Monday, January 4, 2016

Hành Trình Ngày Thơ Ấu (Chương 4 - 6)

Chương 4

Trưa đó mẹ tôi bảo:
- Con đi mua ít đá về pha nước chanh. Trời oi quá.
Tôi cầm chiếc ca ra phố. Thị trấn chỉ có hai nơi bán đá lẻ. Một hãng nước đá nhỏ của Pháp để lại, có cái tên rất kêu: Hoa Lư. Bây giờ, mậu dịch ăn uống tiếp quản làm kem que và bán đá lẻ. Hai là nhà cai Cân. Ông ta mua một cái máy làm kem nhỏ, xin được giấy phép chạy nước đá bán. Tuy nước đá nhà cai Cân bán thường là đá non, rất mau chảy và bán đắt gấp đôi mậu dịch nhưng gần nhà nên tôi tới đó mua. Trước sân, năm sáu người khách tới trước đang đứng chờ. Tôi vừa tới nơi thì gặp Ly trong nhà bước ra:
- Đằng ấy tới mua đá hả? Phải nửa giờ nữa mới có. Tớ vừa xem máy xong. Đằng ấy có chờ không?
Tôi nhìn ra phố: trời nắng, oi giữa hè. Giá có đi tới hãng Hoa Lư cũ thì cũng rã chân. Nghĩ vậy tôi gật đầu.
- Chờ.
Ly kéo tay tôi.
- Thế thì vào đây nghe chuyện.
Ly dắt tôi vào sân trong. NÓ chơi thân với đứa con thứ ba của cai Cân nên đi lại tự do như người nhà. Ly đưa tôi vòng ra ngách sau dưới chiếc cửa sổ, dây mảnh bát leo tựa tấm mành. Có tiếng người vọng ra. Tôi nhận được tiếng cô Lưu, mẹ Loan hạt mít.
- Để cho em nghĩ thêm đã – Cô Lưu nói.
- Lưu không tin tôi sao?… giọng cai Cân nghe ngọt ngào. - Cả tôi và Lưu không thiếu gì tiền. Chúng ta chỉ thiếu tình cảm thôi. Tôi muốn Lưu về đây vui vầy, đoàn tụ. Khi trái nắng, lúc trở trời có nhau. Lưu cứ giữ căn nhà đằng ấy, làm sao chúng ta gần gũi được?… Đành rằng chẳng xa xôi vạn dặm gì… Nhưng dẫu sao cũng là cách trở.
Cô Lưu lặng im. Hẳn là cô theo thói quen đang đưa ngón tay lên cuốn sợi tóc mai vốn đã quăn tít bên tai. Sau đó, tôi nghe cô thở dài.
- Nhưng còn con Loan… Em khó nghĩ quá.
- Chúng ta đã tính chuyện trăm năm thì phải lo hết nhẽ. Con nào cũng là con chung. Hai ta cùng gánh nặng, cùng vác đầy. Lẽ nào tôi lại cam lòng cho cháu Loan khổ? Nó khổ là Lưu khổ. Mà Lưu khổ thì tôi sung sướng nỗi gì?
Cô Lưu lại thở dài. Hai người cùng im lặng
Ly nhăn mũi, bĩu môi bảo tôi:
- Chắc lão đang thơm cô Lưu đấy.
Tôi cốc vào đầu nó:
- Im mà nghe, quỷ sứ.
Lúc đó lão cai Cân lại cất tiếng:
- Mình bán nhà xong rồi làm lễ cưới. Bảo họ đóng cọc nửa tiền. Làm giấy sang tên xong thu nốt… À à… dạo này nhà đang lên giá. Lão trung tá về hưu bên phố mới đang cay cái nhà của mình lắm, Lưu cứ mặc tôi ra tay…
Đứa con trai thứ ba của cai Cân bỗng từ trong bếp đi ra, ho nhổ khoàng khoạc. Tôi và Ly vội vàng bươn ra sân trước. Mua đá xong, tôi về nhà ngay. Không kịp ăn cơm, tôi bảo mẹ:
- Mẹ ơi, cô Lưu sắp lấy lão cai Cân đấy. Con nghe hai người bàn chuyện cưới xin và bán nhà về ở chung.
- Thế nào? Cưới? … Bán nhà cô Lưu về ở chung?
Mẹ tôi hỏi sửng sốt như nghe tin núi lửa sắp phun xuống thị trấn.
Tôi gật đầu quả quyết:
- Chính tai con nghe thấy mà.
Mẹ tôi ngồi lặng trước bàn, đăm đăm nhìn khoảng trời loá nắng. Tôi ăn cơm xong, nhọc mệt ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ trưa nặng nề đó, tôi mơ thấy Dũng còm. Không hiểu sao nó ăn mặc y hêt như con khỉ trong gánh xiếc rong ngày Tết. Đầu đội mũ cát két đen, mặc may ô đỏ viền đen, nó nhảy nhót như thằng hề trước một đám đông xin tiền. Rồi khi đám đông biến mất nó quay lại nhìn tôi buồn ủ ê:
- Bê ơi, đằng ấy có biết vì sao tớ phải lang thang như thế này không?
Tôi lắc đầu:
- Không. Không một ai biết cả.
Dũng còm trầm ngâm nói:
- Ừ, Chắc không ai biết.
Tôi bảo:
- Vậy thì đằng ấy nói đi. Vì sao?…
Dũng còm ngước nhìn tôi:
- Tớ không dám nói… Tớ không bao giờ dám nói…
Những đồng hào trong túi nó rơi xuống, lăn rổn rảng trên đường. Lăn mãi cho tới khi đám bụi mù sau chiếc xe ngựa bốc lên. Và Dũng còm biến mất…
Tôi còn ngơ ngẩn vì giấc mơ, mẹ tôi đã gọi dậy học bài. Hơn ba giờ rồi. Sau bữa cơm chiều mẹ con tôi tới nhà cô Lưu. Mẹ không nói nhưng tôi biết hẳn tin tôi vừa thông báo khiến mẹ phải suy nghĩ nhiều. Hai nhà cách nhau một phố, đi chừng mười lăm phút là tới nơi. Cô Lưu đang ngồi trong bếp rán bánh. Ánh lửa hắt lên hai gò má tròn, đỏ hây hây. Dạo này, cô béo tốt, xinh tươi hẳn ra. Cô mời mẹ tôi ngồi vào bàn, rồi nhanh nhẹn bưng lên một đĩa bánh vừa vớt:
- Chị xơi bánh nóng. Thứ có vừng lăn ngoài là bánh ngọt, nhân đậu xanh đường, dừa nạo. Thứ bánh dài không vừng là bánh mặn, nhân thịt nạc, tiêu hành…
Mẹ tôi hỏi:
- Lâu lắm có thấy cô làm bánh đâu?
Cô Lưu đáp:
- Vâng, hôm nay em nghỉ chợ, làm một ít. Vừa cho cháu ăn, vừa đem biếu…
Nói tới đó, cô cười thẹn thùng. Hai mẹ con tôi đều hiểu rằng người được biếu bánh ở đây chính là ông cai Cân, chồng sắp cưới của cô. Mẹ tôi không cười, buồn buồn nhìn xuống đất. Xưa nay mẹ tôi vốn có thiện cảm với cô. Ngoài lẽ tôi và Loan thân nhau, cô là một trong số rất ít người lao vào nghề buôn bán mà còn giữ được tính hiền hậu, thực thà. Trước đây cô làm bánh rán. Cả thị trấn mê những chiếc bánh rán giòn, bột nhuyễn mịn, thơm phức của cô làm. Bánh ngon, người bán lại tươi cười, ăn nói dễ nghe.
Chồng cô là thợ cơ khí đẹp trai, hiền như đất. Một chiều tháng bảy, chú đi ăn cỗ về, ra giếng tắm bị cảm hàn chết. Người chị chồng ở tận Lào Cai về đưa ma, chu cấp vốn rồi dắt díu em dâu đi theo. Cô Lưu thạo buôn bán, giàu có vượt lên. Một mình, vừa nuôi con ăn học đàng hoàng, vừa xây lên ngôi nhà năm gian, nền cao thước hai, tràn láng như giấy, hiên trước đổ bê tông, sân sau đủ bếp núc, buồng tắm, chuồng gà chuồng chim. Dân thị trấn nể cô. Và cô trở thành đối tượng số một cho những người đàn ông độc thân ở khắp hai khu phố cũ, mới… Vậy mà bỗng dưng cô lại gật đầu thuận lấy lão cai Cân - một người nổi tiếng tham lam, bần tiện trong thị trấn. Đầu lão dài, hói, giống như quả dưa hấu. Cặp mắt quằm quặp sau đôi kính. Đi đau, lão cũng thích bòn mót, từ cái ốc rỉ tới chiếc nắp chuông xe đạp. Xin được, nhặt được vật gì, cai Cân cũng cho vào túi áo. Lũ trẻ trong thị trấn vẫn nhìn những chiếc túi áo của lão như nhìn vào túi của lão ba bị. Ba bị chín quai, mười hai con mắt, đi bắt trẻ con…
Hẳn vì thế nên mẹ tôi mới rầu rĩ thế, mặc dù cô Lưu hơn hớn cười, đặt đĩa bánh vào tay mời mọc:
- Kìa, chị Hanh, mời chị xơi bánh kẻo nguội bây giờ…
Mẹ tôi đưa mắt nhìn tôi. Biết hiệu lệnh, tôi kéo Loan ra phố. Chắc khi chúng tôi tới đường nhựa thì cuộc chuyện trò giữa hai người bắt đầu…
Loan đoán biết được điều đó, nên im lặng đi theo tôi, không nói leo lẻo như mọi bận. Đang rảo bước, vấp phải rễ cây, tôi suýt ngã. Trong bóng tối của vòm lá, tôi chợt nhìn thấy một tấm áo hoa om dáng lưng quen thuộc.
- Chị Bội.
Chút nữa tôi kêu lên. Đúng là chị Bội thật. Chị đang đứng dưới gốc bàng đầu cúi gục. Sau chị, một người đàn ông cao lớn, tóc chải bồng. Anh ta diện quần áo trắng lốp, tựa như thỏi bột vĩ đại. Loan kéo tôi núp sau tấm bảng dán áp phích của phòng thông tin thị trấn. Hú vía, chỉ hai bước nữa là chúng tôi chạm trán họ.
- Thưa thầy, thầy về ạ…
Tiếng chị Bội run run.
Không có tiếng đáp. Rồi sau đó, người đàn ông nói:
- Hôm nay trời lắm sao quá nhỉ?
Tôi nhận ra giọng nói của ông giáo thể dục mới: thầy giáo Gia. Té ra ông thầy này đã nhanh chóng tìm được người để tán tỉnh. Chị Bội là nữ sinh lớn nhất lớp. Xinh đẹp và hiền hậu nổi tiếng khắp trường, chị khiến tất cả các chàng trai khôn lớn quay cuồng như chong chóng. Bao nhiêu thư tình của họ gửi cho chị, lũ nhóc chúng tôi đều bóc ra xem trước rồi ngặt nghẽo cười. Lần nào chị cũng đỏ mặt lên, kêu:
- Lũ quỷ con!
Sức học của chị làng nhàng. Kém nhất lại là môn thể dục. Chẳng hiểu sao chị không thể vượt qua được mức quy định thấp nhất cho các môn điền kinh. Có lẽ vì vậy mà lúc này, đứng trước ông giáo Gia, chị run rẩy như con cò gặp bão:
- Thưa thầy…
- Trai gái trong phố đi xem phim đông thật.Phim gì thế nhỉ?
- Thưa thầy phim Pha-ti-ma.
- Ờ ờ.. Pha-ti-ma. Em đã xem chưa?
- Thưa thầy, em xem từ tuần trước.
Ông Gia cười hinh hích rồi hạ giọng:
- Bội giông Pha-ti-ma lắm cơ, nhất là mái tóc dài và đôi mắt đen đẹp mê hồn…
- Thưa thầy, thầy về kẻo đường xa…
- Hơ hơ hơ… Bội đuổi tôi đấy à? Tôi về đây.
- Dạ, thầy về ạ…
Ông Gia dắt chiếc xe đạp dựa sát tường xuống đường nhựa. Lốp xe nảy tanh tách, giòn giã. Sau đó ông nhảy lên xe, hùng dũng như con gấu, chân đặt lên bàn đạp, tay tì vào ghi đông. Tôi tưởng ông ta đi. Nhưng ông ta chưa đạp đi ngay mà còn nói:
- Bội phải chịu khó tập lại mấy môn điền kinh nhé. Cả cầu thăng bằng và nhảy ngựa nữa. Điểm hai là không được lên lớp đâu
- Dạ, thưa thầy vâng ạ.
Người nữ sinh lớn tuổi đáp lí nhí. Ông giáo thể dục đi khỏi, chị vội vã bước vào nhà ngay. Tôi bảo Loan vòng vài phố rồi quay về. Câu chuyện đã xong, cô Lưu đăm chiêu nhìn những viên gạch lát dưới chân. Khi cô tư lự, những nếp nhăn hiện rõ nơi đuôi mắt. Loan hạt mít bảo rằng mẹ nó ba mươi tám tuổi rồi. Gần bốn mươi tuổi với người đàn bà goá là đáng sợ lắm – bà ngoại tôi thường nói thế…
Hai hôm sau, một buổi tối, mẹ con tôi đang thu dọn cửa nhà thì cai Cân xộc tới. Lão không chờ mời, ngồi phịch xuống ghế.
- Bác tới chơi hay có việc gì? – mẹ tôi hỏi.
- Tôi tưởng cô phải biết chứ? Cô vẫn đi dạy con nhà người ta mà – cai Cân cười khẩy đáp lại.
- Đúng đấy… - mẹ tôi thản nhiên đáp – Tôi vẫn dạy trẻ học. Nhưng nhà nước chỉ phân công tôi giáo dục trẻ em. Còn những người lớn tuổi, tôi không có trách nhiệm. Nhất là những người đã từng ăn cơm Tây, ở nhà Tây…
Cai Cân sầm mặt. Hẳn lão tức lắm. Trước ngày giải phóng, đi đâu cai Cân cũng khoe rằng lão là người của nhà nước Pháp, ăn cơm bằng cùi dìa, phóng sết, và nhảy đầm thạo hơn cả dân chính xứ Gô-loa… Chiều chiều, cơm xong, lão mặc độ lính bằng ka ki vàng rồi đi la mát. Hòa bình về, bộ đồ ka ki đó biến ngay, và thay vào đó là bộ đồ gụ với đôi dép cao su. Giờ nghe mẹ tôi nói, cai Cân im như thóc. Lão tự rót nước trà, uống xùm xụp rồi dịu giọng:
- Xưa nay, tôi vẫn trọng cô giáo là người ít tuổi nhưng biết đường ăn lẽ ở. Sao bỗng dưng cô nhảy vào chuyện của người khác làm gì? Tôi mát tính chứ kẻ khác hung đồ, cục súc thì…
- Thời này, không ai sống theo cái lối cháy nhà hàng xóm bình chân như vại - mẹ tôi cắt lời lão.
- Cô nhầm – cai Cân cười nhạt – Nhà chúng tôi có cháy đâu?
- Bác đừng nói nhiều. Tự nhìn mình, nhìn người thì sẽ thấy – mẹ tôi đáp - thấy người bên cạnh sắp nhảy vào lửa, phải có lời khuyên can. Đó là lẽ làm người.
Cai Cân cười khẩy, những chiếc răng nanh bọc vàng của lão sáng loé lên:
- Đàn bà goá cần chồng chứ không cần lời khuyên của hàng xóm, cô đừng phí công.
Nói xong, lão bỏ về.
Mẹ tôi ngao ngán thở dài. Rồi mẹ cứ ngồi lặng im trước chén nước nguội cho tới lúc tôi mắc màn đi ngủ.


Chương 5

Sang tháng tư rồi. Hàng phượng vĩ trên sân trường loé lên vài ngôi sao đỏ. Đầu tuần tôi bỗng trượt chân ngã. Trán sưng một cục to bằng quả ổi và đầu gối bị trầy rớm máu. Điều đó cũng chưa tệ hại bằng chiếc quần âu ka ki xanh mẹ tôi vừa may cho bị rách ngay trước gối. Lỗ thủng to bằng đồng xu, thịt hở ra trắng phếu. Đi tới trường ngay thì không được, mà quay về nhà thì sẽ trễ giờ. Nghĩ một lát, tôi mở cặp xé mẩu giấy nháp, lấy bút tô cho màu giấy xanh đen lại, tôi xin bà Tô béo sợi bún dán vào quần.
- Con bé kia, dạo này còn ra sông chơi không hả?
Bà bún riêu gẩy vào tay tôi mấy sợi bún, miệng quát to.
- Thưa bà, dạo này cháu không dám đi nữa ạ.
- Liệu hồn, con nam nhận xuống nước thì không ai cứu nổi đâu con ạ. Bố mày ở tít tắp mù khơi, mà mẹ mày chỉ có một mụn con gái hiếm hoi… Nghịch vừa chứ…
Bà quát oang oang rồi dứt thêm cho tôi mấy sợi bún nữa. Tôi cảm ơn bà, chạy ra một góc dán mẩu giấy vào lỗ thủng nơi đầu gối. Xong xuôi, tôi yên tâm rảo bước tới trường.
Giờ đầu là giờ hoá. Tôi đọc kỹ lý thuyết, làm bài tập trên bảng, lĩnh gọn một điểm năm của bố Thế rồi trở về chỗ. Bất đồ, mẩu giấy dán rơi xuống. Lạy trời, khi nằm trơ trên nền đá hoa, trông nó mới buồn cười làm sao. Tôi ngượng ngùng cúi lom khom che lỗ thủng nơi đầu gối. Cả lớp cười ồ lên. Bố Thế ngơ ngác nhìn lũ học sinh. Khi vỡ lẽ, bố cũng bật cười. Tiếng cười hiền lành như tiếng cười của một ông lão nông dân, vẫn đem chổi lúa hoặc rổ rá vào thị trấn bán. Hết giờ học, bố Thế gọi tôi:
- Bê!
- Dạ.
- Đi đâu thế?
- Con ra chơi ạ.
- Hừm… Ăn mặcthế mà ra sân chơi hả?... Học bao nhiêu giờ nữ công rồi mà còn lấy giấy dán vào quần rách?... Con gái đoảng. Phải phạt cho mày một trận thôi.
Bao giờ bố Thế cũng xưng bố và gọi chúng tôi bằng mày hoặc cô, cậu. Khi nào bố xưng tôi và gọi các em theo đúng phép thường là lúc đó bố đang cực kỳ giận dữ trước những khuyết điểm của lũ chúng tôi.
Thấy tôi nghếch mắt nhìn. Bố Thế vẫy tay:
- Xuống đây với bố.
Chúng tôi đi tới khu nhà tập thể của giáo viên trong trường. Bố Thế xin một mảnh vải vá bằng vải xanh, một cây kim và sợi chỉ dài. Đoạn bố dẫn tôi trở lại căn buồng nhỏ sát phòng thí nghiệm, nơi bố cùng ở với thầy Bách dạy toán.
- Đóng cửa vào, vá quần cho nghiêm chỉnh – bố nói.
- Nhưng… sắp đến giờ sinh rồi ạ… - tôi rụt rè đáp.
- Giờ nào cũng bỏ. Chép bài, tự học sau. Lớn rồi, không được phép cẩu thả trong sinh hoạt. Một lần này phải nhớ đến già nghe chưa?
Nói xong, thầy vớ hộp thuốc lào trên bàn, bỏ vào túi, đi ra. Tôi đóng chặt của, cởi quần dài, trùm chăn ngồi vá. Đó là lần đầu tiên tôi thấy bố Thế tỏ ra nghiêm khắc với mình.
Chiều hôm đó, lớp tôi cùng cả khối đào mương giúp một hợp tác xã kết nghĩa với trường. Trời oi ả khó chịu. Chừng nửa buổi, mưa ập xuống tưới xối xả lên đầu tóc, mặt mũi mọi người. Lũ con trai reo hò, nhảy cẫng lên dưới dòng nước trắng xóa. Lũ nhóc như tôi cũng vậy. Đứa nào đứa nấy thi nhau há miệng, thè lưỡi nếm nước mưa, chạy đuổi, té nước vào nhau và la hét ầm ĩ. Chỉ có các chị lớn tuổi là khổ sở. Các chị đứng túm tụm vào nhau, cố sức lấy nón che lớp áo quần lướt thướt dính chặt vào người. Chị Bội lớn nhất đám. Người chị nở nang, khỏe mạnh. Lớp áo phin ướt dính vào da khiến chị giống như một bức tranh khỏa thân thời Phục hưng mà thầy dạy vẽ cho chúng tôi xem trong giờ ngoại khóa. Chị ngượng ngùng vì đám học sinh khối trên đứng đen đặc xung quanh. Trong số đó hẳn có nhiều anh chàng đang theo đuổi, tán tỉnh chị. Lẽ thứ hai là ông giáo thể dục mới cũng ở đây. Đứng trong đám giáo viên bộ môn nhưng cặp mắt hẹp và dài của ông ta dán vào tấm thân ướt đầm của cô nữ sinh một cách miệt mài. Tụi con trai trong lớp nhận ra điều đó trước tiên. Chúng nhấp nháy nhau, thì thào:
- Kìa, xem ông Gia “tia” chị Bội… Khiếp quá, đứt mất đuôi mắt rồi.
- Tụi mày chú ý nhé… Sắp rồi, sắp rồi… Đấy, tao nói có sai đâu. Ông ấy giả vờ hỏi chuyện bố Thế nhưng mắt cứ nhìn chòng chọc vào bà Bội nhà ta…
Tôi nhìn bố Thế. Đúng là bố đang nói gì đó với ông Gia thật, nhưng quay mặt đi nơi khác. Bố già biết hết mọi chuyện… Bố già biết hết – tôi thầm nghĩ
Mưa vừa tạnh, trời lại nắng ngay. Chúng tôi lao vào xắn đất. Đang làm, Ly bỗng lảo đảo, ngã quỵ xuống. Chúng tôi xúm lại đỡ lấy nó. Tất cả đều luống cuống chưa biết xử trí ra sao thì bố Thế tới. Bố áp má vào trán Ly nghe ngóng rồi lẩm bẩm:
- Thằng bé sốt cao quá. Có lẽ nó bị ốm trước khi đi làm.
Ngước nhìn chúng tôi, bố hỏi”
- Không đứa nào biết nó ốm hay sao?
Chúng tôi nhìn nhau, đáp lí nhí:
- Thưa bố không ạ.
- Gọi ngay y tá công trường tới đây.
Bố ra lệnh. Trưởng lớp ba chân bốn cẳng chạy ngay. Nhưng y tá công trường nào thấy… Chị ta đã tót lên huyện từ lúc hai giờ. Đám người chạy về lã chã mồ hôi, lắc đầu ngao ngán. Trong lúc đó, bố Thế đã xoa dầu cao lên hai thái dương, sống mũi, cổ họng và ngực cho người bệnh. Ly nằm trên tay bố, mắt nhắm nghiền, mặt đỏ như trái cà chua chín. Bố Thế nhìn không dứt hai mí mắt tím xanh, run giật từng hồi của cậu ta. Nghe nói y tá lên huyện rồi, bố lẳn lặng xốc Ly lên lưng cõng chạy về phía đường nhựa. ruộng lổn nhổn đất, bờ cao bờ thấp mấp mô, bước chân bố Thế đôi lúc loạng choạng như muốn ngã. Dù sao bố cũng đã bước tới tuổi già.
- Bố để tụi con khiêng cho… Bố không cõng được mãi đâu…
Lũ chúng tôi lếch thếch chạy theo, nài nỉ.
- Võng đâu mà khiêng?... – bố quay lại nói – Chúng mày quay lại làm kẻo lớp vắng nhiều quá. Hai đứa đi theo bố.
Chẳng ai phân công nhưng tôi cùng lớp trưởng ra đi, còn mọi người trở lại công trường. Lớp trưởng nhiều tuổi nhất, chững chạc nhất, lo toan việc lớn. Tôi bé nhưng láu lỉnh, nhanh nhẹn, sẽ đóng vai đầu sai. Vả lại xưa nay bố Thế vẫn có ý chiều tôi hơn mọi người tí chút, nên tôi đi theo bố cũng là lẽ thường tình.
Tới đường, may sao chúng tôi gặp một chiếc com-măng-ca của bộ đội. Thấy đứa bé ốm trên lưng một người đàn ông, các anh tự động dừng xe lại, đón chúng tôi lên bệnh viện.
Ở phòng cấp cứu của viện, người ta tiêm cho Ly ba ống thuốc liền, rồi cho nó thở bằng ống cao su dẫn tới một bình kim khí sáng choang, đồ sộ. Sau đó, họ đưa nó sang buồng khác, có sáu chiếc giường sắt nhỏ sơn trắng. Ly vẫn nóng như chiếc bánh mì trong lò, mắt nhắm nghiền, những đường gân xanh phập phồng trên cổ. Bố Thế bảo chúng tôi:
- Thằng bé bị thương hàn.Trong hai đứa mày, phải có một ở lại đêm nay với nó.
Lớp trưởng đáp:
- Thưa bố, con ạ.
Nhưng sau đó anh im lặng ngay, gương mặt hiện rõ vẻ bối rối. Tôi biết nhà anh nghèo, và đêm đêm anh thường đóng gạch xỉ để lấy thêm tiền giúp mẹ. Tôi nói:
- Anh về đi, em sẽ ngủ lại đây. Qua phố, báo cho mẹ em một tiếng nhé.
Lớp trưởng không trả lời, đứng tư lự. Bố Thế gật đầu, vuốt tóc tôi:
- Con Bê giỏi lắm.
Bố móc túi, rút ra chiếc ví da to phồng những giấy tờ, vét tất cả ngăn lớn, ngăn nhỏ mới được bốn đồng:
- Chiều nay ăn bánh chưng với phở thay cơm nhé. Mai bố sẽ liệu sau…
Đưa tiền cho tôi xong, bố và lớp trưởng ra về. Tôi đứng giữa sân bệnh viện, nhìn hút theo chiếc áo xi ta bạc màu và dáng lù khù quen thuộc của người thầy cho tới khi khuất hẳn. Rồi tôi quay vào phòng, ngồi cạnh Ly. Ly ngủ. Tôi nhìn quanh phòng. Năm giường khác đều có người. Nhưng họ đều ở trạng thái hôn mê hoặc tê liệt mọi hoạt động tinh thần khiến tôi rờn rợn. Mặt người nào người nấy nhợt nhạt như nặn bằng sáp, mắt nhắm nghiền hoặc mở thao láo nhưng bất động như mắt cá chết. Tôi tưởng những ánh mắt vô hồn của họ như dính vào mặt tôi. Ánh mắt trắng đục của họ như những sợi dây vô hình trói chặt tôi vào nỗi sợ hãi. Bên ngoài căn phòng là một rặng cây tối om. Rồi xa hơn nữa là trái đồi đất đỏ. Trên trái đồi đó, những ngôi mộ nằm rải rác với những nắm chân hương và tàn tro, những chiếc bát cắm hương nghiêng ngả và những vòng hoa đen lại. Dưới chân đồicó một căn nhà nhỏ, quét vôi trắng toát. Đó là nhà xác của bệnh viện. Trong ánh chiều, tôi nhìn rõ hai người hộ lý mặc bờ lu trắng đang khiên một chiếc băng ca phủ vải đi vào. Dưới làn vải, thò ra đôi chân vàng khè…
Càng ngồi lâu, càng nhìn những cảnh vật xung quanh, nỗi sợ hãi trong tôi càng tăng lên. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Mắt tôi căng ra nhìn. Lúc nào tôi cũng chờ đợi một cái xác gầy đét trên giường bỗng vùng dậy, túm chặt lấy tôi. Giá không vì Ly đang nằm đó, không vì nghĩ tới bố Thế và lời hứa danh dự của mình, tôi đã bỏ chạy. May sao chừng hai mươi phút là cô y tá trực tới. Cô mũm mĩm, hồng hào khiến tôi cảm thấy như được sưởi lửa và nỗi sợ hãi cùng không khí lạnh lẽo trong phòng tan biến đi. Cô nhìn tôi:
- Sao cháu tái xanh đi thế, đói à?
Tôi khẽ gật đầu không nói.
Cô lại bảo:
- Cô trông cho. Đi ăn kẻo tối sập xuống bây giờ.
Tôi cám ơn cô, đi nhanh như chạy khỏi phòng. Bầu trời và không gian bên ngoài như một thế giới thần tiên sau nửa giờ ngồi trong căn phòng nồng nặc mùi thuốc sát trùng và mùi người ốm. tôi ra ngay cửa bệnh viện. Ở đây có một dãy quán cơm bình dân, phở, bún, bánh cuốn và các thứ bánh gói lá lẫn hoa quả. Cơm phở ở đây nổi tiếng bẩn và đắt. tôi ăn hai chiếc bánh chưng. Hồi đó, năm hào một chiếc bánh chưng to bằng miệng bát cơm, nhân đậu xanh thịt nạc thịt mỡ hẳn hoi. Tôi ăn hai chiếc bánh xong đã no căng bụng. Mua thêm hai chiếc kẹo bột lớn nữa mới hết đồng mốt. Còn hai đồng chín, tôi giữ lại, vào bếp ăn bệnh viện uống nước nhờ. Nghĩ tới cảnh vào lại phòng bệnh nặng tôi sởn gai ốc… Nhưng dẫu sao, cũng không thể để Ly nằm đó một mình. Tôi thu hết can đảm, không nghĩ tới những cặp mắt trắng như mắt cá chế nhìn mình nữa, bước vào. Trong phòng, cô y tá trực béo tốt, hồng hào vẫn ngồi đan. Thấy cô, tôi sung sướng hơn cả khi thấy mẹ tôi về chợ. Tôi buông màn, rúc vào nằm cạnh Ly ngủ đi lúc nào không biết.
Sớm hôm sau, người đánh thức tôi không phải là cô y tá má đỏ mà là một người đàn ông đeo kính gọng đồi mồi.
- Này, con búp bê nhà ai rơi vào phòng bệnh thế?
Ông hỏi. Bàn tay trắng nõn như tay thiếu nữ vuốt má tôi. Tôi ngồi dậy, ngơ ngác nhìn gương mặt nửa hiền, nửa nghiêm của ông.
- Cháu lạc từ tủ kính nào đến đây vậy?
Người đàn ông đeo kính trắng nhắc lại? Tôi giụi mắt cho tỉnh ngủ rồi trả lời ông rằng tôi là bạn cùng lớp với cậu bé đang nằm mê mệt trên giường. Tôi đã nhận ở đây trông cậu ta trước thầy chủ nhiệm. Vì thế tôi phải thực hiện đúng điều đó…
- Ô ô ô…
Người lạ - tôi đoán là ông bác sĩ kéo dài tiếng ô ngạc nhiên rồi vỗ vai tôi:
- Cô bé kỳ diệu… Khá lắm… Bằng tuổi cháu, giá có thuê vàng, chú cũng không dám ngủ qua đêm ở một phòng bệnh như thế này. Khá, khá thật…
Tôi nóng bừng mặt lên. Tôi không thích người ta khen ngợi tôi như thế, nhất là trước đám đông. Những người bệnh trong phòng giương mắt nhìn trừng trừng vào mặt tôi. Còn hai cô y tá đi theo ông bác sĩ thì cứ tủm tỉm cười. Tuy nhiên, vẻ mặt ông ấy thật đôn hậu nên tôi không nỡ ác cảm. Ngược lại, tôi thích đôi mắt đen long lanh của ông sau cặp kính dày, những ngón tay hồng hồng sạch sẽ, và chiếc cổ áo sơ mi kẻ ô nhô lên trên cổ áo bờ lu. Vì thế, sau khi khám bệnh và cho đơn thuốc, ông gọi tôi tới phòng ông chơi, tôi liền đi ngay.
Phòng ông ở cũng sạch sẽ như ông vây. Tường quét vôi màu cẩm thạch non, trưo những bức tranh phong cảnh và dây vạn niênthanh lá lốm đốm trắng.
- Cháu ăn kẹo nhé. Khi nào trực đêm, chú phải có hộp kẹo trên bàn… Nào, ăn đi cô bé, đừng làm khách như người lớn thế, chẳng đúng điệu tí nào đâu…
Ông bác sĩ dốc những viên kẹo đủ màu sắc lên một chiếc đĩa sứ trắng trên bàn. Kẹo thật ngon. Bên trong lớp vỏ đường, ruột kẹo trong suốt, dai và thơm như múi quất vậy. Ông bác sĩ ngồi đối diện với tôi, cũng nhón kẹo ăn ngon lành như tôi và uống nước chè từng ngụm nhỏ. Mắt ông rất sáng và tràn ngập niềm trìu mến. Chúng tôi nói chuyện thật dễ chịu. Câu chuyện đang vui, tôi chợt nhớ đến Ly và ân hận đã để nó một mình. Biết đâu, khi tôi ngồi đây nó đã chẳng tỉnh cơn mê, thức dậy. Tôi bỏ rơi viên kẹo trên tay xuống đĩa.
- Cháu về đây.
Ông bác sĩ ngước nhìn tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Cháu xin phép chú… có thể bạn cháu thức dậy rồi.
Tôi giải thích và không kịp chờ ông đáp lại, chạy luôn. Ông bác sĩ đứng dậy đi theo tôi. Tới chỗ ngoặt, tôi còn thấy bàn tay trắng nõn của ông giơ lên:
- Chào cô bé…
Tiếng ông vang tới tận cuối hành lang, ấm và êm dịu. Sau này, tôi không bao giờ còn gặp lại ông. Nhưng tôi vẫn nhớ ông với một ấn tượng hoàn hảo. Và tôi cứ tin rằng, tất cả những bác sĩ thật sự trên đời đều có gương mặt đẹp, tâm hồn dịu dàng, đôi mắt đen long lanh sau kính và hai bàn tay thiếu nữ…
Tôi vừa bước vào phòng bệnh đã thấy Ly mở mắt thao láo nhìn mình. Nó đã tỉnh. Chưa kịp hỏi han cậu bé thì một người đàn ông béo sồ sề như người đàn bà chửa, đầu hói, tóc lưa thưa bước vào. Một tay ông ta cầm cuốn vở kẻ ô, tay kia cầm bút chì gõ gõ vào tấm bảng treo đầu giường Ly nằm:
- Giường số 6, bệnh nhân mới ăn gì?
Giọng ông ta cấm cửu. Tôi và Ly nhìn nhau:
- Ăn gì?
Ông ta nhắc lại, nghe khó chịu hơn. Ly thì thầm:
- Cháu… ăn cháo ạ…
- Ăn mấy ngày?
- Dạ…
Quả tình chúng tôi cũng không hiểu phải báo ăn mấy ngày ở đây. Ông to béo nhăn mặt gõ cây bút chì cành cạch mạnh hơn nữa:
- Ăn mấy ngày thì phải báo mau để tôi ghi sổ.
Tôi đáp liều:
- Ba ngày ạ…
- Ba tám hai mươi tư. Mỗi ngày tám hào, ba ngày hai đồng tư, nộp tiền mau.
Người đàn ông vừa nói vừa hí hoáy ghi những con số vào cuốn sổ. Mặt Ly bỗng tái mét lại. Nó có đồng xu nào trong túi đâu… Tôi vội vã mở kim băng, lấy tiền giao cho người quản lý. Ông ta đút ngay vào trong may ô rồi đi ra. Lúc ấy tôi mới ngồi lo. Gia tài còn vẻn vẹn năm hào. Cả tôi và Ly đều đói. Thằng bé nhịn ăn, nhịn uống cả ngày qua, mà cháo viện thì tới mười một giờ trưa mới có. Suy đi tính lại, tôi ra cửa bệnh viện mua cho Ly một túm chuối ba hào, mua cho mình một hào sắn luộc. Còn lại một hào, tôi giao cho Ly giữ.
- Ăn chuối rồi ngủ đi nhé. Tớ ra đằng này một chốc. Muốn tè, cúi xuống lấy bô. Đừng ra gió mà ngã chết…
Ly gật đầu ngoan ngoãn.
Tôi ăn sắn xong, hăm hở lên đường. Tôi đã nghĩ được kế rồi. Bệnh viện này nằm trên ngọn đồi, xung quanh là đồng lúa. Từ đây về thị trấn mười bảy cây số, về trường mười lăm cây số, nhưng tới chùa Đông Na chỉ hơn ba cây. Chùa Đông Na là nơi chúng tôi thường rủ nhau ra chơi ngày chủ nhật. Ở đó có một khu vườn um tùm, không biết cơ man nào là ổi.Ngoài ra còn hai cây khế ngọt, hơn một chục gốc na và hai chục cây đu đủ. Bà vãi chùa ngoài bốn mươi tuổi, mặt tròn trặn, phúc hậu. Lần nào chúng tôi đến chơi, bà cũng thổi cơm cho chúng tôi ăn, hái quả chín cho chúng tôi đem về làm quà. Cơm của bà dẻo như bún, thơm phức. Chỉ ăn với tương, với dưa cũng thật là ngon. Mà miệng bà cười thì tươi ơi là tươi:
- Các cháu lên chơi vui quá. Mọi ngày quanh đi quanh lại chỉ có một mình. Ra quét sân chùa, vào nhặt hoa lan rụng, buồn như chấu cắn…
Bà nói với chúng tôi như vậy, kèm theo một lời mời: “Hai tuần nữa lại lên đây chơi với bà các cháu nhé…”
Về phần chúng tôi, mỗi lần lên chùa, chúng tôi đem theo những món quà lặt vặt: những cây nến thắp, vài bao hương sạ, một cuộn chỉ với bao kim khâu, những bộ khuy áo dài lẫn mấy chiếc cúc bấm, một lít dầu thắp đèn, một gói bánh… Bà vãi nhận những món quà đó với môt nụ cười chân thật, khiến lũ tôi vui sướng lâng lâng. Và chúng tôi ríu rít quanh vạt áo nâu của bà, gần gũi với tất cả những gì có trên trái đồi ấy: ngôi chùa nhỏ cũ kỹ, những bức tường loang lổ rêu, cái cánh cổng gỗ kêu cọt kẹt, khu vườn loang loáng ánh nắng chen bóng lá và những con chim nhảy nhót trên cành cao, thinh thoảng lại vắt đuôi ỉa toẹt xuống, nhiều khi đúng vào đầu chúng tôi…
Hăm hở lên đường, tôi vui sướng khi nghĩ tới ngôi chùa thân yêu sắp tới: “Mình sẽ ăn cơm chay với bà vãi. Rồi mình hái đem về cho Ly vài trái đu đủ chín. Nếu trong chum gạo có na rấm nữa thì tuyệt…”
Tôi đến chùa, vừa lúc trời nắng gắt.Mồ hôi thấm vào lưng áo, nhớp nháp. Hai cánh cổng chùa mở toang nhưng không thấy bóng người. Tôi vào sân, cất tiếng gọi:
- Bà ơi, bà vãi ơi…
Tiếng gọi đập vào tường, ngân nga. Không có tiếng ai trả lời, ngoài lũ chim kêu lích nhích trên cành. Tôi vào nhà, sục khắp vườn cũng chẳng thẩy bà vãi đâu. Trước cửa dãy nhà ngang, có hai nong bột phơi trắng xóa, một chum tương mới ngả đậy vải màn và một túm tỏi treo trên dây song căng sát hàng hiên. Đã hơn ba tháng chúng tôi không lên chùa, kể từ ngày xảy ra vụ mất tích Dũng còm, rồi chuyến phiêu lưu kỳ dị trên đảo Hoa Vàng mà dân thị trấn xôn xao bàn tán mãi… Tôi cất tiếng gọi thêm vài lần nữa. Sau cùng không còn hy vọng, tôi tìm hòn gạch viết lên sân chùa:
Cháu đến chơi người bà đi vắng. Cháu hái mấy quả đu đủ chín cho đứa bạn ốm. Khi nào rỗi cháu sẽ lên thăm bà.
Ký tên: Cháu Bê
Bà vãi chùa biết đọc quốc ngữ. Bà sẽ hoàn toàn yên tâm rằng không phải trẻ chăn trâu hái trộm đu đủ trong vườn chùa. Tôi ngắm nghía, chọn mấy quả đu đủ chín nhẩt rồi trèo lên hái. Đu đủ ở chùa đã già, thân nhỏ quắt nhưng cao lêu đêu. Phải bạo gan lắm mới trèo nổi. Nếu run tay,ngã xuống gạch thì ít cũng vỡ đầu hay què cẳng. Lâu không trèo, thoạt tiên cũng run. Nhưng khi đã lên đến lưng chừng, tôi vững dạ trở lại và hái được trái đu đủ tít ngọn cây một cách nhẹ nhàng. Xong xuôi, tôi thong thả tụt xuống. Chân tôi vừa chạm đất, có tiếng quát the thé bên tai:
- A, mày chết với ông…mày chết với ông…
Hai cổ tay tôi bị thít chặt trong gọng kìm. Trước mặt tôi là một ông già mắt đục ngầu, đầu cạo nhẵn, trán thấp và quai hàm bạnh ra dữ tợn. Tôi hoảng sợ lắp bắp:
- Ông ơi, cháu…
- Mày chạy đằng trời, ông bắt được quả tang nhé… Vào đây…
Không chờ tôi nói hết câu, ông ta lôi tuột tôi vào gian buồng đầu dãy nhà ngang, ẩy tôi ngã chổng kềnh rồi đóng sập cửa, cài cái then gỗ lim to tướng bên ngoài vào.
- Ông ơi cho cháu nói hết đã… Cháu quen thân với bà vãi chùa, thỉnh thoảng lại lên đây chơi hái quả. Ông không tin ra sân gạch xem sao, ông ơi…
Tôi cố gắng phân trần. Mặc, lão già đã đặt quả đu đủ sang một bên ngồi đảo bột. Tôi kêu to, thảm thiết:
- Ông ơi, hãy xem dòng chữ cháu viết trên sân… ông ơi…
Nước mắt trào ra, lăn trên mặt tôi, ấm nóng. Tôi vừa liếm những giọt nước mắt mằn mặn vừa cố sức van nài. Nhưng lão già kỳ quái vẫn bình thản ngồi đảo bột, như câm điếc. Tiếng khóc của tôi vang lên giữa các bức tường, rồi lắng dần trong không gian tĩnh mịch. Giờ này mẹ tôi đang dạy học, bố Thế chắc cũng lên lớp, và lũ bạn thân thiết ngồi trong căn phòng đầy ánh nắng nghe bài giảng… Không ai biết tôi bị cầm tù ở đây. Không ai nghe tiếng tôi khóc.
Bỗng có ai đó cào chân tôi. Tôi vùng dậy. Một con chuột to xù chạy xuôi chạy ngược bên người tôi lục lạo. Sau rốt, nó dừng lại gặm lớp da dày dưới chân gót chân tôi một cách ngon lành. Tôi tung chân đá. Con chuột bay bổng lên, kêu chít một tiếng rồi rơi bộp xuống đất, biến ngay. Tôi định thần nhìn kỹ những viên gạch nhớp nháp, mốc meo lát nhà. Khóc mệt quá, tôi đã gục xuống đó ngủ đi lúc nào không rõ. Gian buồng bốc lên mùi chua của men rượu hỏng lẫn mùi ẩm ướt của những đám rêu bám dọc chân tường. Đã từ lâu không ai ở đây. Bà vãi chùa xếp một chồng thúng mủng và đổ đống khoai sọ nơi góc nhà. Mỗi năm một lần, vào ngày lễ chính, người đi lễ từ các nơi xa tới đây thì căn phòng này mới được quét dọn, kê bục, trải chiếu cho họ nằm. Còn lại, nó chỉ là kho chứa đồ lặt vặt. Nhưng cái then gỗ lim bên ngoài thì chắc chắn tới mức không thể nào nghĩ tới chuyện vượt ngục được. Tôi ngồi khoanh tay đặt lên gối, nhìn ra ngoài. Qua ô cửa bé bằng cái tráp đựng trầu, tôi thấy một cành ổi trắng ngà đung đưa trong ánh nắng. Chiều rồi. Chắc đã hơn ba giờ. Bụng tôi đói cồn cào réo lên ùng ục. Tưởng như có bàn tay vô hình nào đó vặn thắt từng khúc ruột, khiến tôi đau quặn lên từng hồi. Nghĩ tới cái đói, lập tức cái đói như bị nhân trăm lần, hành hạ tôi thậm tệ. Mồ hôi tôi vã ra ướt lạnh sau lưng, rồi mắt tôi hoa lên như có muôn ngàn con đom đóm đang nhảy múa. Cái đầu bống nhiên như hóa đá, đè nặng trĩu lên cần cổ. Tôi trào nước mắt, bóp chặt bụng trong lúc đầu óc vẩn vơ mơ tưởng tới những bữa cơm ngon lành ở nhà… Trời ơi, sao những bữa cơm thường nhật đó lại hiện về trong trí nhớ của tôi rõ ràng đến thế? Nào cá rô nướng, dầm nước mắm tiêu, nào canh cua khoai sọ rau rút, nào thịt kho cùi dừa, nào cá quả om sốt cà chua… Lại còn đậu phụ luộc chấm mắm tôm, bánh đa vừng đường ăn lẫn chè kê, đậu đãi…
Ước gì có chiếc đũa thần của một bà tiên phúc hậu ở đây! Chỉ cần gõ nhẹ vào tường, những mòn ăn ngon lành đó sẽ hiện về… Nhưng mơ màng mãi, cũng không có bà tiênnào xuất hiện. Đói quá, rôi đành ao ước một bát bún riêu của bà Tô béo hoặc vài củ khoai luộc. Bụng tôi không réo lên ùng ục nữa mà óc ách như nước suối chảy, rồi nó sôi âm ỉ như nồi cơm sắp cạn. Và sau cùng, nó xẹp xuống một cách thảm hại, không còn dám kêu gào, đấu tranh nữa.
Trời đã tắt nắng. Lão già đi lại lọc cọc ngoài sân. Lúc sau. Mùi cơm chín thơm nức bay tới. A, ra lão thổi cơm. Mùi lúa mới làm tôi hình dung lại những bữa cơm ngon lành với bà vãi chùa. Cứ nhắm mắt cũng thấy được vị đậu dầm tương, nõn khoai xào dầu lạc. Cơn đói vừa dứt lại dấy lên cồn cào. Nhưng giờ tôi đã chịu được. Tôi lắng nghe tiếng lão già ăn cơm bên ngoài. Lão nhai thật to, chóp chép, choạp chạo như lợn tợp cám. Tôi không còn thấy sợ mà chỉ coi thường lão. Mặc dầu đang đói, nhưng giá lão có đem cơm vào, rôi cũng sẽ quay mặt đi… Tôi nghĩ đinh ninh như vậy.
Đêm hôm đó, khi ánh đèn dầu bênngoài tắt phụt và bóng tối mênh mông trùm lên trái đồi Đông Na cũng như căn phòng hôi hám giam tôi, những ý nghĩ ghê rơn chợt ập tới:
- Lão già ác độc có bộ óc ngu độn kia sẽ bỏ quên mình trong gian buồng này. Bà vãi chùa Đông Na không về đây nữa. Và mình sẽ chết một cách thảm thương…
- Điều đó có thật không?
- Có chứ… Rất nhiều khả năng là nó sẽ xảy ra…
Tôi sẽ lả dần trong căn phòng này, áo quần, thịt da đen xám lại. Từng đàn chuột to xù sẽ từ hốc tường bò lên. Thoạt đầu, chúng gặm mười ngón chân tôi. Kế đó, đến mười ngón tay. Sau cùng là bộ lòng và hai lá phổi… Vũ Thị Bê, con gái độc nhất của cô giáo Hạnh, trò yêu nhất của bố Thế, diễn viên xuất sắc trong các buổi biểu diễn văn nghệ và vận động viên số một về thể dục tự do lẫn cầu thăng bằng sẽ biến thành bộ xương trắng giống hoàn toàn bộ xương trong phòng thí nghiệm. Rồi tới kỳ nghỉ phép, bố tôi đeo ba lô bước vào nhà:
- Con Bê của bố đâu? Bố đem cho con chiếc túi thổ cẩm với cái vuốt hổ đây này… Cả mật on và đào Sa Pa nữa…
Lúc đó, mẹ tôi từ trong buồng bước ra, khóc nức nở và nói:
- Còn đâu nữa anh! Con gái mình bị chuột gặm chết rồi. Bộ xương nó treo trong phòng thí nghiệm ấy…
Nghĩ tới đó, tôi khóc òa lên. Nức nở hồi lâu, tôi ngủ thiếp đi. Tới nửa đêm, chuột bò lên găm sột soạt. Tôi quờ tay, đập lia lịa, rồi lại ngủ. Được ít phút, đám chuột già táo tợn lại kêu chít chít xông tới… Cứ thế cho đến khi trời sáng bạch. Mắt díp lại, đầu óc nặng trĩu, tôi ngồi dựa vào tường gà gật ngủ thêm. Chợt thấy tiếng then gỗ lạch cạch ở buồng bên. Rồi nghe giọng bà vãi chùa ngọt ngào vang tới:
- Mau tay lên hộ nào… Thúng đồ lễ nặng quá.
Tôi tỉnh ngủ hoàn toàn, giỏng tai lên nghe ngóng. Bà vãi chùa vui vẻ nói tiếp:
- Ông nhẹ tay cho tôi kẻo gãy hết chuối… Khiếp, đường xa ơi là xa…Ở nhà ông có nhớ cho hai con sáo ăn không đấy?
Lão già đáp lại bằng một giọng cục cằn:
- Nhớ.
Bà vãi tiếp:
- Oản lộc đây, ông ăn buổi sớm cho tốt lành. Qua đêm, vỏ hơi khô nhưng xôi còn dẻo lắm.
Sau đó, có tiếng quạt nón lạch phạch. Rồi lão già nhai oản chóp chép. Hồi lâu, lão thủng thẳng nói:
- Ở nhà, tôi bắt được một con bé ăn cắp đu đủ.
Bà vãi chùa bình thản hỏi:
- Đu đủ đã chín rộ kia à?... Trẻ chăn trâu có thèm, chia cho chúng ít lộc. Vườn tược nhà chùa mà chặt chẽ sao được.
Lão già thủng thẳng nói:
- Tôi giam vào rồi.
Bà vãi hốt hoảng:
- Ông bảo sao cơ?
Lão già nói:
- Tôi giam nó lại.
Bà vãi kêu:
- Chết thật. Có quả đu đủ, sao ông nỡ giam con người ta? Nó ở đâu rồi?
Lão già ho một tiếng:
- Đấy…
Tiếng chân bà vãi bước hối hả trên hàng hiên. Cái then gỗ kêu lách cách bên ngoài cánh cửa. Tôi rùng mình, người nóng rần rật và nước mắt tự dưng trào ra đầm đìa hai má:
- Mô phật! … - bà vãi kêu to rồi chạy vào. Cháu Bê đấy à? Khổ thân quá, ông ấy giam cháu từ bao giờ?...
Nỗi uất ức và căm giận dâng lên khiến tôi nghẹn họng. Tôi quay mặt vào tường. Bà vãi chùa quay lại mắng lão già đứng sau lưng:
- Đứa bé thế này mà ông nỡ giam vào buồng tối. Ông là người hay quỷ thế? Ông không sợ bị ném vạc dầu hay sao?
Lão già đứng thần ra.
Bà vãi chùa ôm vai tôi, khóc:
- Bà xin lỗi cháu nhé, bà xin cháu…
Vì bà khổ tâm thực sự nên tôi mủi lòng. Tôi quay ra.
- Khốn khổ cho bà, bà xin cháu…
Bà vãi nói, rút chiếc khăn nhuộm nâu trong túi lau nước mắt. Tôi nhìn bà, lòng trào lên nỗi xót xa: Vì sao một người đàn bà đôn hậu nhường này lại phải chung sống với một lão già ngu độn, độc ác nhường ấy? Ở đời thật lắm chuyện trớ trêu. Tâm hồn thơ dại của tôi xao động và sửng sốt mãi vì điều đó.
Và vãi chùa khẩn khoản, dỗ dành mãi, tôi mới ăn chút oản và chuối cho bà yên tâm. Chờ tôi ăn xong, bà xếp nào oản, nào chuối, nào oản ngọt bọc giấy kính xanh đỏ vào chiếc thúng con rồi cắp nách, đi theo tôi tới tận của bệnh viện mới quay về.
Mẹ tôi và bố Thế đón tôi ở phòng thường trực. Hai người nhớn nhác vì sự vắng mặt của tôi đêm qua. Tôi kể lại câu chuyện đáng buồn ở chùa Đông Na rồi đem oản, đem chuối vào cho Ly. Nó ăn hết ngay hai cỗ oản, mặt tươi tỉnh ra nhiều. Tôi hứa sẽ trở lại thăm nó rồi theo mẹ về thị trấn. Nhưng tôi đã không thực hiện được lời hứa với Ly vì tai ương đã bất chợt gieo xuống cuộc đời học sinh tươi sáng của tôi, giống như một cành cây gãy bỗng dưng rơi xuống đầu kẻ qua đường xấu số.



Chương 6

Ngay tối hôm tôi từ bệnh viện trở về, Loan hạt mít sang bảo:
- Mẹ tớ bằng lòng cho lão cai Cân bán nhà rồi.
Mặt nó buồn thiu. Tôi không còn cách nào khác hơn là rủ bạn đi chơi cho khuây khỏa. Chúng tôi mua hạt bí và ô mai cam thảo, vừa đi vừa ăn ô mai, cắn hạt bí, chẳng đứa nào nói một câu. Ngang nhà chị Bội, chúng tôi lại bắt gặp hai bóng người đứng nép dưới vòm lá tồi om của cây bàng.
- Thưa thầy…
- Anh đã bảo rồi… Bội cứ gọi anh là anh Gia.
- Thưa thầy, em…
- Sao em nhát thế? Con gái thời nay phải mạnh dạn lên chứ!... Ôi, mái tóc em đẹp thật. Hệt như mái tóc nàng Pha-ti-ma…
- Dạ, thưa thầy…
- Tay em cũng đẹp… nhưng sao đầu ngón trỏ lại nháp thế này?
- Em vẫn phải thêu hàng cho mẹ nên kim đâm vào tay.
- Ô, hỏng mất ngón trỏ, phí quá… Nhưng chẳng sao. Tay em điểm bốn, tóc em điểm năm, con người em năm cộng, đôi mắt em năm trừ, còn môi…
Ông bố chị Bội ló đầu ra khỏi cửa, hắt toẹt chén nước thừa chút nữa thì vào cô gái rượu. Ông Gia im bặt. Chúng tôi bấm nhau lui lại. Nhưng rủi ro thay, chính vào lúc đó, ông giáo thể dục đã nhìn thấy chúng tôi. Trong giây phút, mắt ông đờ ra vì kinh ngạc. Rồi nó tối sầm lại tức giận. Hai đưa tôi đứng sững như trời trồng, sợ thót tim. Lúc sau hoàn hồn, chúng tôi cất tiếng chào lí nhí rồi chuồn mất. Cặp mắt lươn của ông Gia chọc thẳng vào mắt chúng tôi như gầm rít: “Hai con mất dạy rình dập ta… Chúng mày sẽ biêt tay…”
Sự hăm dọa toát ra từ ánh mắt hằn học của ông ta quá rõ ràng. Từ phút đó, nỗi kinh sợ bóp chặt lồng ngực tôi, khiến mỗi hơi thở cũng mệt nhọc, khó khăn hơn trước.
Gần tới nhà, Loan run run kéo áo tôi:
- Chết rồi… Làm sao bây giờ?...
Tôi cố gắng làm bộ cứng cỏi:
- Mình có tội gì đâu mà sợ!
Loan lắc đầu:
- Chả có tội gì cũng chết. Lão ấy thù tụi mình…
- Cóc sợ! Đằng ấy im đi…
Loan không dám nói nữa. Nhưng mặt nó chảy thượt như cục bột ướt.
Đêm hôm đó, tôi mơ thấy mình bị trói chặt vào một mỏm đá dưới đáy biển. Những sợi dây thít chặt chân tay tôi đau rát. Nước xung quanh trong suốt, lạnh buốt xương. Một con cá ngão há mồm rộng ngoác lởm chởm hai hàm răng nhọn bơi lừ lừ tới trước mặt tôi. Tôi nhìn rõ cái cổ họng đen ngòm, ghê rợn như miệng hang núi của nó nằm sâu trong hai hàm răng lấp lánh. Và con vật khủng khiếp đó cứ im lặng tiến về phía tôi, mỗi lúc một gần…
Sáng hôm sau, tôi dậy muộn. Cơn mơ dữ khiến người tôi mỏi nhừ. Không kịp ăn sáng, tôi hối hả chạy tới trường cho kịp giờ học. Tiết đầu tiên đúng là giờ thể dục, môn học trước đây vài tháng là niềm vui thú, còn hôm nay là nỗi kinh hoàng.
Yến sếu ghé vào tai tôi thì thầm:
- Chuẩn bị tinh thần đi. Hôm nay mặt ông Gia hằm hằm trông kinh lắm. Lúc nãy ông hét lớp trưởng: “Kiểm tra chạy. Cự ly một trăm mét và hai trăm mét.”
Tôi lặng im. Theo đúng chương trình, hôm nay là giờ tập nhảy ngựa. Một hồi còi róng riết rít lên. Ông giáo thể dục đi tới. Chúng tôi tập hợp thành hai hàng dọc trước mặt ông ta.
- Vòng tròn khởi động.
Ông Gia ra lệnh. Bây giờ, ông không lý thuyết dài dòng như buổi đầu mà chỉ phát ra những mệnh lệnh cụt ngủn, thô bạo. Chúng tôi chạy vòng tròn dưới sự chỉ dẫn của cán sự thể dục lớp. Ông giáo chắp tay sau mông, đứng nhìn. Cặp mắt gườm gườm của ông không hứa hẹn điều gì tốt lành hết. Chị Bội cúi gằm mặt xuống. Còn Loan hạt mít tái xanh không còn hạt máu. Tôi vừa chạy vừa đếm từ một tới một trăm để tự trấn an tinh thần.
- Ra đường lớn, chuẩn bị chạy!
Ông Gia đột ngột hét to. Rồi ông quay lưng đi trước chúng tôi, vừa đi vừa rút trong túi quần chiếc đồng hồ quả quýt. Đôi vai và cặp mông đầy ú thịt của ông rung rinh.
Trên con đường cát đỏ mịn màng, đã có những vạch vôi kẻ sẵn. Cán sự thể dục xách những cặp bàn đạp ra đặt trước vạch xuất phát. Trực nhật đem quyển danh bạ lớp cho ông giáo. Và ông mở sổ ra lệnh:
- Bắt đầu.
Ngón tay to và dài của ông đặt lên cột số thứ tự:
- Vũ Thị Bê.
Theo vần chữ cái, bao giờ tôi cũng là học sinh đầu tiên được gọi tên trong các cuộc thi hoặc kiểm tra. Điều đó với tôi là việc bình thường. Nhưng lúc này, tim tôi bống đập vang dội trong lồng ngực như cái trống con. Tôi bước lên vạch vôi xuất phát, người nóng rần rật. Nguyễn Xuân Bảo, Phạm Thứ Bình, Khang Quốc Bình, Trần Thế Bính…
Ông Gia đọc tiếp. Cả năm đưa tôi giẫm chân lên bàn đạp trước cặp mắt ngơ ngác của mọi người. Trước đây không bao giờ nam nữ kiểm tra điền kinh chung. Mức quy định cho nữ sinh bao giờ cũng nhẹ hơn. Nhưng không ai dám hé răng hỏi.
- Chuẩn bị! Bắt đầu…
Ông Gia hô to. Lá cờ hiệu phất lên. Năm chúng tôi lật bật lao về phía trước.
- Sai quy cách, chạy lại
Ông giáo nói một cách lạnh lùng.
Chúng tôi quỳ gối, đặt chân lên bàn đạp, ngẩng đầu hướng về phía trước theo đúng bài giảng.
- Chạy… lại sai quy cách rồi. Lần thứ ba, làm lại đi…
Cả năm đứa thở hồng hộc quay lại vạch xuất phát lần nữa. Không ai bảo ai, chúng tôi liếc nhìn nhau kiểm tra các tư thế và động tác. Tất cả đều hoàn hảo. Ông Gia gãi ngón tay trỏ lên mặt kính đồng hồ:
- Tôi bám giây đấy. Chuẩn bị chạy… Chạy!
Lá cờ hiệu vẫy lần thứ ba. Lần này, chúng tôi cố gắng cho tới đích. Bí thư chi đoàn có đồng hồ đeo tay. Anh bấm giây và kêu to:
- Hoan hô! Tất cả vượt tiêu chuẩn một giây rưỡi… Thoát nợ rồi…
Tôi lau mồ hôi, thở hào hển. Nhưng ngay lúc đó, tiếng ông giáo thể dục vang lên ở đầu đường:
- Vũ Thị Bê, sai quy cách chạy lại.
Tôi sững người. Cả lớp ngơ ngác nhìn tôi, im phăng phắc. Người tôi nhẹ bẫng. Lúc lâu, tôi mới thốt lên được:
- Thưa thầy, em sai?
- Bàn chân sau đặt chưa đủ độ dốc bàn đạp, chạy lại.
Ông Gia đáp, lạnh tanh. Mọi người đứng xung quanh cúi mặt xuống. Rõ ràng đó là một nhận xét có tính moi móc, một lối trù lộ liễu. Tôi không còn sợ hãi nữa. Máu trào lên hai mang tai khiến mặt tôi nóng phừng phừng. Tôi cắn răng quỳ trước vạch xuất phát, cố sức thực hiện mọi động tác một cách hoàn hảo.
- Bắt đầu, chạy…
Lá cờ hiệu vẫy phía trước. Tôi lao người khỏi vạch vôi.
- Dừng lại… Tư thế chuẩn bị vẫn chưa được… Lần nữa…
Ông Gia gằn từng tiếng.
Tôi không nhìn vào bộ mặt to nung núc của ông giáo nữa. Toàn thân căng thẳng tựa sợi dây đàn. Trước mắt tôi, mọi vật như nhòa hết. Từ lá cờ hiệu đỏ, cặp mắt rưng rưng của chị Bội tới những ngấn nước mắt óng ánh trên má Loan. Tất cả trôi trong sương mù.
Hết giờ thể dục, tôi về lớp, gục xuống bàn và lên cơn sốt.
Không hiểu vì sao, bố Thế biết chuyện ngay. Bố đèo tôi về nhà:
- Chịu khó uống thuốc cho khỏi mà đi học con ạ. Sắp thi rồi.
Bố dặn tôi, vẻ buồn bã.
Tôi trùm chăn lên đầu vì bỗng dưng rét run như giữa mùa đông. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ mê mệt. Nhưng lúc đang chập chờn, tôi còn nghe rất rõ tiếng cành cạch vang xa dần. Đó là tiếng mảnh nhôm gác-đờ-bu ở xe bố Thế bị rách làm đôi, đập vào nhau. Tiếng động đó quá quen thuộc. Có lần tôi nói:
- Bố ơi, xe của bố là bà lão gãy răng.
Bố Thế cười hiền lành, đáp:
- Thì bố cũng là ông lão gãy răng chứ trẻ trung gì?
Đúng là răng của bố sứt một chiếc thật.
Tôi nghỉ mất năm hôm. Thứ ba tuần sau tôi mới đi học được. Tụi bạn reo hò mừng rỡ. Không đứa nào nhắc tới chuyện giờ kiểm tra chạy cho tôi quên đi. Nhưng lúc ra chơi, Yến sếu bỗng kéo tôi ra hành lang thì thào:
- Hôm qua, tớ thấy ông Gia đèo chị Bội lên công viên.
Tôi nhìn chị Bội. Chị hỏi han tôi với vẻ ngượng ngùng. Tôi bảo Yến:
- Im ngay, nếu lộ chuyện, đằng ấy sẽ khốn khổ như tớ thôi.
Yến sếu sợ, im tắp lự.
Ly cũng đã đi học lại. Nó đem cho tôi một gói bánh đậu Hải Dương to tướng. Dì ruột của Ly vừa ghé thăm nó chiều qua. Những ngày học nối tiếp trôi qua. Tôi mải miết chép và làm những bài tập trong các ngày nghỉ ốm nên bận rộn quên đi mọi sự. Tối thứ bảy, buổi học cuối trong tuần, chúng tôi bỗng có giờ nghỉ. Bố Thế nhận được điện từ quê báo tin mẹ ốm đã về từ trưa qua. Tụi bạn rủ nhau xuống sân đá bóng. Riêng tôi, tôi mới ốm dậy nên không tham gia. Tôi thơ thẩn trèo lên nóc bể đựng nước chơi. Tôi chưa nói với các bạn rằng trường tôi có một bể xi măng lớn. Bể đào chìm trong lòng đất, chỉ nhô phần thân trên chừng một thước tây. Thành và nắp bể rất dày, xi măng láng bóng. Mùa mưa, hai ống máng dài chạy dọc mái trường hứng nước tuôn vào bể xối xả. Khi bể cạn, chúng tôi thường thò đầu vào trong hét lên và nghe tiếng dội lại âm u ghê rợn như tiếng con quỷ ngồi trong lòng đất. Dạo ấy bể lưng lưng nước nên ông bảo vệ đóng chặt hai chiếc nắp lại. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy trên bể, ngồi truy bài hoặc chơi ô. Từ bể có con đường nhỏ dẫn tới nhà vệ sinh. Hai bên đường, vườn bạch đàn liễu tươi tốt rủ lá xuống. Khi leo lên nóc bể, tôi chợt thấy một bóng người mặc quần áo trắng đi giữa lối mòn qua vườn bạch đàn ấy. Ngay tức khắc, mặt tôi nóng bừng lên. Hình ảnh con đường kẻ vạch vôi, cặp bàn đạp bằng sắt và lá cờ hiệu phất phất hiện lên ngay trước mắt. Một ý nghĩ như tia chớp vụt qua. Rồi ý nghĩ đó xâm chiếm tôi không kịp đắn đo gì. Tôi nhìn quanh. Không một bóng người. Cả lớp dồn xuống sân bóng hết. Chỉ một mình tôi đứng trên nóc bể và nhìn thấy ông Gia vào nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh của trường gồm bốn ngăn buồng nhỏ xây gạch, nóc đổ bê tông kiên cố. Phía trước có bức tường che cao vượt đầu người lấp cả dãy cánh cửa phía trong. Các cánh cửa đều bằng gỗ lim dày, che kín từ bực thềm tới mái không hà tiện hở đầu hở đuôi như các nơi khác. Bởi thế người ngồi bên trong không thể nào nhìn thấy người đứng bên ngoài. Tôi tính toán lại lần nữa, rồi tới đống bàn ghế hỏng chờ sửa chữa của trường, chất gần bể nước dưới một mái tôn che tạm. Tôi vác chiếc ghế băng cụt chân, dày và nặng. Đi theo lối mòn giữa vườn bạch đàn, tôi đem xuống nhà vệ sinh, chống lên cánh cửa đang đóng kín mít, còn đâu kia gối lên bức tường che phía trước. Có lẽ hai người đàn ông lực lưỡng hè nhau cũng không du đổ bức tường kiên cố đó.
Tôi lên lớp lấy cặp. Tụi bạn đang xem đá bóng dưới sân gọi ơi ới:
- Bê ơi, làm gì về sớm thế? Xuống đây xem một tăng.
Tôi đáp:
- Mệt lắm. Tớ về đây… Các đằng ấy có về tới đợi.
Một vài đứa lác đác bỏ cuộc về theo tôi. Rồi cả lớp bỏ về hết. Sân trường vắng tanh.
Chiều thứ bảy là buổi chiều duy nhất trong tuần tôi được đi chơi tự do. Ăn xong, tôi chuồn sang nhà Loan ngay. Cô bạn báo tin:
- Ngày mai mẹ tớ cưới rồi.
Tôi thương Loan quá. Gọi một người tốt là bố thì không sao. Nhưng gọi cai Cân là bố thì khổ thật. Tôi bảo bạn:
- Ra đảo chơi.
Loan lặng lẽ gật đầu. Với nó, đi đâu bây giờ cũng vui hơn ngồi nhà nhìn cai Cân nhe răng vàng ra cười cợt.
Chúng tôi ra sông. Chiếc thuyền tôn của bà An Lạc đã buộc sẵn ở cây cọc. Trên thuyền vương vãi và sợi rong xanh và mấy cánh bèo dập nát. Bà đã đi lấy rau lợn rồi và chúng tôi có thể yên trí rong chơi. Loan ngồi đàng hoàng rồi, tôi thong thả đẩy thuyền ra rồi nhảy lên, chèo. Nắng chiều nhè nhẹ phủ lên dòng nước làn ánh sáng tươi tắn, lộng lẫy. Bầu trời vàng rực nhưng êm dịu vì những cơn gió đẫm nước bay từ đầm sen bát ngát bên kia sông tràn tới, mang theo mùi thơm trong suốt thanh cao. Những cây cỏ trứng ếch rập rờn bên roi cát..
- Trời đẹp quá
Tôi thốt lên kêu, lòng nhẹ lâng lâng.
Loan thở dài:
- Mình chán lắm, ngày mai phải về ở nhà cai Cân rồi.
Tôi chợt nghĩ, đúng thế thật. Ngày mai cai Cân cưới cô Lưu. Cô sẽ giao nhà cho chủ mới và theo lão về ở căn nhà có sáu buống. Hẳn mẹ con cô sẽ phải ở căn nhà ngang phía dưới mà lão vừa thuê thợ quét vôi, sửa sang lại. Mấy đứa con trai ghê gớm của lão không đời nào chịu nhường ngôi nhà trên cho người khác. Dân thị trấn đã bàn tán ba bốn tuần lễ nay. Họ chờ đợi cai Cân đối xử với mẹ con cô Lưu ra sao, một khi lão đã nắm hết vàng lẫn tiền bán nhà trong tay.
Tôi bảo:
- Buồn làm quái gì? Nếu lão giở mặt thì sang nhà tớ ở.
Chúng tôi lên đảo Hoa Vàng, kiểm tra lại kho tàng. Mọi thứ nguyên vẹn, riêng khoai nghệ lác đác nảy mầm. Sợ để lâu khoai xốp nên chúng tôi dỡ xuống thuyền đem về nhà. Trước khi chèo thuyền về, tôi rủ Loan sang nhà thằng bé chụp cá chơi nhưng cô bạn từ chối. Chúng tôi trở lại thị trấn vào lúc sao Hôm vừa mọc nơi chân trời phía tây, long lanh như hạt nước lớn. Những hàng phượng vĩ hứng ráng chiều hóa thành màu vàng rơm, trông xa như phủ lớp bụi kim nhũ. Lũ trẻ nhỏ ùa ra hè phố, chạy nhảy la hét. Và mấy ông già lững thững dạo chơi giữa bọn chúng, vẻ thung dung.
Tôi hôm đó, Loan ăn cơm với tôi rồi ngủ lại luôn.
Sáng hôm sau, chủ nhật, mẹ tôi bảo hai đứa:
- Dẫu sao hôm nay cũng là ngày vui của mẹ, cháu nên về. Còn Bê, con mang đồ mừng sang cho cô Lưu và nói rằng mẹ xin phép ở nhà vì có việc bận.
Mẹ đưa cho tôi một mảnh lụa hoa dâu trắng, gói trong giấy mỏng. Hai đứa tôi vâng lời ra đi. Tôi chẳng cần mô tả lại cái đám cưới trớ trêu đó cho các bạn phiền lòng. Đám cưới gì mà cô dâu ra phòng ngoài tiếp khách thì cười, vào trong buồng trong lại khóc nức nở như mẹ chết. Chỉ cai Cân là liên tục nhe hàm răng vàng ra cười hí hí, hơ hơ một cách khả ố, vô duyên. Khi tôi và Loan tới, cô Lưu vội vã gọi chúng tôi vào buồng. Tay cầm món quà tặng của mẹ tôi, tay ôm con gái vào lòng, cô khóc tức tưởi như đứa trẻ bị đòn oan, nước mắt rơi xuống đầu Loan lã chã. Loan cũng sụt sịt khóc theo. Và tôi, cầm lòng không nổi, khóc theo nốt. Mấy bà phù dâu vào gọi cô Lưu rối rít. Cô lau nước mắt, ra ngoài. Tôi và Loan chuồn về nhà, ăn cơm. Ngày cưới của cô đối với chúng tôi là như vậy.
Sáng hôm sau, thứ hai, tôi với Loan cắp sách tới trường. Dọc đường, tôi nhớ lại việc làm của mình ngày thứ bảy, vừa lo vừa hả hê trong dạ. Tới lớp , tôi nghe ngóng xem có ai bàn tán về việc ông Gia bị nhốt trong khu nhà vệ sinh không.
Nửa giờ sau, tin ông Gia bị nhốt trong nhà tiêu hôm thứ bảy lan khắp trường. Đám học sinh nhỏ thì thầm, mắt to mắt bé. Những anh chị khối chín, khối mười thì cười ha hả, vui vẻ đùa cợt không giấu giếm:
- Hề quá nhỉ… Thằng nhóc nào nghĩ ra cái trò ấy cũng hay. Ngồi trong nhà xí tha hồ cho thầy Gia suy tư nhé.
- Ừ, thừa thời gian nghĩ cách tán tỉnh các em nữ sinh khau kháu.
- Lớp nào lão cũng chõm một cô. Học sinh thắc mắc, bép xép là lão trù cho khốn khổ. Các cậu biết chuyện thằng Xít 9B không?
- Có nghe loáng thoáng. Cậu kể lại đầu đuôi cho rõ.
- Thằng này vốn nghịch ngợm nhưng lại rất lễ độ với các thầy cô. Tuy nhiên, lão Gia này thì chẳng đáng là thầy. Tuần trước tập nhảy ngựa, lão vờ vĩnh kiếm cớ ôm lưng con Bích. Bích mắt ngọc thạch ấy mà. Thằng Xít bưng miệng không được, cười phá lên. Lão bẽ mặt, cáu lắm. Giờ sau, lão kiếm cớ bắt thằng bé nhảy ngựa suốt nửa tiết học dưới trời nắng chang chang… Ha, ha, cái trò này chắc cậu Xít nghĩ ra để trả hận đây… Ha ha ha… Đáng lắm…
Lời bàn tán, người đi lại rộn rịp, ầm ĩ ngoài hành lang. Tôi rút lui vào lớp, ngồi xuống ghế. Yến sếu tới bên cạnh:
- Bê, mày có biết thằng Xít không?
- Biết.
- Thằng ấy trông thế mà ghê thật. Liệu cậu cả có bị đuổi học không nhỉ?
Tôi quay mặt, đáp dửng dưng:
- Biết đâu đấy…
Tuy nói vậy, đầu tôi nóng bừng lên: câu chuyện đã xoay sang hướng khác. Trước đây, tôi hồi hộp chờ phút người ta tìm được thủ phạm, và chuẩn bị tư thế giơ lưng ra chịu đòn. Giờ, bỗng nhiên một kẻ khác phải hứng chịu thay tôi. Một cậu học sinh vô tội. Nỗi lo sợ bay mất, thay vào đó là nỗi hổ thẹn và buồn bã. Tôi cảm thấy nhục nhã như mình là một tên móc túi mà đang tâm nhìn người khác bị còng tay dẫn vào trại giam. Trống trường điểm thùng thùng. Tiết học thứ năm kết thúc. Từ các lớp, học trò đổ ra ào ào. Tôi đi lẫn vào dòng người đông đúc, mặt cúi gằm, trán vã mồ hôi. Qua văn phòng, tôi liếc mắt nhìn. Ở gian chính, bốn bề mở cửa toang, một cậu học trò mặc quần xanh, áo trắng, ngồi đối diện với bà hiệu trưởng. Ở giữa là chiếc bàn có quả cầu nhựa màu xanh. Cậu học trò nói vài câu rồi đưa tay áo lau nước mắt. Mặt bà hiệu trưởng lạnh như nước đá, không hề máy động. Đôi mắt bà mở rộng sau cặp kính. Còn gương mặt cậu kia thì tái nhợt đi…
“Đó là Xít. Đó là người chịu tội một cách oan uổng thay mình…” – tôi nghĩ, cố gắng bước cho nhanh qua cửa văn phòng. Loan hạt mít lạch bạch chạy sau:
- Bê ơi, đợi tớ với! Làm gì mà đằng ấy như ma đuổi vậy?…
Tôi không trả lời, bước vùn vụt.
Chiều, cố gắng lắm tôi mới học thuộc bài. Những dòng chữ nhảy nhót lung tung, không chịu sắp thành hàng lối trong trí nhớ. Học xong, tôi lơ láo nhìn những người qua đường. Một con nhện to kềnh giăng lưới trên cửa sổ, tôi cũng không buồn đuổi. Hình ảnh cậu học trò xa lạ với gương mặt nhợt nhạt đầm nước mắt cứ hiện lên. Hẳn chiều nay cậu phải ngồi viết bản kiểm thảo. Không tham dự, không làm, không biết… nhưng chắc chắn bà hiệu trưởng buộc cậu phải nhận lỗi. Cả trường chúng tôi không ai quên được vụ kỷ luật Đào Ca năm ngoái…
Đào Ca là học sinh 8D, con một người đàn bà gầy còm, bán kim chỉ và đồ vặt ngoài chợ. Ông bố Ca làm thợ mộc, nhưng quanh năm rượu chè nên không bao giờ đưa cho vợ được một đồng nuôi con. Nhà sáu miệng ăn, ngoài giờ học Ca phải bán thêm kẹo kéo. Mặt mũi cậu ta lúc nào cũng ủ ê, cau có. Bỗng nhiên, trường bị mất năm cân đường chuẩn bị cho hội thi văn nghệ. Không hiểu người nào đó xướng lên rằng thủ phạm chỉ có Đào Ca, vì hoàn cảnh khó khăn, vì chính bản thân cậu thường phải tìm mua đường trắng ở cửa hàng về nấu kẹo. Ý kiến đó lọt vào tai bà hiệu trưởng. Bà vốn nổi tiếng về sự sắt đá. Bà tin là sự thật. Bà quyết bắt Ca phải nhận lỗi. Cậu phải viết đi viết lại một trăm hai mươi hai bản kiểm điểm, từ chỗ không biết gì đến chỗ hoàn toàn nhận tội và miêu tả cụ thể, ngày giờ, cách thức lấy trộm năm cân đường. Hơn ba tuần ngồi viết kiểm thảo, Đào Ca đờ đẫn như kẻ mắc chứng tâm thần. Sau khi nhận tội, cậu ta được hưởng kỷ luật khoan hồng của bà là cảnh cáo ghi lý lịch và lưu ban. Nhưng Đào Ca không đủ sức theo học nữa. Cậu nghỉ luôn và trở nên ngờ nghệch như mắc chứng tâm thần thật sự. Đào Ca nghỉ học được một tháng, công an tới trường báo đã phát hiện ra kẻ trộm. Đó là gã con trai lớn của ông bảo vệ trường, hai mươi tám tuổi, làm nghề đẽo đá đóng cối xay và bia mộ. Gã làm thợ thì tồi nhưng xoáy vặt thì rất giỏi. Nhờ những vụ trộm liên tục, công an mới tóm được gã một cách đột ngột, tường tận, không thể chổi cãi…
Mọi người thương xót Đào Ca . Duy chỉ có bà hiệu trưởng tỏ ra không xao động. Mặt bà lúc nào cũng uy nghiêm, lạnh lùng. Một gương mặt như chạm bằng đá rắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng những người đàn bà ham quyền lực còn khắc nghiệt hơn cả đàn ông. Tôi rờn rợn khi gặp bà. Điều đó sau này trong cuộc đời tôi thấy hoàn toàn đúng.
Trở lại sự việc của mình, nỗi day dứt giày vò tâm trí tôi. Bà hiệu trưởng nhất quyết bắt Xít nhận lỗi, dù phải viết tới năm trăm bản kiểm thảo. Trước đây bà đã chẳng bắt Đào Ca từ không đến có đó là gì?… Xít sẽ không thể nào chống đỡ. Sẽ không ai an ủi, dìu dắt được cậu trong cơn tai biến này. Sẽ không ai cứu cho cậu thoát khỏi vòng oan nghiệt..
- Mình phải làm việc ấy. Mình phải đứng lên nhận hình phạt.
Tôi tự bảo mình. Nhưng cặp mắt bà hiệu trưởng hiện lên sau lớp kính trắng, lạnh lùng và nghiệt ngã. Đừng hy vọng một sự khoan dung nào ở bà. Bà sinh ra đời là để trừng phạt và chỉ thế thôi. Những học sinh khối mười đã nhiều lần bàn tán về bà như vậy. Nhận tội, tôi sẽ bị đuổi học tức khắc. Trời ơi, con cô giáo Hạnh mà bị đuổi học sao? Mẹ tôi sẽ nói năng với bạn bè đồng nghiệp thế nào?…
Còn Xít bị đuổi học, mẹ cậu ta sẽ khó mà sống nổi. Bà ấy gầy như que củi, suốt ngày ngồi đan sau chiếc tủ kính đựng len, những sợi gân xanh nổi như cọng rau muống trên làn da trắng bệch vì thiếu máu. Bà goá chồng từ năm ba mươi lăm tuổi, ở vậy nuôi Xít và mắc bệnh đau tim đã sáu bảy năm nay. Tôi nỡ nào để một người mẹ yếu đuối như vậy đau khổ?
Nhưng Xít chỉ là một học sinh bình thường. Còn mình được cả trường biết đến tên tuổi. Nào là học sinh xuất sắc, diễn viên kịch trứ danh, vận động viên thể dục mềm dẻo số một…
Bao nhiêu vinh quang. Tất cả sẽ rơi rụng hết một khi tôi đứng trước văn phòng, nghe bà hiệu trưởng tuyên án…
Đầu óc quay cuồng, tôi mở tung cửa chạy ra hè phố.
Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nắng đã nhạt. Một đoàn xe ngựa chạy qua đường. Những chiếc chuông rung reng reng. Từng con ngựa bụi bặm, mỏi mệt lắc bờm diễu qua mắt tụi nhóc, nửa như phớt lờ, nửa như trêu chọc. Lũ trẻ reo hò, đuổi theo chúng tới tận ngã ba đường. Trên hè phố trơ lại hai đứa bé. Một thằng to béo, má đỏ, trông nhanh nhẹn. Thằng kia thấp nhỏ, yếu đuối hơn. Hai đứa bị đám trẻ lớn gạt lại nên đành đứng trông theo đoàn xe ngựa. Mặt chúng tần ngần một cách tội nghiệp, lát sau thằng bé to béo rủ bạn chơi bi. Chúng cởi hai chiếc cặp da có quai đeo, đặt vào gốc cây cơm nguội, rút phấn trong túi quần vẽ lồ rồi bắt đầu bắn bi. Lát sau, thằng lớn ăn gian, đút viên thuỷ tinh mới có múi khế xanh đỏ vàng của bạn vào túi. Rồi nó xách cặp chạy về nhà. Thằng bé bị mất oan viên bi không dám chạy theo đòi. Nó đứng lặng yên nhìn theo kẻ cướp giật kia, nước mắt ứa qua bờ mi, lăn hối hả trên gò má. Cặp mắt thằng nhỏ xanh trong, tròng đen màu nâu có những rạch sáng. Những giọt nước mắt của nó cũng trong suốt như thủy tinh. Tôi đến gần dỗ:
- Nín đi em, nín đi…
Thằng bé ngước cặp mắt trong veo nhìn tôi. Và ngay lúc đó, nỗi hổ thẹn khiến miệng tôi đắng nghẹn lại. Tôi có khác gì thằng bé lừa đảo kia. Tôi cũng gạt tội lỗi cho kẻ khác mà kiếm phần hơn cho mình. Tôi không dám hỏi thằng bé nữa, bỏ vào nhà.
Loan hạt mít cũng vừa sang:
- Đằng ấy ốm à? Sao xanh tái như tàu lá thế?
Tôi gượng gạo đáp:
- Ừ, chóng mặt…
- Thôi, đúng rồi. Đằng ấy bị cảm gió. Năm nay trời độc lắm, người già con trẻ ốm la liệt ra.
Loan bắt tôi nằm xuống giường để nó xoa dầu đánh gió. Tôi mặc cho nó làm vì chính tôi cũng thấy bải hoải như ốm thật. Vừa làm, Loan vừa nói lem lém:
- Tớ vừa gặp ông Gia xong.
- Ở đâu?
- Hiệu phở. Mặt ông ấy to ơi là to. Tớ sợ không dám mua phở phải vác bát vào chợ mua cháo lòng cho mẹ tớ.
- Sợ gì?
- Sợ chứ. Nghe Yến sếu bảo ông ấy tuyên bố trước hội đồng giáo viên là không tìm được đứa nào nhốt ông ấy vào nhà xí và đuổi học thì ông ấy sẽ nghỉ dạy.
- Nghỉ thì đã có người khác. Thiếu gì giáo viên thể dục.
- Nhưng ông ấy lại là em chồng bà hiệu trưởng. Anh rể Yến sếu làm trên Ty giáo dục nói rằng ông Gia bị kỷ luật ở trường cũ phải đổi đi Lào Cai nhưng bà Vinh xin về đây. Bà ấy mạnh cánh lắm. Hiệu trưởng nào cũng phải sợ
Tôi lặng im. Dẫu sao, tôi cũng đã quyết định rồi. Và dù tai ương có khủng khiếp đến đâu tôi cũng không thay đổi ý nghĩ.
Sớm hôm sau, tôi tới trường. Bố Thế ở dưới quê vừa lên. Bố đem cho chúng tôi một gói quýt và khoai lang luộc. Cả lớp xúm xít vây quanh:
- Bố ơi, bà khoẻ chưa hả bố?
- Khoẻ rồi. Tưởng cụ chết. Nhờ châm cứu với mấy chén thuốc bắc, cụ lại hồi.
- Cô con khoẻ không ạ?
- Cây táo vườn sau còn quả không bố?
- Luống khoai dong riềng dỡ hết chưa mà bố không đem lên đây luộc?…
Bố Thế tươi cười trả lời lần lượt những câu hỏi. Rồi bố ngạc nhiên nhìn tôi:
- Con Bê làm sao thế? Mọi ngày mồm mép như tép nhảy cơ mà?
Loan nhanh nhẹn đáp:
- Thưa bố, Bê ốm từ chiều qua.
Bố Thế đặt bàn tay thô nháp lên trán tôi:
- Ô, trán hơi nóng mất rồi. Mày đã uống thuốc gì chưa?
Bố nhìn vào mắt tôi, hỏi. Bao giờ bố cũng chỉ có môt kiểu nhìn như vậy: trung thực và tin cậy.
Tôi nghĩ bụng: Với một con người như bố, chỉ có quỷ sứ mới có thể dối trá được. Cảm giác kinh hãi thoáng lướt qua như cơn gió lạnh khiến tôi bất giác rùng mình. Rồi tôi thu hết can đảm ngẩng lên nhìn vào mắt bố và nói:
- Bố đi về phòng đi… Con có chuyện này…
Có lẽ thầy chủ nhiệm của tôi cũng đoán được đôi phần điều hệ trọng sau câu nói của tôi. Bố Thế không cười nữa, dắt tay tôi đi dọc hành lang trở về phòng. Đám bạn trong lớp ngơ ngác nhìn theo.
Khi bố Thế vừa mở cánh cửa, dẫn tôi tới ghế ngồi thì tôi bỗng bật lên khóc. Những cơn nấc dữ dội như những làn sóng bị dồn nén từ lâu trong mạch nước theo nhau trào ra, ào ạt xối xả khiến tôi mụ mẫm cả người. Tôi khóc như đứa trẻ con bị đòn oan, ngây ngất không chú ý tới mọi vật xung quanh mình. Cổ họng khản đặc. Mắt sưng húp lên. Hai ống tay áo và khoảnh bàn tay tôi tì lên ướt đầm đìa. Chưa bao giờ tôi khóc như hôm ấy. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường bố Thế, chiếc chăn hoa mỏng đắp tới tận cằm. Giường bên kia, thầy Bách ngáy khò khò. Bố Thế ngồi chấm bài ở bàn. Góc bàn, một chiếc lồng bàn nhỏ đậy phần cơm. Thấy tôi ngồi dậy, bố quay lại bảo:
- Dậy xúc miệng rồi ăn cơm kẻo đói lả bây giờ.
Tôi trả lởi:
- Thưa bố vâng.
Nhưng tôi hoàn toàn không thấy đói. Giờ này, chắc mẹ tôi đã đi dạy học rồi. Hôm nào tôi về muộn, mẹ cũng để phần cơm tôi như thế này.
Bố Thế pha một cốc nước chè nóng với đường cho tôi uống rồi gạt chồng bài kiểm tra sang bên, ngồi đối diện với tôi.
- Lúc ngủ, mày nói mê loạn xạ… Bố phải dấp khăn ướt trùm lên trán mới thôi. Nào, sự việc ra sao, kể cho bố biết.
Tôi bắt đầu kể hết mọi chuyện: Từ chuyện tôi và Loan thấy ông Gia tán tỉnh chị Bội tới giờ kiểm tra chạy tôi bị trù. Cuối cùng là sự việc sáng thứ bảy tuần trước, khi lòng căm tức đã xui khiến tôi có hành động dại dột.
Tôi kể xong, bố đứng dậy.
- Giờ bố con ta xuống văn phòng minh oan cho cậu Xít. Rồi mọi chuyện sẽ tính sau.
Chúng tôi xuống văn phòng. Quả nhiên, Xít đang ngồi ảo não trước tờ giấy trắng. Trông cậu ta thiểu não. Đường gân xanh nổi phập phồng bên thái dương. Sau tấm bàn, bà hiệu trưởng đang ghi chép gì đó lên cuốn sổ tay bọc da lớn bằng cuốn sách vỡ lòng. Không khí lặng lẽ đến mức nghe rõ tiếng mọt đục kèo trong chân bàn. Hai thầy trò bước vào. Bà hiệu trưởng không ngẩng lên, cất tiếng hỏi:
- Có việc gì thế anh?
- Tôi muốn nói với chị chút việc riêng.
Bà hiệu trưởng ngước mắt nhìn. Đôi mắt lạnh và sắc của bà khiến tôi run rẩy. Bố Thế biết tôi sợ, quay lại nói:
- Con ra ngoài sân chơi. Lát nữa bố gọi.
Tôi chào bà hiệu trưởng, chạy ra ngoài. Chừng năm phút sau, Xít ra theo. Cậu ta rón rén lại gần gốc cây phượng, nơi tôi đang ngồi:
- Này, bạn đã nhốt lão Gia đấy à?
Cậu ta cất tiếng hỏi, vừa rụt rè vừa hồ nghi.
Tôi gật đầu, không đáp.
Xít đi vòng quanh, vẫn bằng dáng điệu rón rén e sợ, rồi sau khi thở một hơi dài, quả quyết, cậu ta gọi tôi:
- Bạn này.
Tôi ngước mắt lên:
- Gì cơ?
Xít rón rén ngồi xuống cạnh tôi:
- Bạn là con gái mà ghê thật đấy. Bạn không sợ bà Vinh đuổi học hay sao?
- Có sợ.
- Thế sao bạn lại dám nhận tội?
- Tôi không nhận thì anh bị đuổi học thay tôi. Mà anh bị đuổi học, mẹ anh sẽ buồn phiền mà chết.
Xít im bặt. Rồi lát sau, cậu ta khe khẽ nói:
- Cám ơn bạn nhé.
Tôi đáp:
- Chẳng cần đâu.
Cậu trai tần ngần:
- Có cách nào thoát được không nhỉ?
Tôi lắc đầu:
- Chẳng cần. Tôi làm, tôi chịu.
Xít cau mày:
- Bạn biết tính bà hiệu trưởng chứ? Mà lão Gia lại là em ruột của chồng bà ta.
Tôi gật đầu:
- Biết rồi.
Xít hạ giọng thì thầm:
- Bạn có biết từ hôm qua tới giờ bà Vinh tra khảo tôi những gì không? Cứ thế này kéo dài một tuần chắc tôi ốm chết…
Tôi nói:
- Tôi thì chẳng sợ tra khảo. Tôi nhận rồi mà.
Xít ái ngại nhìn tôi, thở dài sườn sượt:
- Thế cũng chẳng sung sướng gì hơn. Bạn sẽ bị buộc thôi học ngay trong vòng một tuần.
- Đành vậy thôi.
Tôi đáp và quay đi. Tôi không muốn Xít nhìn thấy cặp mắt sưng mọng của mình. Chưa bao giờ tôi khóc trước mặt bạn trai. Xít cũng đoán được ý tôi. Cậu ta băn khoăn đi đi lại lại một hồi rồi chụp mũ lên đầu, chào tôi ra về.
Nửa giờ sau, bố Thế gọi tôi:
- Con hãy nói cho cô Vinh nghe mọi chuyện.
Bố ngồi bên tôi. Tay bố nắm cánh tay tôi khiến tôi vững dạ. Tôi đủ minh mẫn để thuật lại đầy đủ những sự viêc dẫn tói hành động cuối cùng của mình. Bà hiệu trưởng vừa nghe vừa gõ nhịp chiếc bút lên bàn. Tôi nói xong, bà hất bàn tay lên:
- Cho cô ra ngoài.
Tôi đi ra. Bố Thế còn ngồi lại nói chuyện với bà cho tới khi trời tối. Sương buông xuống, phủ trên đồi bạch đàn. Cánh đống xung quanh mờ mờ như bị xông khói. Bố Thế lấy xe đạp đưa tôi về nhà. Bố dặn tôi đừng nói cho mẹ tôi biết chuyện.
Tôi hôm đó, ngồi trước ánh đèn, tôi bỗng thấy chua xót tràn ngập tâm hồn. Tôi là một học sinh gương mẫu, tôi muốn mãi mãi là trò giỏi, là vận động viên xuất sắc, là diễn viên không chuyên nghiệp nổi danh của tỉnh, tên tôi mãi mãi ghi trên tấm bảng danh dự của trường… Lạy trời, ông giáo thể dục này từ đâu tới phá vỡ cuộc sống tươi sáng ngọt ngào của tôi? Vì sao cuộc đời lại có những con người khả ố thế và vì sao lòng căm tức lại xui khiến tôi có những hành động liều lĩnh như vậy?… Không một nàng tiên nào giáng thế để trả lời những câu hỏi cho tôi.

No comments:

Post a Comment