài, ngắm những vì sao li ti gắn trên trời. Khuya lắm, bữa tiệc mới tan. Mọi người lục tục đốt đuốc ra về. Đứng trên sàn nhìn xuống, trông như có một con rắn lửa lượn giữa thung lũng.
- Nhìn kìa, đẹp chưa?...
Tôi kêu lên, chỉ cho Loan hạt mít. Nó đứng sát vào tôi, khẽ nói:
- Ờ thú thật. Thú vị thật. trong phim cũng chưa thấy cảnh này đấy nhé.
Chúng tôi đứng ngắm những đốm lửa một lúc lâu cho tới khi chúng tan tác đi nhiều ngả, khuất sau những vườn bưởi, vườn dâu gia, những nếp nhà sàn, mới vào nhà.
- Nào các cháu, giúp ông một tay nhé – ông già Mộc gọi.
Từ lúc chúng tôi đặt chân lên sàn, ông không cho chúng tôi mó tay vào một việc gì thuộc về bếp núc. Tới lúc ông cất tiếng gọi, tôi nhanh nhẹn đáp:
- Vâng. Chúng cháu đi rửa bát chén, ông nhé.
- Không đâu, không đâu… - ông già Mộc lắc đầu – Bát chén mai rửa nước nóng. Giờ ông cháu ta làm thịt cho tươi.
- Vâng. Các món thịt cháu vẫn biết làm.
Tôi đáp lời, xẵ tay áo chuẩn bịthái thịt để kho hoặc làm ruốc bông theo kiểu miền xuôi. Nhưng ông già Mộc lại lắc đầu:
- Không phải vậy.
Ông gọi tôi:
- Cháu lại đây. Cứ mỗi lần ông bảo, cháu lại rắc một bát muối vào cối, rắc từ từ và thật đều.
Rồi ông gọi Loan:
- Cháu nhặt thịt ném vào cối cho ông. Khi nào ông bảo thôi thì ngừng tay lại.
Chúng tôi đi theo ông vào gian bếp, chờ đợi. ông vần ra một chiếc cối đá to như chiếc cối chìm giã gạo dưới đồng bằng, nhưng rất cao và dày. Chày giã dài hơn một thước. Đặt cối đặt chày xong, ông bưng ra chiếc thúng lớn đựng thịt lợn đầy tới cạp. Những miếng thịt đã pha sẵn, đều tăm tắp, miếng nào cũng nặng chừng năm sáu lạng. Rồi ông lại lấy ra một chiếc sọt tre đáy nhỏ, miệng rộng, tựa hình cái chum và một ôm rơm mới thơm mùi nắng. Sau đó ông bảo Loan cầm từng tảng thịt ném vào cối, tôi thì rắc muối lên. Ông vừa giã vừa đảo cho những hạt muố sắc cắm sâu vào thớ thịt. Hết mặt nọ, lật mặt kia. Khi những tảng thịt đã thấm muối, ông xếp ra sọt. Đáy sọt lót rơm. Thịt xếp xong một lượt lại ém rơm lên lượt nữa. Hết thúng thịt thì đống rơm to tướng cũng sạch trơn. Chiếc sọt tre đầu thịt tới tận ngọn. Ông già Mộc bưng sọt thịt muối đặt nơi thoáng gió:
- Cứ thế này, ông cháu ta có thể ăn thịt luôn trong hai ba tháng mà vẫn tươi ngon.
Xong việc, chúng tôi rửa mặt rửa tay chân bằng nước nóng rồi đi ngủ. Tôi với Loan nằm cùng một ngăn buồng, trên đắp chăn, dưới trải nệm. Cả hai đưa đều bâng khuâng, trăn trở vì thấy cuộc sống của mình biến động không thể nào lường trước. Nỗi vui, nỗi buồn, lòng mong nhớ, sự thắc thỏm xáo trộn trong lòng. Nhưng khoảnh khắc đó cũng chỉ kéo dài được năm mười phút. Rồi chúng tôi ôm nhau ngủ.
Hôm sau, mặt trời lên khỏi núi tôi mới tỉnh dậy. Loan vẫn còn ngủ say. Má nó đỏ hồng. tôi để cho bạn ngủ, lặng lẽ bước ra ngoài buồng.
- Lại đây uống nước cho ấm bụng.
Ông già Mộc gọi. Ông ngồi bên bếp, uống trà. Tôi nhìn chạn bát đã thấy bát chén rửa sạch, úp từng hàng, từng lối. Trên bếp, chõ xôi đang bốc hơi thơm lựng. Ông già Mộc đưa cho tôi chiếc ấm đồng tobằng cả chiếc gầu múc nước, bảo:
- Nước nóng đó, rửa mặt đi.
Tôi ra cầu thang sau, hứng nước lạnh giá chảy long tong từ ông mương vào thau, rồi pha nước nóng trong ấm để rửa mặt. Rửa nước nóng khi hí trời tê tê lạnh thật thú vị. Tôi vào bếp, trách ông già Mộc không gọi tôi dậy sớm rửa bát chén, thu dọn nhà cửa. Ông bảo:
- Cháu ngoan đấy. Nhưng ông ít ngủ, ông làm cho vui tay vui chân. Các cháu đang tuổi no ăn no ngủ mà không được phỉ sức thì ốm người đi… Nào, ngồi đây uống nước với ông, chờ bạn dậy rồi ăn xôi sáng.
Tôi hỏi:
- Mặt trời lên khỏi núi, sao ông không phải đi nương?
Ông già cười:
- Ông có một mình, nuôi lợn, nuoi bò, làm đồ mộc cũng chưa tiêu hết tiền, đi nương nhiều làm gì nữa?... Đó, cháu nhìn đàn bò của ông xem…
Ông chỉ xuống khe sàn. Dưới chuồng thênh thang có tới mười lăm con bò. Còn lợn thì khoảng ba chục chú. Gà lớn, nhỏ đậu tựng bầy trên các thanh ván gác ngang, cao thấp khác nhau. Có hơn mười chiếc ổ rơm treo giáp vách gỗ quây chuồng. Quả thực, so với người nông dân miền xuôi, gia tài của ông già quá đồ sộ. Tuy nhiên, mùi phân bò, phân lợn, mùi nước tiểu khai nồng từ dưới sàn bốc lên khiến tôi khó chịu. Nhất là buổi sớm, khi gió thung lũng chưa tới lùa đám hơi lưu cữu hôi hám đó đi. Tôi hỏi:
- Sao ông không làm chuồng nuôi bò, nuôi lợn, gà riêng? Ở thế này mùi khó chịu lắm. Ở lâu sinh bệnh ra đấy.
Tôi định nói ở thế này mất vệ sinh, nhưng sợ ông giận nên đành nói trệch đi như vậy. Ông già Mộc gật đầu:
- Ông biết chứ. Dưới xuôi, mình có làm chuông bò bên dưới nhà ở đâu… Ông đang vận động bà con trong bản làm chuồng bò, chuồng lợn riêng. Nhưng phải dần dần. Không mỗi lúc mà thay đổi được. Bà con ở đây quen ở như bây giờ. Họ bảo người ở trên, bò lợn ở dưới thì hổ sợ hơi người không dám tới bắt bò bắt lợn. Làm chuồng riêng, hổ về khênh đi hết. Ông học tập trên huyện về gần một năm nay mà đã ăn thua đâu. Bữa trước, bà Kín (tôi biết là bà nạ dòng mặcáo dài nhuộn chàm sang ăn cơm tối qua) vừa làm chuồng bò nhốt riêng hôm trước, hôm sau con cọp thọt về tha con bò cái chửa đi mất. Ai nấy sợ hãi bỏ cả. Giờ chỉ còn mình ông cương quyết quây chuồng bò, chuồng lợn riêng. Cháu có thấy đám gỗ dựng giáp sàn sau không? … Đó là gỗ cọc chuồng. Nhưng còn thiếu nhiều gỗ ván lắm.
- Ô, ông yên trí, cháu sẽ giúp ông lấy gỗ làm chuồng bò. Cháu khỏe không kém con trai đâu, ông ạ. Ở nhà cháu vẫn vật nhau với tụi chúng nó đấy…
Tôi hăng hái xắn tay áo lên.
Ông già Mộc nhìn tôi, hấp háy cười, ánh lửa trong mắt ông vui như đang nhảy múa:
- Ô, cháu ngoan quá. Cháu chỉ nói thế là ông ấm lòng, đủ sức vác gỗ về làm chuồng bò rồi… - Ông cầm cánh tay tôi, lăc lắc – Tay này phải tốn năm gian nhà thóc, ba gian nhà thịt mới vác nổi gỗ rừng… Cháu nghe chưa?...
Lúc đó Loan hạt mít lò dò từ trong buồng bước ra. Tôi giục nó đánh răng, rửa mặt để còn ăn xôi sáng. Tôi đói bụng rồi. Quái lạ, hình như ở trên này dạ dày tiêu nhanh gấp đôi dưới phố. Tôi chưa bao giờ thấy mình ăn khỏe và háu ăn như thế.
Ăn xong, ông già Mộc bảo chúng tôi cùng lên nương dỡ sắn. Chúng tôi tưởng dỡ sắn về nấu ăn nhưng ông bảo sắn ở đây chỉ nấu cho lợn. Năm nào, không may mất mùa, người bản mới ăn độn sắn vào nếp hông xôi. Từ nhà lên nương đường không dài, nhưng phải leo dốc khá cheo leo. Chúng tôi cứ bám theo gót ông già mà đi. Dọc đường, ông chỉ cho chúng tôi những nguồn nước trong suốt vọt từ kẽ đá ra. Người bản kê ống nứa vào hứng. Mỗi nhà tìm một nguồn nước. Cụm nhà nào gần nhau thì bắc chung ống máng dài. Dòng suối chảy qua phía bắc thung lũng rất xiết nên đặt được hơn mười chiếc cối giã gạo. Gạo trong các cối trắng muốt. gạo nhà ai nhà nấy tới lấy. Không được trộm của ai. Thảng hoặc nếu có kẻ cắp thì đó chỉ là những con chuột núi lông xù dạn dĩ to bằng con mèo nhỏ. Chúng đã quen với cối nước nên bò tới, thò mõm vục ăn gạo ngay khi chày vẫn thùm thụp nện xuống chạm cả vào râu. Những con chuột đó là những tên trộm không tòa án nào xử được. Chúng quá tinh ranh. Dẫu có gài bẫy cũng đố ai bắt được. Dọc theo dòng suối, giữa các cối gạo nước thường có những cây cổ thụ hoặc những mái lều con, người bản làm để trú nắng mưa khi lên nương hoặc đi đường. Từ trên cao nhìn xuống, chúng giống như những hộp diêm xinh xắn. Phía dưới các cối giã gạo, nơi dòng suối đã trở nên hiền hòa, nước mỏng và tràn lên bái sỏi phẳng lì thì không còn những cây đại thụ mà chỉ có rau cải xanh um ven bãi và những đám hoa rừng đủ màu sắc nở trong các búi cỏ dại. Mặc dì mặt trời lên cao, sương đọng trong các đám cỏ vẫn chưa tan hết, chúng phản chiếu ánh nắng như những hạt thủy tinh. Sơn ca núi từ lưng chừng trời đâm nhào xuống cỏ, rồi lại từ những búi cỏ xanh rờn bay vút lên, buông tiếng hót vang lừng.
Tôi đứng trên nương lau mồ hôi, cùng Loan ngắm nhìn cảnh núi non, lắng nghe chim hót và thấy lòng lâng lâng như đang chắp cánh bay lượn. Tôi ước chi mình được là con chim kia, suốt tháng năm bay lượn dưới ánh nắng rực rỡ, giữa khoảng không xanh thẳm của bầu trời, và cất tiếng hót mê say, ngợi ca cảnh núi non hùng tráng… Ồ, giá như vậy, giá chúng tôi có cánh bay như vậy!...
Ý nghĩ của tôi không kéo dài được thêm vì ông già Mộc bỗng đứng thẳng lưng, giơ bàn tay che mặt, nhìn trời rồi gọi:
- Hai cháu ơi, về nhà thôi. Trời sắp dông rồi đấy.
Tôi nhìn quanh. Chẳng thấy một đám mây đen nào. Cũng không có ráng mây mỡ gà, mỡ chó. Chỉ một vệt mây tê tê vắt ngang dãy núi phía đông và trời bỗng dưng lặng gió. Ông già Mộc đặt chiếc đòn gánh tre, hai đồng trồng hai quầy sắn, gọi lần thứ hai, hối hả hơn:
- Về mau thôi các cháu. Dông đến nơi rồi. Khí trời oi như thịt voi để qua đêm… Về thôi…
Miệng nói, chân ông bước. chúng tôi vội vã bước theo ông. Mỗi đứa ôm trong tay một chùm sắn nguyên gốc nặng tới năm sáu cân. Ông già Mộc ngoảnh lại:
- Các cháu ném sắn xuống, mai kia lấ cũng được. Từng này, lợn đủ ăn ba bốn ngày rồi.
Tôi tiếc rẻ chùm sắn ngon. Dưới xuôi, tụi tôi vẫn mua sắn luộc chia nhau từng khúc ăn vào giờ ra chơi. Tôi nói:
- Cháu mang được mà.
Ông già bảo:
- Không. Các cháu vứt hết đi, chạy cho nhanh.
Tôi ngần ngừ:
- Nhưng nếu đêm nay lợn rừng ra ăn hết…
- Nó ăn hết thì tôi, không tiếc. Đi nhanh lên.
Ông nói gấp gáp. Chúng tôi đành vứt bỏ hai chùm sắn, đi theo ông. Đường xuống núi còn khó hơn đường lên vì rất dễ ngã. Chỉ vô ý sẩy chân là đập đầu vào đá hoặc lăn xuống hẻm như chơi. Chúng tôi đi tay không mà toát mồ hôi mới theo kịp ông già. Quả nhiên chưa hết dốc, mây đã từ đâu cuồn cuộn bay tới trong nháy mắt, như bùa phép của loài ma quỷ. Gió từ cánh rừng thổi tới, rú lên từng hồi. Cây cối đổ ngả nghiêng, xiêu vẹo. Khi ba ông cháu chúng tôi vừa bước lên cầu thang phụ, mưa ào ào đổ xuống.
- Ôi chà chà, thật là may…
Ông già nói. Chúng tôi im thin thít. Giá chúng tôi không chịu nghe lời ông thì đã ướt như chuột lột từ chân dốc kia rồi. Mọi người rửa chân, vào nhà ngồi quanh bếp lửa sưởi. Ai nấy đều đã thấm rét. Nước trong ông máng không chảy long tong như mọi khi mà ào ào như thác xối. Chiếc chum hứng đầy tràn. Hơi nước bên ngoài bay mờ mịt vào cả trong bếp, nơi ngọn lửa hồng nhảy nhót, tỏa hơi ấm và gieo nỗi yên ấm vào tâm hồn chúng tôi. Tôi bỗng nhớ tới con sơn ca vúi lúc nãy vừa bay lượn, cất tiếng hót thánh thót trên bầu trời. Giờ này không biết nó núp trong hốc cây hay hang đá? Hẳn đôi cánh ướt đã cụp lại để giữ hơi ấm trong cơn mưa rừng lạnh buốt này. Vừa mới đây thôi tôi đã thèm khát ước ao số phận của nó. Nhưng bây giờ, tôi biết mình lắm. Không, con người vẫn hơn tất cả. Dẫu cùng cực hay nguy khốn, con người có khối óc, có đôi tay và do đó con người sẽ có một mái nhà trú ẩn. Tôi xòe bàn tay lên đám than hồng, nhìn cảnh trời mưa bão mịt mùng và bâng khuâng nhớ tiếng hót của con sơn ca bé nhỏ.

Chương 15

Ông già Mộc không chỉ làm nghề thợ mộc. ông cũng gieo lúa nương, trồng sắn, nuôi lợn, nuôi bò đàn như tất cả những người dân bản. Ngoài ra, ông còn săn thú và biết nấu cao. Trong nhà ông không treo những tấm da hổ, da báo. Ngực ông không đeo vuốt hổ, nhanh hổ như những tay thợ săn chuyên nghiệp ưa khoe tài, nhưng qua nhiều câu chuyện tôi thấy dân bản kính nể ông về tài săn thú và nấu cao là những nghề vốn dĩ không phải là của dân đồng bằng. Một chiều, theo lệ thường, tôi chuẩn bị bữa ăn. Ông già Mộc lúi húi phía sau nhà thay mấy tấm ván mục trên cầu thang phụ. Hôm đó, tôi và Loan bắt được ít ốc suối nên chúng tôi kiếm lá lốt, bày trò giã nghệ, thái thịt nấu nướng công phu hơn mọi bữa. Sắp được ăn, bỗng có người gọi phía trước:
- Ông Mộc ơi, ông Mộc có nhà không?
Tiếng Kinh rất rõ ràng, không hề pha trộn giọng vùng núi. Tôi bỏ chiếc muôi múc canh, chạy ra.
- Ông Mộc có nhà đấy chứ?
Một người đàn ông gầy gò, đen đủi hất hàm hỏi tôi, tự nhiên như ông ta bieté tôi từ lâu lắm.
- Ông cháu có nhà – tôi đáp – Mời ông ngồi chơi, uống nước đã.
Rồi tôi bảo Loan:
- Đằng ấy xuống gọi ông đi.
Loan đứng trong bếp, gọi gióng giả. Kỳ thực, không cần chúng tôi gọi, ông Mộc cũng đã nghe tiếng khách lạ vào nhà. Nhưng ông cứ lẳng lặng làm việc, dửng dưng. Thái độđó khác hẳn thái độ niềm nở của ông đối với dân bản.
Người khách cứ im uống nước, tự rút ra gói thuốc lá vụn, cuốn sâu kèn hút,nhẫn nại ngồi chờ. Khoảng nửa giờ sau ông già mới rửa chân tay vào nhà.
- Ông lên đây theo tiếng con cú kêu, hay theo lối con cáo dẫn?... Ông lại muốn rủ tôi nấu cao hổ, cao khỉ như năm xưa chăng?
Ông già mộc cất tiếng hỏi ngay, giọng không vui không giận, nhưng lạnh lùng.
Người khách cụp đuôi mắt, đưa bàn tay khô khốc gãi những kẽ ngón chân còn đầy bụi đường.
- Ông Mộc, chuyện đã qua rồi…
Ông già Mộc đáp:
- Chuyện ân nhớ nghìn năm, còn chuyện oán cũng phải trăm năm mới lạt dạ.
Người khách im lặng, mặt buồn xo. Đôi vai ông ta chảy xuống trong tấm áo màu xanh da trời đã nhem nhuốc cáu bẩn vì ghét bán và bụi đường. Mặt ông ta hóp lại, cằm nhọn hoắt. Cặp tai bé xíu và mỏng như hai chiếc mộc nhĩ dán vào da đầu. Đôi lông mày thưa thớt luôn cử động mặc dù bộ mặt ỉu xìu của cúi gằm xuống và cặp mắt như gằn vào một điểm trên tấm gỗ lát sàn. Ông già Mộc châm thuốc hút. Không ai nói được với ai một lời nào nữa. cho tới khi điếu thuốc đã tàn, ông già Mộc mới đứng lên:
- Thôi dẫu sao ông cũng lội suối, qua đèo tới đây. Ông vẫn là khách, ông ra sân sau rửa chân tay rồi vào uống rượu, ăn cơm… Nào, cháu Bê, cháu Loan. Canh ốc được chưa nhỉ?... Ông đói bụng lắm rồi.
Chúng tôi dọn cơm trên chiếc mâm gỗ đen bóng như sừng. Mân có chân cao nên ngồi sàn ăn rất tiện. Không phải xôi nếp mà là cơm gạo tẻ. Óc nấu thịt, nghệ, lá lốt, gần được như món canh ốc dưới xuôi. Thịt lợn rán và xào nấm hương.
- Chà chà, hai đứa làm bếp giỏi quá. Hôm nay ông phải uống ba chén rượu mới được.
Ông già Mộc cắt một lát cao hổ đen, mùi tanh, vị mằn mặn, cho vào chén. Ông cời mấy cục than hồng đặt chén cao chảy tan rồi rót rượu vào uống. Thỉnh thoảng ông cũng cho chúng tôi uống một tí rượu pha với nước đường chứ không cho uống cao. Ông bảo:
- Chưa tới tuổi bốn mươi, uống cao hổ với ăn nhung, thịt nứt ra. Không chết thì cũng không làm gì được.
Người khách lạ sau khi rửa chân tay, lặng lẽ ngồi xuống bên mâm. Ông già Mộc rót cho ông ta chén rượu và bảo:
- Ông đi đường xa mệt, cứ ăn no uống say rồi đi ngủ. Muốn chuyện gì mai nói.
Bữa cơm lặng lẽ, tuy ngon miệng nhưng không vui như mọi ngày. Lệ thường, ông già Mộc hay kể chuyện. Ví như ông kể trong cái hang gần nương sắn của ông có một conkhỉ già lông đã rụng trơ trụi. Một hôm cả bầy đang đu trên cành cao, con khỉ già bỗng trượt tay rơi xuống. Một con khỉ khác túm được chân nó nhưng không đủ sức kéo lên. Con khỉ già cứ chơi vơi trên miệng vực, rú lên thê thảm. Cả bầy khỉ hoảng sợ cũng rú lên. Con khỉ đựcđang túm chân còn khỉ già gần như sắp rơi theo vì căng thẳng. Sau cùng, con khỉ già quay cổ chí chóe kêu làm hiệu chocon khỉ đực kia buông tay. Khỉ đực chần chừ. Con khỉ già thu hết sức lực hét lên một tiếng dữ tợn. Khỉ đựcgiật mình buông tay, khỉ già rơi xuống vực sâu giữa những mỏm đá và chết. Bầy khỉ chuyền cành cây lần xuóng, chúng kêu than, đưa tay quệt nước mắt rồi khiêng con khỉ già bỏ vào hang. Ông già Mộc dã chứng kiến cảnh đó. Ông bảo chúng tôi rằng đôi khi tình thương yêu giữa những con vật khiến cho con người phải thèm muốn và kinh ngạc. Hoặc ông kể chuyện săn nhím, chuyện bắt chồn. Thành ra bữa cơm nào cũng giống như một buổi sinh hoạt văn nghệ với hai đứa tôi. Riêng bữa cơm hôm nay thì không. Thế nên tôi không khỏi có ác cảm với ông khách xa lạ đó. Cơm xong, ông già Mộc bảo chúng tôi đi ngủ sớm. Ông chỉ góc nhà có sẵn chăn nệm cho người khách ngủ, rồi ông cũng đi ngủ luôn. Giữa nhà, ngọn lửa cháy bập bùng. Chốc chốc, hơi gió lùa vào đám than hồng rực, thổi những tàn than bay rực rỡ. chúng tôi nằm nghe ngóng xem ông Mộc có nói chuyện với con người lạ lùng rất đáng hồ nghi kia không. Nhưng tuyệt nhiên chỉ có tiếng than nổ lép bép. Sau cùng, tôi ngủ quên. Sớm hôm sau, khi tôi thức dậy, ông già Mộc và người khách lạ đã ngồi bên bếp lửa. trời còn tối om. Gió lạnh. Sương bay mù mịt như sữa loãng tràn vào tận trong nhà. Ngọn lửa được khêu cháy rừng rực. Ánh lửa hắt lên khuôn mặt rắn rỏi điềm tĩnh của ông già. Ông đang hút thuốc. Người khách lạ ngồi xo ro, quay lưng lại phía tôi nằm, nói thẽ thọt:
- Tôi đã tính cặn kẽ với ông rồi mà. Tôi không dám đơn sai. Ông giúp cho kẻo vợ tôi chết mất. Lần này, tôi không còn ham làm giàu nữa. Vợ tôi chết, tôi không thể nuôi nổi năm đứa con.
Ông già Mộc chậm rãi nói:
- Lân ftrước ông cũng bảo vợ ông sắp chết mà.
Người khách van vỉ:
- Lần ấy tôi nói dối ông. Tôi mang cao về, bán đi hết để lấy tiền. Tôi định buôn gỗ lấy lãi để trả ông nhưng tôi bị kiểm lâm phạt, thu mất hai bè gỗ lát… Rồi tôi thua bạc… Nhưng lần này tôi không dám làm thế nữa. Vợ tôi ốm nặng lắm, nếu nó chết, tôi đành dăt năm đứa con đi ăn mày…
Ông ta cúi gục đầu xuống, trông khốn khỏ. Đốt xương sống lòi ra nhô cao phía trước gáy. Ông già Mộc vẫn tiếp tục nhả khói thuốc. Và người đàn ông kia, dường như cảm thấy tuyệt vọng, ngước nhìn ông già, đưa một cánh tay lên cao.
- Tôi xin thề… - giọng ông ta như nghẹn lại – Tôi xin thề vong linh của năm đứa con tôi. Nếu tôi còn đơn sai, chúng nó sẽ chết. Chúng nó sẽ chết.
Mấy tiếng cuối, ông ta nói gần như khóc. Rồi ông ta rũ mái tóc lâu ngày chưa cắt, xơ xác, bẩn thỉu xuống. Giống như một kẻ hành khất ngồi bên lề đường.
Ông già Mộc ném mẩu thuốc thừa vào đám lửa bếp, thở dài:
- Thôi được, tôi thương năm đứa trẻ vô tội. Tôi sẽ giúp ông.
Nói xong, ông đứng lên, vào gian nhà chính, lụcgì đó trong chiếc tủ đồ sộ mà ông vẫn dùng đựng quần áo, tiền bạc, đồ đạc, đồ đồng và nhiều thứ linh tinh mà tôi không biết tên. Sau đó hồi lâu, ông lại bước tới, ngồi xuống bên bếp lửa:
- Bệnh của vợ ông không trị được bằng cao hổ. Phải có cao ngựa bạch.
- Cao ngựa bạch? – người khách hỏi – Tôi có nghe thầy thuốc nói tới thứ cao đó đâu.
Ông già Mộc không trả lời mà trầm ngâm suy tính:
- Phải lần tới bản Nọi, may ra mới có. Xương hổ đã khó mua. Xương ngựa bạch lại càng khó mua hơn. Người có ngựa bạch không bao giờ bán vì xua nay họ cho rằng con ngựa bạch ra khỏi nhà chở theo một nửa linh hồn. Dân vùng này tin điều đó… Tôi sẽ giúp ông, nhưng có được hay không cũng còn tùy ở ý Trời.
Người khách lạ bỗng quỳ thụp xuống, hai tay chắp lại, vái lia lịa:
- Tôi lạy van ông, ông thương lấy năm đứa trẻ. Tôi có tội nhưng chúng nó thì không. Ông cứu cho mẹ nó được sống.
Ông già Mộc chắc hẳn không muốn nhìn cảnh đó. Ông quay mặt đi:
- Đừng làm như vậy. Ông ngồi lên. Tôi không nói thì thôi. Đã nói, một lời như con dao cắm vào cây gỗ rắn, khó rút, khó lay…
Người khách lạ đang gục đầu trên mặt sàn chống tay ngồi thẳng dậy. Bên ngoài, trời đã rạng sáng. Sương loãng ra như sữa lỏng. Từng đám mây lướt thướt bay qua khung cửa nhà. Loan trở mình, thức giấc. Nó hỏi tôi:
- Đằng ấy dậy lâu chưa?
- Rồi.
Tôi đáp khẽ và bấm nó lặng yên. Ngoài bếp, ông già Mộc nói:
- Ông đi kiếm tiền mà nuôi trẻ. Việc đã hứa giúp ông, tôi sẽ làm. Một tháng nữa, ông quay lại đây.
Ngời khách đáp lí nhí gì đó. Hình như ông ta cảm tạ ông già Mộc. Ông già bảo khách ăn xôi sớm. Ông ta ăn rất nhanh rồi khăn gói ra đi. Chúng tôi cứ nằm im thít trong buồng. Chờ cho người khách kia đi một lúc, ông già Mộc mới gọi chúng tôi dậy rửa mặt, ăn xôi. Tôi hỏi chuyện ông về con người kỳ quặc đó, nhưng ông chỉ đáp một câu:
- Ông ta là dân Kẻ Sặt, cùng làng với ông đấy. Con người tham tiền, coi nhẹ nghĩa nhẹ tình là bạc, không ăn ở bền được với ai. Nhưng vợ con ông ta vô tội nên mình phải giúp họ… Thôi cháu còn bé, đừng nghe nhiều chuyện xấu cho đen óc, đen đầu. Ngày mai ông cháu ta sẽ sang bản Nọi. Ông sẽ cố tìm mua con ngựa bạch về nấu cao.
Hôm sau, cả nhà dậy thật sớm.Ăn xôi xong, phải nén xôi gói trong lá chuối nướng. Lại phải hong than thui thịt lơn và thịt nai khô đem theo ăn đường. Tôi vui sướng vì từ ngày tới bản Muốn, đây là lần đầu tiên chúng tôi được đi xa. Đường lên bản Nọi ngược về phía tây bắc thung lũng. Phải vượt qua dãy núi sau lưng bản rồi xuống một đường mòn đi qua những rừng ổi lưa thưa dọc con suối cạn. Hết rừng ổi tới một thung lũng chỉ có những mảnh ruộng cao thấp từng hàng lúa đang lên mượt. Hết thung lũng, con đường chui vào giữa hai ngọn núi đá. Núi cao, cây cối mọc lưng chừng giống như tổ quạ màu xanh. Thỉnh thoảng một bầy khỉ lại chuyền cây, chí choé gọi nhau. Gần đỉnh núi, có miệng hang lớn chừng hai người đi lọt. Ông già Mộc bảo cái hang đó rộng chứa đủ năm mươi gia đình, ăn thông sang lưng núi bên kia. Hồi chín năm kháng Pháp, dân mấy bản quanh đây thường chạy vào đó tránh giặc.
Khoảng gần trưa, chúng tôi nghỉ dưới một gốc cây sao già ven đường mòn, giở xôi nén với thịt nướng ra ăn. Loan đeo bên lưng bầu nước chè xanh. Uống nước chè xong, mọi người ra rửa tay ở một nguồn nước nhỏ gần gốc sao đại thụ. Nguồn nước chảy từ lưng chừng núi, mát lạnh, trong như pha lê. Hai người dân Nùng đi sau chúng tôi cũng tới đó, rửa mặt, rồi chụm hai bàn tay uống nước núi một cách ngon lành. Tôi định uống thử nhưng ông già Mộc không cho. Ông bảo:
- Chưa quen dạ, uống nước trong kẽ đá ốm rụng hết tóc.
Rồi ông trải ni lông cho chúng tôi nằm bên vệ cỏ. Còn ông, ông ngồi tựa lưng vào gốc cây sao, ngủ ngay. Mười lăm phút sau, chúng tôi chưa kịp nhắm mắt, ông đã thức dậy, giục chúng tôi lên đường:
- Mình không đem đuốc, không có đèn săn trên trán, không có súng săn trên tay, không đi đêm được.
Ông nói đầy hình ảnh, theo cách nói của dân vùng cao. Chúng tôi tiếp tục đi. Buổi chiều, nắng oi và ít gió nên khá mệt. Cả hai chúng tôi đã cởi áo bông từ trước bữa ăn trưa mà vẫn thấy khó chịu. Qua con suối, chúng tôi đòi ông cho rửa chân tay, nghịch nước chừng dăm phút rồi mới chịu đi. Khi trời hết nắng, lớp sương mờ mờ đã lan khắp cửa rừng, chúng tôi tới bản Nọi. Bản này là một phố nhỏ, nơi tụ tập buôn bán của dân dưới xuôi lên và dân Mèo, lân Lô Lô trên núi cao xuống. Bản cũng toàn những nhà sàn nhưng không xa nhau vài trăm thước như ở bản Muốn. Nhà nọ với tay sang nhà kia mượn con dao, vay nắm muối được. Dưới sàn nhà, phân lợn, phân bò ngâpj ngụa. Vì người ở chen chúc, súc vật cũng chen chúc, gió không lùa mùi phân đi khiến chúng xông nồng nặc. Giữa bản, có một đám chừng hơn chục nóc nhà làm theo kiển nền lát gạch như dưới xuôi. Đám nhà đó toàn là dân bán phở, bán hàng tạp hoá, làm đậu phụ, tương và mắm. Chợ bản Nọi gần đám nhà trệt đó. Khi chúng tôi tới, chợ đã tan.
Chỉ còn trơ lại những mái ngói cổ, lợp trên những cây cột cũ kỹ, mòn nhẵn vì tay người cọ xát. Những đám hồng giậơ nát, bã mía, rác rưởi, lá bánh còn ngổn ngang chưa ai quét.
- Ta tìm quán ăn bát phở cho ấm bụng – Ông già Mộc nói.
Chúng tôi đi theo ông tới căn nhà to nhất đám nhà trệt. Nhà này cũng có hiên như nhà dưới xuôi, nhưng lại lợp ngói ống là thứ ngói cổ chỉ riêng các lò ngói vùng cao mới sản xuất. Cột đỡ hàng hiên vẽ rồng phượng. Một tấm biểm lớn bằng tôn kẻ chữ “Phở” đỏ chói. Dưới là hàng chữ sơn xanh nhỏ hơn: “Ngon, lành, thơm, bổ, theo đúng mùi vị phở Hà nội. Kính mời”.
Chúng tôi vào quán. Lò lửa cháy rừng rực. Thùng nước dùng sôi toả mùi mỡ bò gây gây. Rõ ràng, mùi nước dùng không thể giống mùi nước phở dưới xuôi được. Hơn nữa, thịt bò luộc treo trên móc đã khô đen. Không có túm hành treo, cũng không có tương ớt. Bánh phở thái to, cứng quèo. Bù lại, chủ nhân cho rất nhiều gừng và ớt chỉ thiên cay tới bỏng môi, trào nước mắt.
- Lâu lắm mới thấy ông tới bản Nọi ăn phở. Ông định mua xương khỉ hay xương hổ về nấu cao chăng?
Bà chủ quán bưng phở đặt trước bàn, nói. Bà ta trạc tuổi cô Lưu, người nhỏ nhắn, da trắng, tóc búi sau gáy, ăn mặc hoàn toàn như một phụ nữ vùng xuôi.
Ông già Mộc đáp:
- Ờ, lâu lắm tôi mới lại muốn nấu nồi cao. Ông bà chủ vẫn khoẻ chứ?
- Dạ, cảm ơn ông. Chúng cháu bình thường. Ông có lời dạy vợ chồng cháu không ạ?
- Tôi muốn nhờ ông nhà tìm mua cho con ngựa bạch.
Nghe tới đó, bà chủ quán “à, à…” một tiếng thật dài.
- Ngựa bạch khó tìm lắm. Tháng trước, có một người khách thấp nhỏ da đen cầm tiền tới nhờ nhà cháu mua hộ. Nhưng nhà cháu lắc đầu bỏ đi.
Ông già Mộc đặt bàn tay gân guốc lên bàn:
- Tôi biết người đó rồi. Nhưng tôi nhờ thì ông khắc tìm cho chứ?
Người đàn bà cười:
- Dạ, ông để nhà cháu về xem…
- Ông ấy đi đâu rồi?
- Nhà cháu sang bản bên xem cái lư đồng, muốn mua về làm đồ thờ tổ tiên. Khoảng tàn bếp lửa, nhà cháu về đấy.
Ông già Mộc gật gù, cầm thìa múc nước phở húp. Ông giục chúng tôi ăn cho nóng. Mặc dù phở ở đây thua xa phở dưới quê, nhưng vì đói nên chúng tôi cũng ăn một cách ngon lành. Ăn xong, ông già Mộc bảo:
- Bà xem có đậu nóng gọi cho chúng tôi mấy bìa chấm tương. Rồi mua cho hai đứa trẻ chục bánh rán nữa.
- Vâng, đậu nóng nhà bà Mén lúc nào cũng có. Ông uống rượu nữa để cháu lấy một thể. Còn bánh rán thì phải tới ông ké San. Dạo này, cả bản chỉ còn mình ké San làm bánh rán. Phiên chợ nào ông ấy cũng bán hết ba chảo đầy.
Nói xong, bà chủ cầm chiếc rổ con ra đi, trong rổ có cái bát nhỏ, chắc là để đựng tương.
Trời chạng vạng tối. Nhìn ra ngoài chỉ thấy những hòn đá mấp mô trên mặt đường vì ánh lửa rọi. Hơi sương lạnh dần, khác hẳn lúc chiều khi chúng tôi qua suối. Loan khoác áo bông lên vai. Ông già Mộc hút một điếu thuốc trong khi chờ đợi. Chừng tàn hai điếu thuốc, người đàn bà trở về. Trong chiếc rổ con, đậu phụ còn bốc hơi nóng nghi ngút. Một tấm lá dong lớn gói bánh rán cũng nóng bỏng tay, mỡ thấm đầy.
- Ông uống rượu với đậu nóng ngon lắm, ông à.
Chủ quán nói, đặt bát tương nhỏ trước mặt ông già rồi vào trong nhà bưng ra hũ rượu rót vào chén.
- Các cháu ăn đậu chấm tương trước rồi ăn bánh rán sau. Đậu ở đây ngon lắm – Ông già Mộc bảo.
Chúng tôi theo lời ông, ăn món đậu chấm tương trước. Quả là đậu phụ rất ngon, bột mịn, thơm, ngọt và béo. Ông già uống một hớp rượu lại bẻ một miếng đậu chấm tương và nhấm một chút ớt ăn kèm. Người đàn bà chủ quán đã lui về phía sau quầy hàng, đẩy những thanh củi vào lò cho chúng cháy lom dom. Bất chợt, một thằng bé cắp rổ bước vào:
- Mợ ơi, thịt đây rồi. Bò vừa xẻ chiều nay.
Tiếng nói quen đến lạ lùng. Tôi và Loan quay ra. Lúc đó, thằng bé kia cũng đặt rổ thịt xuống, nhìn chúng tôi ngỡ ngàng.
- Dũng!… Dũng còm!…
Tôi kêu lên, vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ.
Chúng tôi đứng lên. Dũng cũng từ từ bước vào, nói rất khẽ:
- Ồ, Bê, Loan… Làm sao mọi người lên tới đây được?…
Mắt nó mở to ra, loang loáng như đọng đầy nước. Nó vẫn gầy còm, tuy nó cao hơn ngày xưa chút đỉnh. Mái tóc cắt cụt ngủn khiến cho gương mặt nó có vẻ dại dại đi một cách kỳ khôi.
Ông già Mộc điềm tĩnh nhìn chúng tôi bằng con mắt từng trải và nhân hậu. Còn người đàn bà chủ quán thì sửng sốt hỏi:
- Mấy người này có quen nhau thật à? Mấy người này có quen nhau thật sao?
Tôi giải thích cho ba ta hiểu rằng chúng tôi là những đứa trẻ đã cùng sống với nhau thời thơ ấu, học cùng trường và cùng một quê hương.
Ông già Mộc vỗ vai Dũng còm:
- Ngồi đây cháu. Gặp bạn hiền là điều vui nhất trong đời. Uống một chút rượu với ông rồi ăn đậu, ăn bánh.
Dũng còm e dè ngồi xuống ghế. Nó dưa mắt băn khoăn nhìn bà mợ lúc đó đang xếp những tảng thịt bò to lớn từ rổ lên thớt. Người đàn bà hiểu ý, ngẩng đầu lên nói:
- Ông có lòng tốt, mày cứ uống rượu ăn bánh cho vui.
Dũng cầm chén rượu ông già Mộc rót cho, ngửa cổ uống một hơi. Nó uống rượu như một người dân miền núi thực thụ. Ông già Mộc hỏi:
- Cháu lên đây được bao lâu?
- Dạ, gần một năm.
Ông già gật đầu:
- Mỗi năm xa nhà, khôn lớn một gang. Khi nào cái khôn cao bằng cây lim trên núi, người ta khắc đủ khôn sống với đời. Nào, uống chút rượu nữa…
Nhưng Dũng còm không dám uống chén rượu thứ hai. Nó cầm bánh ăn và quay sang nói chuyện với chúng tôi. Tất cả những gì đã xảy ra ở quê hương, thân thuộc, từ chuyện nó mất tích, chuyện tôi và Loan bơi thuyền ra đảo Hoa Vàng để mọi người đi tìm xuốt đêm, chuyện lão Gia độc ác, chuyện tồi tệ của cai Cân đối với cô Lưu… tôi kể hết. Dũng còm trầm ngâm như một ông lão, nó nghe đủ chuyện rồi khẽ nói:
- Ông cai Cân không biết yêu con đâu. Ông ấy chỉ yêu tiền thôi. Tớ chẳng bao giờ coi ông ấy là bố. Tớ không có bố. Tớ chỉ có một người mẹ đã chết rồi. Khi nào lớn lên, làm người chủ gia đình, tớ sẽ có nhiều tiền và tớ sẽ làm giỗ mẹ tớ to hơn ngày Tết Nguyên Đán.
Chúng tôi lặng nghe Dũng còm nói. Bỗng nhiên, một người đàn ông bước vào. Đó là chủ quán, con người lạ lùng đã xuất hiện ở thị trấn khi gánh xiếc của người lùn đang biểu diễn. Ông ta vẫn cao lớn, da đỏ ửng, mặc áo đen khuy vải tết, nhưng không đội mũ cát-két bằng ka ki màu da bò bẩn thỉu mà đội mũ nồi xanh đen. Đôi mắt sáng quắc một cách dữ tợn dưới hai hàng mày rậm. Vừa đi lạnh về nên hơi thở ông phả ra trắng như sương. Ông đập bó đuốc đang cháy xuống đất, lấy chân giẫm lên cho tắt hẳn rồi bước vào nhà.
- Ôi chào, chào quý khách. Đã lâu lắm rồi ông mới lại tới đây.
Người chủ quán buông cây đuốc, giơ cả hai tay nắm bàn tay ông già Mộc lắc lắc.
- Ông chịu khó lặn lội vậy à?… Ông đã mua được đồ đồng chưa? – Ông già Mộc hỏi.
- Được rồi. Tôi đã trả tiền nhưng tới tuần trăng sau mới lấy - người đàn ông đáp lại vui vẻ. Rồi ông ta hỏi – Lâu nay ông có uống được hai ba chén rượu không?
- Được chứ - Ông già Mộc gật đầu – Tôi còn đủ sức vác cây gỗ lim trên núi về thay cột nhà. Tôi đang muốn nhờ ông tìm mua chi một con ngựa bạch.
- Sao?… Người đàn ông nhướng cặp mày lên – Đã lâu lắm ông có nấu cao ngựa bạch đâu? Vừa lâu công lại vừa tốn kém.
- Tôi biết chứ. Nhưng đây là việc cứu người.
- Người bà con của ông chăng?
- Không. Người cùng quê thôi. Nhưng chị ta có năm đứa con nhỏ. Chị ta không sống được, năm đứa trẻ sẽ mồ côi.
Người đàn ông gật đầu:
- Tôi biết rồi. Vợ cái người bữa trước lừa ông lấy cao hổ và cao khỉ. Tuần trăng vừa qua hắn lại đây năn nỉ nhờ tôi mua giùm để dắt về xuôi nhờ nấu cao nhưng tôi quay mặt đi.
Ông già Mộc đáp:
- Ờ, đúng đấy.
Người đàn ông hỏi:
- Hắn xấu bụng thế, ông còn giúp hắn làm gì? Tiền bán cao của ông một gang tay hắn còn chưa trả đồng nào.
Ông già Mộc đáp:
- Tôi không giúp ông ta đâu. Tôi cứu năm đứa trẻ vô tội thôi. Nào, ông giúp tôi chứ?…
Ông chìa bàn tay đặt lên bàn. Người đàn ông khẽ đập tay ông ta lên tay ông già, nói:
- Ông nói một lời, trèo qua bảy tám ngọn núi tôi sẽ tìm được ngựa đem về đây.
Bà chủ quan xào một đĩa thịt bò với ớt và lá sả non đem ra. Người chồng rút chiếc khăn vắt trên vách lau mặt rồi rót rượu vào chén. Ông ta bảo vợ rang lạc, nướng tôm khô thêm. Rồi ông ngồi uống rượu với ông già Mộc. Còn chúng tôi vào trong nhà ngủ. Bà chủ quán thu xếp cho chúng tôi ngủ trong một chiếc giường nhỏ ở góc buôn trong. Sau đó bà sai Dũng còm sang nhà ai đó mua thêm gừng để ngày mai làm phở bán. Mai là ngày chợ phiên. Chợ bản Nọi ngày nào cũng có nhưng cứ năm ngày môt phiên nhỏ và ba phiên nhỏ tới một phiên lớn.
Trong câu chuyện của ông già Mộc với chủ quán buổi tối hôm đó, tôi nghe ông già hỏi:
- Thằng bé này là con cháu ông chăng?
Người chủ quán trả lời:
- Ôi dà, chuyện dài lắm.
Ông già bảo:
- Lửa còn cháy trong lò, đêm còn dài, ông cứ kể. Tôi trông nó, lòng tôi cũng thương. Mà nó lại là bạn với hai đứa cháu gái đi cùng với tôi đấy.
Người đàn ông đáp rành rẽ:
- Chuyện không đẹp đẽ gì. Người khác tôi không nói đâu, nhưng ông hỏi thì tôi kể. Thằng bé này là con bà chị ruoọt tôi. Chị em tôi lưu lạc nhau từ hồi chạy Tây. Chị tôi buôn bán giàu có lắm. Ngoài số của cải củ chị, chị còn giữ vòng vàng, nhẫn vàng, hoa tai mặt đá của mẹ tôi để lại. Cả những đồ đồng thờ cúng tổ tiên. Tôi không biết hết nhưng nghe nói là đủ bộ lư, đỉnh, chân nến, hạc chầu, cả mâm thau, ấm nước nửa… Chị tôi nhiều lần nhờ người tìm tôi về nhận số đồ gia bảo và những thứ tư trang mà mẹ tôi gửi lại vì tôi là con trai, người thờ cúng tổ tiên trong họ. Chị tôi chưa tìm được tôi thì đã chết vì có u trong ruột. Tôi tìm tới hỏi anh rể nhưng lão chối phăng. Lão còn vác gậy đuổi tôi khỏi nhà. Nghĩ căm trong dạ, tôi bắt thằng bé con đem đi, tưởng lão thương con phải trả của. Nhưng lão lại thương của hơn con, lão cứ lờ như không… Chuyện dang dở, tôi chưa biết tính thế nào… xong người đàn ông thở dài.
Ông già MỘc trầm ngâm gõ gõ ngón tay lên mặt bàn hồi lâu, rồi nói:
- Thằng bé cũng không quý trọng gì bố nó… Tội nghiệp cho đứa trẻ.
Người chủ quán nói:
- Tôi nghe nói lão nhiều vàng lắm. Lão đang cầm đầu một dây buôn thuốc phiện lậu từ dưới xuôi lên Mèo Vạc thì phải. Bữa trước có người anh em của tôi gặp lão trên đó.
Ông già Mộc hỏi:
- Thế đứa bé ông tính sao?
Người đàn ông đáp:
- Vợ chông tôi chưa có con. Tôi giữ nó nuôi cũng được.
Ông già ôn tồn nói:
- Đứa trẻ có thuận, mình nuôi mới tốt. Nó không vui trong bụng, người sẽ héo như cây cỏ bị nhổ khỏi nương vườn. Ông cứ ngẫm lời tôi nói mà xem…
Chủ quán im lặng. Hình như ông ta khẽ thở dài, rồi rít thuốc. Tôi nghe tiếng Dũng còm về, báo tin đã mua đủ gừng với ớt để làm phở bán ngày mai.
- Thôi, mày rửa chân mà đi ngủ - Người chủ quán, ông cậu ruột của nó nói.
- Vâng.
Thằng bé đáp rồi ra sân sau. Nó đi ngang qua chỗ chúng tôi nằm, nhẹ như cái bóng. Tiếng nước chảy róc rách phía sân. Rồi có tiếng guốc gỗ khua lọc cọc. Dũng còm chui vào cái chăn chiên ở góc giường ngủ. Tôi không thấy nó mắc màn. Lúc ấy, tôi mới hiểu niềm hạnh phúc của chúng tôi khi gặp ông già Mộc. Rời bàn tay của mẹ, nào dễ mấy ai may mắn tìm được người giàu lòng nhân ái như chúng tôi. Tôi định gọi Dũng còm nhưng sợ người lớn nghe thấy. Vả lại, cũng đã khuya. Cả ông già Mộc lẫn vợ chồng người chủ quán đều lục tục chuẩn bị đi ngủ nên tôi đành im lặng. Mùi chăn chiếu lạ làm tôi thao thức lúc lâu. Nhưng rồi tôi cũng ngủ được khi gà vừa gáy lần thứ nhất.
Sớm hôm sau, tôi thức dậy muộn nhất so với tất cả mọi người. Loan hạt mít đã ăn sáng từ lâu. đứng ngoài cửa nói chuyện với Dũng còm. Lò lửa của bà chủ quán cháy rừng rực. Mùi mỡ bò, mùi xương bò ninh bốc hơi ngầy ngậy, gây gây. Người vào ăn phở đông. Phía trước la liệt sọt, lủ đựng hàng của dân vùng cao mang sa nhân, hồ, nấm hương, mộc nhĩ, măng khô… về bán. Những chiếc xe ngựa từ các phố huyện tới mua hàng đem về xuôi đứng từng dãy. Mùi phân ngựa tươi bốc lên hăng ngái. Bóng áo chàm, áo đen, áo trắng lướt qua. Bụi chưa bốc lên vì hơi sương còn quẩn nhưng tiếng ồn ào đã khiến ta hình dung cảnh chợ phiên thật rõ. Bà bán đậu ghé qua cửa hàng, đưa cho vợ chồng chủ quán một rổ đậu nóng hổi trước khi mang hàng ra chợ. Chúng tôi lại được ăn món đậu phụ chấm tương ngon lành, lạ miệng. Ăn xong, ông già Mộc bảo:
- Các cháu chào ông bà chủ đi. Ta qua chợ rồi về.
Chúng tôi chào vợ chồng người chủ quán. Dũng còm đứng mộtgóc nhỏ, nó nhìn chúng tôi với con mắt thèm khát buồn tủi. Ông già Mộc gọi ngườ chủ quán ra gốc cây trước cửa nói chuyện hồi lâu. Sau đó, ông chủ quay vào trao đổi vài câu với vợ, rồi ngồi xuống ghế.
- Mày ra đây cậu bảo – ông gọi Dũng còm.
- Dạ.
Thằng bé đến, đứng trước mặt ông cậu, vẻ nhẫn nại chờ đợi theo thói quen. Người chủ chỉ tôi và Loan rồi hỏi:
- Mày có muốn đi chơi với hai bạn không?
Dũng còm há miệng như muốn thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên. Nó đưa mắt hết nhìn vợ chồng người cậu lại nhìn chúng tôi, vẻ mặt băn khoăn, ngần ngại.
- Cậu hỏi thật, mày có muốn đi chơi với hai bạn một vài tháng thì tao cho đi - người đàn ông nhắc lại, giọng dịu dàng hơn.
Dũng còm như quýnh lưỡi lại. Lúc sau nó mới nói khẽ trả lời:
- Nếu cậu với mợ cho…
- Mày đi, nhà cũng bận, nhưng tao sẽ bảo con Dính sang giúp. Ở đây suốt ngày mày rầu rĩ, chúng tao cũng chẳng vui thú gì… - người mợ nói thẳng thắn một cách tàn nhẫn.
Tôi thấy Dũng còm cúi đầu, đáp lí nhí:
- Vâng ạ.
Ông chủ quán bảo:
- Vào nhà thu xếp quần áo mà đi.
Dũng còm vâng một tiếng sung sướng, chạy vào buồng, Quần áo của nó cũng chẳng nhiều nhặn gì, tất cả không đầy một túi dết. Nó đeo vào vai, chào vợ chồng ông cậu, hớn hở bước theo chúng tôi. Cái gia đình của chúng tôi từ đó gồm có bốn người.

No comments:

Post a Comment