Monday, January 4, 2016

Hành Trình Ngày Thơ Ấu (Chương 7 - 9)

Chương 7

Trong bản kiểm điểm, tôi giải thích hành động của mình có hai duyên cớ: Thứ nhất, đáp lại sự hành hạ tàn nhẫn của ông giáo. Thứ hai, phản đối thái độ bất chính của ông ta với nữ sinh. Bà hiệu trưởng đọc xong nhưng chưa trả lời. Bà cần nghiên cứu, xác minh. Và trong thời gian chờ đợi ấy, bà buộc tôi nghỉ học. Bố Thế và thầy Bách đấu tranh rất kiên quyết và nhẫn nại nhưng không thể lay chuyển quyết định của bà. Bà muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bà là hiệu trưởng và quyền quyết định tối cao của bà là một thứ tài sản bất khả xâm phạm. Những ngày bị buộc nghỉ học, tôi gầy tọp đi. Bạn hãy tưởng tượng một ngày nào đó, người ta nói với bạn rằng: Mày sẽ được cho ăn, cho uống, nhưng bị nhốt vào chuồng sống chung với lũ bò và sống như thế cho tới mãn kiếp… Tôi cảm thấy mình bị hành tội đúng như vậy trong những ngày chờ phán xử.
Mẹ tôi không dung tha cho bất cứ hành động hoặc lời lẽ nào của tôi. Mẹ tôi chỉ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất:
- Bất luận lý do gì, thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò. Trò dám chống lại thầy là tội không dung thứ.
Hoặc là mẹ tôi cố tình không hiểu. Hoặc là mẹ không bao giờ hiểu rằng đôi khi số phận áp đặt cho ta một ông giáo không đủ tư cách làm thầy, thậm chí không đủ tư cách làm một người đứng đắn và lương thiện. Vì thế mọi lỗi lầm mẹ trút cả lên đầu tôi:
- Con là đứa phá hoại luân lý gia đình. Bốn đời nhà ta làm nghề dạy học mà chưa gặp đứa học trò bất trị nào như con. Con phải hiểu rằng người học trò ngoan chỉ có mỗi nhiệm vụ: lắng nghe và học hỏi thầy…
Tôi buồn rũ, chỉ ngồi im. Nhưng có lúc nổi khùng, tôi vặn lại mẹ:
- Nếu con là con trai mà thực hiện đúng lời mẹ dạy, thì con đã theo ông Gia đuổi theo các cô gái tán tỉnh suốt ngày… Liệu mẹ có chịu không?
Lúc đó, mẹ lại quát to:
- Con nhà mấy dạy, không được cãi lý với mẹ.
Tôi nói:
- Nhưng thưa mẹ, mẹ vừa bảo con phải học hỏi người thầy. Vậy con đã nghe thấy thầy Gia nói với chị Bội rằng…
Tôi nhắc lại nguyên văn những câu tán tỉnh ba xu của ông giáo thể dục. Mẹ tôi bí thế, lại đùng đùng quát lên:
- Giỏi thật, cho chúng mày tiền đi ăn kem, lại đứng nghe những chuyện nhảm nhí. Ngữ này không đánh cho no đòn thì cũng đến nước hư hỏng thôi. Bê, nằm xuống đây!…
Mẹ tôi quất roi mây lên mông tôi, vừa thở hổn hển. Thoạt đầu, tôi còn khóc vì đau đớn. Sau, tôi không khóc nữa. Tôi cảm thấy mình trở nên lỳ lợm. Tôi nằm im đếm những roi đòn rơi xuống và thầm nói:
- Lão Gia ác độc, cầu cho lão chết đi, cầu cho lão chết…
Tôi không giận mẹ, mặc dầu mẹ đánh tôi quá nhiều và thật vô lý. Đánh xong, mẹ ném roi, ngồi ôm mặt khóc. Dường như mỗi roi đòn mẹ quât lên mông tôi thì một ngọn roi vô hình nào đó cũng quất xuống trái tim mẹ và khiến mặt mẹ co dúm lại vì đau khổ. Đêm tới, khi thấy tôi ngủ say, mẹ rón rén tụt quần tôi ra, xoa dầu lên những lằn roi bỏng rát. Tôi thức giấc,nằm thật yên, nhưng nước mắt rơi ướt đầm gối vì thương mẹ và thương cả thân mình.
Giấc ngủ kéo dài mười hai giờ liền. Mãi gần trưa hôm sau, tôi mới tỉnh. Lúc ấy khoảng mười giờ rưỡi. Mẹ tôi đi đâu đó, khoá cửa ngoài. Nắng lọt qua cửa sổ kẻ lên mặt chiếu. Vệt nắng khiến tôi nhìn ra những đồ đạc quen thuọc hàng ngày: bàn ghế, tủ treo quần áo, tủ chè gương mặt đã ố, con búp bê ngồi trên xích đông, cái đầu sư tử treo trên tường mua ngày Tết Trung Thu năm tôi lên bảy… Tất cả đều xám xịt và buồn tẻ.
Căn phòng tối lờ mờ như nhà tù. Còn tôi, tôi là một tù nhân. Đúng tôi là một tù nhân. Nhưng không phải tù hình sự - đám lưu manh chuyên móc túi, cướp giật, lừa đảo… Tôi là tù chính trị. Nếu sinh vào thời cách mạng, rất có thể tôi sẽ trở thành Tô Hiệu, Lý Tự Trọng… Các chiến sĩ cách mạng đã chẳng chống lại lũ thực dân áp bức dân lành đó sao? Còn tôi, tôi không thể chống thực dân Pháp vì chúng đã cút về nước và cách mạng đã thành công rồi.Nhưng tôi chống lại ông Gia là kẻ độc ác, hành hạ trẻ nhỏ, cưỡng bức phụ nữ… Ít ra, việc làm của tôi cũng khiến lão phải e dè hơn trước. Và sự hả hê không che giấu của học sinh trong trường đã chẳng nói lên điều đó sao?… Nếu tôi biết căm ghét và phản kháng cái xấu, tôi có thể trở thành người chiến sĩ khi nước nhà gặp cơn nguy biến… Tôi tự an ủi và không buồn chán nữa. Tôi vừa định ngồi lên thì có tiếng khoá lách cách. Mẹ về. Nhớ lại những đòn roi tối qua, tôi lại nằm xuống giường. Mẹ toi cất túi xong, vội vã tới hỏi:
- Bê đã dậy chưa con?
Tôi im lặng.
- Bê đã tỉnh chưa con?
Mẹ tôi hỏi lần thứ hai, hốt hoảng hơn. Tôi không trả lời.
- Trời ơi, con bé ốm mất rồi! … - mẹ kêu lên, ôm chặt lưng tôi - khổ thân con bé, trời ơi!
Tôi co cứng người lại để mẹ không thể xoay mặt tôi ra ngoài. Giờ đây, những giọt nước mắt nóng hổi đang theo nhau lăn xuống gối.
“Không được khóc, chẳng chiến sĩ nào khóc trong nhà tù cả… Mày phải nín ngay đi…” – tôi thầm giận dữ mắng mỏ mình.
Mẹ tôi vẫn ôm tôi, vừa lay vừa nói:
- Con ơi, xôi cô Vân Anh cho kia kìa, cả cháo sườn mẹ mới mua ở nhà bà Soi về còn nóng hổi… Con ăn một tý kẻo ốm bây giờ, con ơi…
Tôi nghĩ: “Ăn bây giờ là hèn. Ăn bây giờ là chấp thuận ý kiến của mẹ. Mẹ buộc mình phải kính trọng lão Gia và hoàn toàn nhận lỗi…”
Mặc cho mẹ nài nỉ, tôi vẫn nằm im, quay mặt vào tường. Rồi một ý nghĩ như cơn gió lướt tới: Tôi tuyệt thực. Đúng rồi… ngày xưa, các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã chẳng nằm nghiêng, không cử động, không ăn uống mười lăm ngày liền và đã anh dũng chết đó sao?… Các nhà hoạt động chính trị đã chẳng tuyệt thực hàng tuần trong nhà tù Sơn La cho tới khi thực dân Pháp phải thực hiện yêu sách đó sao?… Tại sao mình lại không học tập được những con người dũng cảm đó?… Ý nghĩ đó khiến tôi như lớn hẳn lên, vững chãi và đầy uy lực của một người chiến thắng. Tôi quay mặt lại, mở mắt nhìn mẹ và nói dõng dạc:
- Mẹ không thể nào mua chuộc được con. Con tuyệt thực.
- Cái gì? - mẹ tôi trợn tròn hai mắt, dường như không tin ở tai mình nữa – Con nói gì?
Tôi dằn từng tiếng:
- Con nói rằng con tuyệt thực. Tuyệt thực để bảo vệ chân lý.
Mẹ tôi đứng dậy, ngơ ngác nhìn tôi như nhìn người từ âm phủ chui lên. Biết mẹ chưa hiểu, tôi nói tiếp:
- Từ nay con sẽ nằm nghiêng, không ăn uống, không cử động cho tới khi áo quần thối rữa. Con sẽ chết, giống như cácchiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa trong khám Chí Hoà ngày trước. Mẹ tôi lặng đi vài giây. Rồi sau khi hiểu ra mọi chuyện, mẹ bật khóc:
- Hu hu hu… Trời đất ơi… Khổ thân tôi… Tôi cũng chết đi cho rồi…
Mẹ khóc như đứa trẻ bị đòn, yếu đuối và thơ ngây. Tôi mủi lòng, định dỗ dành mẹ. Nhưng lúc đó tôi đã nằm nghiêng quay mặt vào tường như đã dự định nên tôi không thể quay ra.
“Phải cứng rắn, phải đấu tranh cho chân lý…” – Tôi tự hạ lện cho mình. Và cứ thế, tôi nằm yên lặng. Mẹ tôi hết khóc lóc dỗ dành lại nhờ Loan hạt mít, Yến sếu tới khuyên can tôi. Tôi đã chiến thắng được những phút yếu lòng. Tôi đã chiến thắng được mùi thơm của cháo sườn, cháo gà hạt tiêu, phở bò, xôi nén với chả…
Khoảng năm giờ chiều, vì mệt, tôi nằm thiu thiu ngủ. Chợt nghe tiếng đập cành cạch của tấm nhôm rách bên ngoài. Bố Thế đã dắt con ngựa già lọc cọc tới – tôi nghĩ bụng. Đúng như vậy, chưa đầy một phút sau đã có tiếng gọi:
- Cô Hạnh có nhà không?
Mẹ tôi dưới bếp cuống quýt chạy lên. Thấy bố Thế, mẹ tức tưởi khóc:
- Em mong anh suốt từ trưa. Cả ngày nay, nó chẳng chịu ăn uống gì. Nó bảo em là nó sẽ tuyệt thực để đấu tranh cho chân lý. Nó kiên quyết nằm úp mặt vào tường đến khi nào thối hết da thịt, chết như những chiến sĩ Nam Kỳ trong khám Chí Hoà. Mấy chị hàng xóm khuyên em nên mời sư sãi trên chùa về nhà cúng giải ma… Mà em thì sợ rằng…
Bố Thế ngắt lời:
- Cô cứ bình tĩnh. Đừng có cuống lên như thế…
Nghe tiếng động, tôi biết rằng bố đã bỏ cái xắc da to tướng xuống và kéo ghế ngồi. Mẹ tôi hấp tấp đi lại, chừng như để kiếm trà pha nước.
- Mời anh xơi nước. Trà ướp sen cô Vân Anh mới cho em.
Bố Thế uống trà, khà một tiếng theo thói quen của bố mà chúng tôi biết từ lâu. Rồi bố ề à cất tiếng:
- Cô ăn cơm chưa? Chạy ra phố mua cho tôi mấy chiếc bánh ngọt. Mặc tôi ở đây với con Bê.
- Vâng, em đi ngay bây giờ.
Mẹ tôi hối hả đi ngay tức khắc, tiếng xe đạp tanh tách xa dần. Tôi hé mắt nhìn, thấy đôi vai to ngang của bố Thế in lên bóng tường. Chao ôi, mới nghỉ học mấy ngày mà tôi nhớ bố quá thể. Nỗi nhớ người thầy thân thiết hoà trong nỗi nhớ lớp, nhớ trường. Bởi thế khi thầy vừa cất tiếng gọi: “Bê, dậy bố bảo…” tôi liền nhổm ngay dậy và oà khóc.
Thầy ôm tôi vào lòng và rút chiếc khăn tay sặc mùi thuốc lào lau nước mắt cho tôi:
- Sao mày không chịu ăn uống gì hả con?… Đúng là đồ ngốc.
Tôi nức lên to hơn, không nói được lời nào.
Bố Thế hỏi:
- Bố nghe con Loan nói mày nhất quyết tuyệt thực phải không?
Nói rồi bố cười hì hì, đúng như tiếng cười của một ông già hiền lành.
- Ngốc lắm – bàn tay ấm và nham nháp của bố xoa lên tóc tôi – ngày xưa bố cũng đã tuyệt thực khi ở trong nhà tù của kẻ địch chứ không ai tuyệt thực trong ngôi nhà êm ấm của mình. Mày có hiểu tuyệt thực là gì không? … Một biện pháp đấu tranh chống kẻ địch. Vậy mà con lại đem biện pháp đó áp dụng với người thương yêu mình nhất trên đời. Như vậy có đúng là điên không?…
Tôi vẫn úp mặt vào lòng bố Thế và không nhìn rõ bố đang cười. Nhưng tôi hình dung được trước mắt những chiếc răng thưa đều và ám đen khói thuốc của bố. Tôi cố cãi một câu chiếu lệ:
- Nhưng tại sao mẹ con cứ bắt con phải con phải kính trọng, học tập ông Gia.
- Phải kính trọng, học tập các thầy các cô giáo nói chung - bố Thế ngắt lời tôi – vì các thầy các cô là người dạy dỗ, truyền đạt cho mình những kiến thức về cuộc sống. Không có kiến thức, sao con người tốt đẹp và trưởng thành lên được?… Nhưng trong số những cá nhân lãnh trách nhiệm làm thầy, làm cô… cũng có người không đoan chính. Bố biết vậy… Nhà trường, các thầy cô có trách nhiệm giúp đỡ những giáo viên có khuyết điểm. Còn học sinh không được làm điều gì xúc phạm đến thầy cô giáo.
Tôi ngẩng lên, nhìn thầy. Ánh mắt hiền hậu của thầy lộ rõ vẻ buồn bực.
- Bố biết, tay Gia này…
Tôi ôm chặt bố Thế thân yêu của mình. Phải, bố đã hiểu tất cả, bố đã công bằng. Tôi chỉ chờ vào điều ấy thôi…
Bố vuốt tóc tôi, xoa vầng trán tôi và nói tiếp:
- Con xử sự với ông Gia như vậy là con có lỗi. Đáng lẽ con phải cho bố biết mọi sự. Con phải kiên nhẫn chờ bố ở dưới quê lên.
Bố nhìn tôi thở dài, mắt bố rất buồn. Tôi cũng rưng rưng trong dạ. Biết vậy, bố khẽ nói:
- Thôi, dẫu sao thì mọi chuyện cũng qua rồi. Giờ phải ăn đi chút gì đã. Mới bằng con ếch đã tưởng đấu được với bò. May mà không ốm nặng.
Đúng lúc ấy, mẹ tôi hớn hở dắt xe vào, đặt gói bánh ngọt lên bàn. :
- Anh xơi bánh với nước chè. Bánh mới còn mềm lắm.
Bố Thế đeo chiếc xắc da to tướng lên vai:
- Thôi để bữa khác. Giờ thầy trò tôi ra phố đã.
Rồi bố đèo tôi đi ăn phở. Ăn xong, thầy trò tới hàng nước uống chè tươi nóng với kẹo bột, chè lam. Bố nói toàn chuyện vui cho tới khi đưa tôi về nhà, bố mới dặn:
- Chiều mai cô Vinh gặp đấy.
Rồi bố về trường. Còn tôi nằm nghĩ tới buổi chiều mai. Đó là thời khắc quyết định số phận mỏng manh của tôi.
Vào buổi chiều ghê sợ đó, nắng gay gắt như thể giữa tháng sáu ta. Chiếc đồng hồ quả lắc cổ lỗ trong văn phòng kêu tích tắc, tích tắc một cách nặng nhọc và cáu kỉnh. Cái quả lắc hoen rỉ đung đưa đều đặn trước mắt tôi. Tôi giương mắt nhìn nó trong khi chờ đợi bà hiệu trưởng phán xét. Bố Thế ngồi bên tôi, vẻ trầm tĩnh nhưng buồn. Dường như bố đã thấy trước một kết thúc không mấy tốt đẹp đang chờ đợi tôi. Tôi cảm thấy điều đó và thêm lo lại. Tim nhảy trong lồng ngực như một con chim bị trói. Tôi phải bấu chặt mép bàn để giữ bình tĩnh. Bà hiệu trưởng ngồi im lặng lật từng tờ giấy trong tập hồ sơ dày cộm. Hồi lâu, bà rút ra bản kiểm thảo của tôi, nói:
- Đọc lại đi
Giọng bà lạnh lẽo khiến tôi tái tê cả người. Bố Thế ngồi im như tượng, nhìn qua ô cửa về phía cánh đồng xa tít tắp. Hình như bố đang nghĩ tới điều gì đó không liên quan gì tới bà hiệu trưởng, bản kiểm điểm và bầu không khí nghiêm trọng trong căn phòng này. Tôi chợt thấy bơ vơ như đứa trẻ bị lạc trong bãi tha ma đêm, hoảng hốt, run rẩy. Trước mặt tôi, những dòng chữ xanh đậm trên bản kiểm điểm nhảy nhót, chập chờn. Một giọt mực rơi giống hệt con nhặng đậu lên trang giấy. Ngay chữ ký dưới cùng cũng xa lạ như thể chữ ai đó, chứ không phải chữ ký của mình…
- Đọc kỹ chưa?
Bà hiệu trưởng cất tiếng hỏi đột ngột khiến tôi giật nẩy người. Ngón tay trỏ của bà đưa lên, ấn vào sống chiếc kính cận đang tụt xuống chóp mũi. Rồi bà nhìn xoáy vào mặt tôi. Mắt bà trơ trơ như hai hạt nhãn nước, không giận giữ, không xót thương, không căm ghét. Cả đến sự giễu cợt cũng không. Trước cặp mắt vô tri của bà, tôi thấy mình bị tan vụn ra như cục bột ngâm nước. Chưa bao giờ tôi bắt gặp một ánh mắt nhọn như kim, tàn nhẫn một cách bình thản và ngọt ngào như thế.
- Em nhớ rõ những gì đã viết chứ? – bà hỏi từ tốn.
- Thưa cô, vâng. – Tôi trả lời.
Bà hiệu trưởng hơi nhếch mép, môi trên đụng đậy. Hình như bà mỉm cười thì phải. Rồi gõ ngón tay xuống bàn, bà dõng dạc goi:
- Nguyễn Ngọc Bội, vào đây.
Cánh cửa sau lưng bà mở ra lẹ làng, không tiếng động như được làm phép. Một bàn tay trắng nõn vịn vào khuôn cửa. Rồi sau đó, một thiếu nữ bước ra:
- Thưa cô, em đây ạ.
Chị Bội trả lời. Đúng là chị Bội. Nhưng mặt chị trắng phếch, nhợt nhạt và đôi mắt đen sập xuống, như bị cắm vào từng bước đi ngắn, e dè như bước đi của ông già mù hát xẩm.
- Mời em ngồi… - bà hiệu trưởng kéo ghế - Hôm nay, nhà trường mời em tới để xác minh một sự việc. Trước tiên, tôi yêu cầu em phải nói thật, hoàn toàn sự thật – Bà dằn từng tiếng. – Em rõ chưa?
- Thưa cô, rõ ạ.
Chị Bội đáp, giọng run run và mặt càng nhợt ra như tờ giấy.
Bà hiệu trưởng gõ ngón tay lên bàn:
- Tốt lắm. Bây giờ, em nghe cho kỹ càng: Thầy Gia có tán tỉnh, bờm xơm với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có biểu hiện thiếu đứng đắn với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có tới rủ em đi xem phim Pha-ti-ma không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có vuốt tóc, ôm lưng em không?
- Thưa cô, không…
Cứ mỗi câu trả lời, đầu chị Bội lại cúi thêm xuống. Cuộc đối thoại xong, mặt chị gằm xuống sát mặt bàn. Mỗi câu trả lời của chị giống như những viên đại bác bắn vào đầu tôi, khiến tất cả nát vụn, tan tành. Tôi không nghĩ được gì nữa. Óc tôi như khối bùn nhão, lạnh tanh. Tôi chỉ cảm thấy mặt mình từ nóng phừng phừng chuyển sang giá ngắt. Bàn tay tôi tuột từ mép bàn xuống gối, run bần bật. Còn quả lắc đồng hồ thì đảo đi đảo lại như cái đầu trọc của lão già trên chùa Đông Na. Cuối cùng, không hiểu vì sao, tôi đã thu hết sức lực mà hét lên:
- Chị Bội nói điêu, chị Bội nói dối!..
Bà hiệu trưởng quắc mắt lên, nhưng giọng lại rất mềm dẻo:
- Em ngồi xuống, không được vô lễ…
Nói xong, bà ta quay sang chị Bội:
- Em hãy trả lời trước tôi, thầy Thế và em Bê. Những điều em nói đúng hay sai?
Tôi nhìn trân trân vào cái má trắng bợt của chị Bội. Những sợi tóc mai rung rung:
- Thưa cô em nói đúng.
Chị Bội trả lời không nhìn ai.
Có cái gì đó vỡ oà trong tôi. Nỗi đau quặn lên, cồn cào gan ruột. Nó khiến tôi rã rời như biến thành những hạt cát. Tôi không thể gào thét được, thậm chí không thể gọi được tên một người thân thiết nào đó tới với mình. Những viên gạch men lát nền nhà quay chậm chậm dưới chân tôi. Rồi tốc độ quay mỗi lúc mỗi nhanh như cánh chong chóng trên đỉnh đồi. Chúng khiến tôi chóng mặt, đầu óc quay cuồng. Một tiếng còi xe lửa rít lên trong óc, và tôi rơi vào trong cái vòng quay tròn dưới chân tôi…
Tôi ốm năm ngày thì được biêt hội đồng nhà trường họp thi hành kỷ luật tôi. Mức kỷ luật bà hiệu trưởng để ra là mức kỷ luật cao nhất đối với một học sinh: Đuổi học, cảnh cáo và thông báo toàn thể các trường cấp ba trong tỉnh; hạnh kiểm 0 điểm. Lý do kỷ luật: Vu khống và có hành động trả thù giáo viên.
Tất cả bạn bè của tôi đã thay nhau theo dõi các cuộc họp. Tụi nó kể với tôi rằng cuộc đấu tranh giữa bố Thế và bà Vinh vô cùng gay go. Cuối cùng, bà Vinh lấy quyền thủ trưởng quyết định vì ý kiến ủng hộ hai bên ngang nhau, không hơn kém một phiếu. Tôi đã chuẩn bị tinh thần chịu đựng kỷ luật cao nhất là đuổi học. Nhưng tôi không ngờ bà hiệu trưởng còn kèm theo điều kiện thông báo toàn bộ các trường cấp ba trong tỉnh. Như vậy, bà vĩnh viễn buộc tôi thôi học vì không một trường nào dám nhận tôi nữa. Bà đã chặn tất cả các ngả đường phía trước đời tôi. Hẳn bà biết cậu ruột tôi có ý định đem tôi lên một trường huyện cho học tiếp. Bà dập tắt nốt ngọn lửa cuối cùng trong hy vọng của tôi.
Tôi gục đầu xuống hồi lâu, không ngẩng lên được. Sau đó, thay nỗi thất vọng và buồn tủi là lòng hờn oán. Tôi hỏi:
- Còn lão Gia thì sao?
Tụi ban hỏi lại:
- Thì sao là nghĩa gì?
Tôi đáp:
- Lão ta có bị kỷ luật, phê bình gì không?
- Làm gì có chuyện ấy. Lão ta còn được thể làm già, khăng khăng đòi đi nơi khác. Nhiều thầy cô ghét lão nhưng không dám nói. Riêng bố Thế với thầy Bách chỉ trích lão thì bị bà Vinh phê bình là nuông chiều học sinh, thành kiến với đồng nghiệp… Mấy hôm nay, mặt lão vênh lên trông đáng ghét lắm.
Tôi lặng im, tức thở như bị ngạt khói. Trước mặt tôi bỗng hiện lên con đường quen thuộc dẫn tới trường. Nắng rực rỡ. Những cây kim phượng hoa vàng và những cây phượng vĩ hoa đỏ chót nở dọc lối đi. Sân trường xanh mướt cỏ. Nơi ấy cơ man nào cỏ may, cỏ chỉ. Chúng tôi đã ngắt cọng cỏ, cắm vào đuôi những con chuồn ớt, chuồn ngô rồi thả chúng lên trời. Thế là hàng chục chiếc phi cơ óng ánh sắc màu lượn trên khung trời lơ, trong như lọc. Sát sân cỏ là hội trường với hai chùm đèn bóng trắng. Các đêm liên hoan đã diễn ra ở đó. Nào tiếng ghi-ta, tiếng phong cầm, tiếng vi ô lông, tiếng sáo… Nào váy áo lụa xanh, lụa hộng rực rỡ và những chiếc mũ dán giây tráng kim lấp lánh dưới ánh đèn… Chẳng lẽ không bao giờ tôi còn được thấy chúng nữa sao?… Cả cái bàn bóng một bên vênh, một bên có khe nứt, bóng đi xiên vẹo và luôn gây cho ta những cú thua oan. Cả cái phòng thí nghiệm có ông già mặc áo bờ lu trắng, mũi khoằm khoằm và luôn hăm dọa lũ học trò nhưng lại hiền như đất. Rồi những dãy chai lọ hình thù lạ lẫm, những chiếc bình cong cổ, những ống nghiệm làm phản ứng hoá học, chum a xít sun-phua-ríc có hình chiếc đầu lâu với hai ống xương bắt chéo bên trên, bộ xương người bằng thạch cao nhe hai hàm răng trắng nhởn trong bóng tối, lọ phoóc môn ngâm bào thai người… Rồi dãy hành lang lát gạch men vàng, những tấm kính cửa sáng bóng mà ngày ngày chúng tôi soi gương vào đó, chiếc bàn dài đầy vết mực và có các hình vẽ nguệch ngoạc, ngăn kéo dưới bàn là nơi chúng tôi bí mật giấu ô mai và ngô nướng ăn vụng trong giờ học, tấm bảng đen có ô nhỏ bên trên ghi sĩ số từng ngày… Thế giới thân yêu tràn ánh sáng và tiếng cười đó sẽ mãi mãi rời xa tôi sao? Tôi là người sinh ra để gắn bó với nó. Tôi yêu nó đến nỗi trong mỗi vụ nghỉ hè, dù bao nhiêu trò chơi vui thú lôi cuốn, tôi vẫn không quên được màu phấn trắng, mùi hăng hăng bụi bặm của phòng thí nghiệm và không khí hồi hộp trước mối tiết kiểm tra bài. Ngôi trường đó có bao nhiêu dấu vết của tôi. Này nhé, cái cọc lưới bóng bàn tôi đã xin Ban thể dục thể thao tỉnh. Đôi vợt mút là phẩn thưởng cây vợt trẻ của tôi. Chiếc bình cắm hoa lớn nhất thường dùng trong ngày lễ là phần thưởng diễn viên văn nghệ không chuyên của Ty văn hóa tỉnh. Còn bồn hoa trước văn phòng là do cả lớp tôi trồng mùa thu năm ngoái. Hôm trồng hoa, tôi đã bị cảm nắng một trận nên thân…
Những kỷ niệm tha thiết quá. Chúng khiến tôi đau đớn nhiều hơn. Nước mắt trào qua bờ mi, lăn xuống tận cằm. Tôi để mặc cho nước mắt rơi ướt đẫm vạt áo.
Hôm sau chủ nhật, tôi vừa thức dậy thì lũ bạn đã kéo tới đầy cửa. Chúng gào ầm ĩ:
- Bê ơi, dậy mà nghe tin mừng.
- Bê ơi, có chuyện quan trọng lắm…
Tôi đứng dậy mở cửa vì mẹ đi chợ từ sớm đã chốt then ngang thay khóa. Tụi bạn xô vào, xúm quanh giường. Rồi chúng tranh nhau kể cho tôi nghe. Tiết học thứ năm hôm qua, bà hiệu trưởng cho văn thư đánh máy quyết định kỷ luật của tôi gửi đi các nơi. Trong lúc bà đang đọc, Ly bước vào nhận rằng chính mình mới là người nhốt ông Gia vào nhà xí. Vũ Thị Bê chỉ khiêng giùm cậu ta chiếc bàn lim thôi. Nhưng chị ấy đã đứng ra nhận tội vì thương Ly gầy gò, ốm yếu và nếu bị đuổi học sẽ không đủ sức chịu những trận đòn của ông bố…
Tụi bạn kể xog, giương mắt nhìn tôi đầy vui vẻ và tò mò. Tôi im lặng. Tôi không ngờ chú bé loẻo khoẻo, thể xác ốm yếu, có bộ mặt ủ ê, sầu não đó lại tốt đến thế. Niềm thương mến tràn ngập tâm hồn khiến tôi rung cảm.
Loan hỏi:
- Đằng ấy mừng quá phải không?
Tôi gật đầu:
- Ừ.
Loan tức tối:
- Thế mà bà Vinh xử oan đằng ấy.
Tôi lắc đầu:
- Không oan đâu.
Tụi bạn trợn tròn mắt nhìn tôi:
- Sao lại thế?
Tôi bảo:
- Tớ mừng vì điều khác chứ không phải vì thoát được kỷ luật của bà Vinh.
Tối hôm đó, tôi đến nhà Ly.
Ông bố say rượu của nó đang ngồi ngất ngư trước một mâm bún lòng.
Trống quân, trống quýt, trống còi,
Tôi chẳng lấy nó, nó đòi lấy tôi…
Ông ta ngửa cổ lên trần nhà, cất giọng khê nồng nặc hát. Hát xong, ông hét thằng con út đang đứng gần cửa:
- Cu, con mẹ sề của mày đâu rồi?
Thằng bé lên năm nhưng mặt già câng trả lời:
- Bà bô sang nhà mụ đồng Son. Có thuê cu đi gọi thì đưa năm hào.
Ông bố móc túi, tìm đồng năm hào ném cho con:
- Này, con mẹ sề mày đi với ai hả?
Đứa con giơ từng ngón tay đen nhẻm, móng tay đầy ghét lên đếm:
- Bà Năm Nghĩa này, bà Tư này, bà Nhàn này… Cả chú Lợi công văn nữa này… Nhiều lắm…
Ông bố gầm lên, đôi mắt lồi như hai quả nhót chín:
- Tiên sư nhà nó, rượu nhạt như nước ốc, mắm tôm chấm lòng thì không chanh, không ớt… Nó bỏ đi đàn đúm với cái thằng đĩ đực ấy. Ông thì ông cho cả nút ăn dao…
Ông ta giơ chén rượu lên cao, đập cộp một cái thật mạnh. Chiếc chén thủy tinh vỡ vụn trên tấm phản gỗ lim. Mảnh thủy tinh đâm vào tay người đàn ông nát rượu. Ông ta giơ bàn tay ròng ròng máu lên và kêu:
- Ly, Ly đâu? Cha tiên sư mày, chết ở đâu rồi?
Tôi nép vào cánh cửa, sợ hãi nhìn những giọt máu đỏ tươi từ bàn tay người đàn ông rớt trên mặt gỗ. Trước đây tôi vẫn nghe dân thị trấn đồn cặp vợ chồng này vô cùng hung bạo, đánh đập nhau luôn luôn và hành hạ thằng bé mồ côi mẹ không tiếc tay. Tuy thế, tôi cũng chưa thể hình dung rằng trên đời có một người cha gớm ghiếc đến như vậy.
Người đàn ông say rượu vẫn gào:
- Cha con đẻ mẹ mày! Ly, Ly… y… y…
Lúc bấy giờ, chú bé hớt hải chạy lên:
- Bố gọi con ạ.
Ông bố quát:
- Không gọi mày thì gọi con chó à?
Nói xong, ông ta co chân đạp thốc vào bụng đứa con, văng ra một câu chửi tục. Ly thót bụng lại như con tôm, lùi ra sau rất nhanh nên cú đạp tàn bạo kia rớt xuống cặp đùi gầy gò của nó. Hẳn là Ly đã quen tránh đòn chứ như tôi mà bị đạp vậy thì chỉ đứng thưỡn ra hứng trọn cú đòn và sau đó lên bệnh viện ngay.
Trong nhà, ông bố gào:
- Kiếm giẻ băng tay cho tao.
Đứa con trai lẳng lặng vào buồng. Lát sau, Ly mang ra mảnh giẻ cũ với nhúm thuốc lào. Nó cầm bàn tay ông bố lau hết máu, rịt thuốc rồi lấy giẻ băng kín lại. Ông bố đưa bàn tay đã băng cẩn thận lên nhìn, vẻ mặt dịu đi. Ly thu dọn những mảnh thủy tinh vỡ, lấy giẻ ướt lau vết máu trên phản rồi ra sân. Lúc đó, cậu ta mới thấy tôi. Nó nhìn trước nhìn sau rồi chạy ra:
- Đằng ấy đến từ bao giờ?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ông ấy đá đằng ấy có đau không?
Ly ấp úng:
- Không… tớ tránh được.
Tôi cau mày:
- Tội nghiệp!... Bố đằng ấy ác quá...
Ly im lặng. Lát sau, nó dịu dàng nói:
- Ông bố tớ ấy mà… ông ấy cũng chẳng sung sướng gì đây. Ông ấy khổ lắm nên mới đâm ra nghiện rượu…
Tôi nói:
- Nhưng ông ấy không thương đằng ấy.
Ly cúi đầu nói khẽ:
- Có chứ. Bố tớ cũng thương tớ…
Rồi sau một lát im lặng, nó lảng sang chuyện khác:
- Đằng ấy tới bảo gì tớ thế?
Tôi ngẩn người, bỗng dưng quên hết những lời lẽ mà dọc đường tôi đã nghĩ ra để nói với Ly. Sau cùng, tôi buông một câu hỏi cộc lốc:
- Sao đằng ấy lên hội đồng nhà trường nhận kỷ luật cho tớ?
Ly từ tốn đáp:
- Thế tốt hơn.
Rồi nó cười:
- Mà sao đằng ấy biết? Nhanh thế! Loan hạt mít thông báo à?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ai bảo đằng ấy làm việc đó?
- Không ai cả.
- Thế tại sao?
- Tớ học kém quá. Học thêm nữa cũng chẳng ích gì. Đằng ấy học giỏi mà lại phải thôi thì tiếc quá. Bố Thế nhiều lần bảo rằng lớn lên đằng ấy thừa sức du học nước ngoài.
- Đằng ấy không sợ ông bố với bà dì ghẻ đánh hay sao?
- Chắc… cũng có đánh. Nhưng chẳng sao, tớ quen đi rồi…
Ly lại cười. Gương mặt nhỏ sáng long lanh. Tôi mủi lòng nói:
- Ly, đằng ấy nghĩ tớ cam tâm để đằng ấy bị đòn oan hay sao?
Nói xong, tôi nhìn Ly. Nó cũng ngước nhìn tôi. Ánh mắt chúng tôi soi vào nhau. Và tôi biết rằng, chỉ một giây nữa, hai đứa sẽ cùng òa lên khóc. Vì thế tôi vội vã quay đi, cắm đầu chạy một mạch về nhà.
Sáng thứ hai, tôi đến nói với bà hiệu trưởng rằng bà cứ việc công bố thi hành kỷ luật tôi như cũ. Rằng việc Ly đứng lên nhận lỗi chỉ là do thiện ý của cậu ta và hoàn toàn không xác thực. Tôi nói một cách bình tĩnh, không mảy may run sợ, hồi hộp. Khi đã biết hoàn toàn sự tàn nhẫn và độc ác của bà, tôi không e sợ quyền lực của bà nữa. Chúng tôi, những đứa trẻ chưa tới tuổi trưởng thành, chúng tôi dũng cảm trước sự thật, chúng tôi thương yêu nhau và biết hy sinh vì nhau. Chúng tôi cao hơn bà. Tôi nhận cuốn học bạ mà bên dưới những dòng chữ dài dằng dặc biểu dương mọi ưu điểm, dưới những cột số điểm nằm đỏ chói, có dòng chữ đuổi học to tướng và điểm hạnh kiểm 0. Tôi nhận cuốn học bạ đó từ tay bà, lặng lẽ, dửng dưng. Tôi đã vượt qua giới hạn của nỗi đau khổ rồi.

Chương 8
Ngày mai mình sẽ sống như thế nào đây? Mình sẽ trở thành cái gì? Mình sẽ làm gì…
Trên đường về, những câu hỏi quay cuồng trong óc. Dẫu sao, tôi cũng đứt ruột khi rời bỏ cái cồng trường đồ sộ, cả hai cánh lớn quay cọt kẹt trên ổ trụ và một tán phượng vĩ xanh mướt che bên trên. Dẫu sao, tôi cũng đau lòng khi nhìn từng tốp học sinh ngược tới trường. Tôi thèm muốn số phận của họ biết bao. Đứa học trò kém cỏi nhất, láo lếu nhất, đội sổ hoặc lưu ban cũng còn sung sướng gấp ngàn lần tôi bây giờ. Dẫu dốt nát và lười biếng, nó vẫn có quyền bước vào lớp, nơi ngày ngày trên tấm bảng đen diễn ra một phương trình toán mới, một phản ứng hóa học mới, một định luật vật lý mới, một bài thơ hay một bài văn mới. Đứa học trò hư hỏng nhất cũng có quyền bước vào phòng thí nghiệm, nơi trong bóng tối chúng tôi hồi hộp ngước nhìn bộ xương thạch cao hay bức tranh vẽ con khủng long thời cổ đại. Đứa học trò tồi tàn nhất cũng có quyền cầm chiếc vợt mút của tôi, đánh bóng trên chiếc bàn tôi quen từng vết nứt, hái hoa trong bồn hoa trước cửa văn phòng… Đám học sinh đông đúc và sung sướng kia tới trường. Còn tôi, tôi trở về nhà với cuốn học bạ đen kịt. Lòng tủi hổ, tôi không dám đi đường lớn tôi rẽ xuống con đường nhỏ băng qua cánh đồng.
Về phố, tôi lang thang thơ thẩn chơi ở các cửa hàng. Tôi không muốn về nhà. Từ ngày tôi tuyệt thực, mẹ tôi không đánh tôi nữa. Nhưng mẹ không nhìn tôi và nói với tôi một câu. Sự im lặng của mẹ khiến tôi cảm thấy tôi đã chết rồi. Tôi đã chết thật.
Tôi là đứa con hư, là học trò bị đuổi, tôi không xứng đáng là con cô giáo Hạnh…
Đang đứng, tôi chợt nhìn thấy một đám đông trước cửa nhà cai Cân. Chắc có chuyện gì… - Tôi nghĩ.
Ở thị trấn, hễ có sự lạ là người ta xúm lại vòng trong vòng ngoài. Trước đây mẹ tôi dặn phải lảng tránh những đám đông hiếu sự, tò mò đó. Người bây giờ, buồn chán nên tôi tới xem. Tới nơi, chưa chen chân vào đám đông được, tôi lại gặp ngay Cóc tóc đỏ. Cóc tóc đỏ là đứa con gái kém tôi một tuổi, con ông gác chợ. Vì mặt nó bị mụn, sần sùi từ nhỏ nên bố nó đặt luôn tên là Cóc. Cóc học dốt quá, nên đúp ba năm mà không lên nổi cấp hai. Ông bố liền bắt nó thôi học ở nhà giúp bố gác chợ, thu thuế đám hàng rong. Ngoài ra, nó xếp chỗ bán lấy tiền. Cửa hàng thịt, hàng mậu dịch nào Cóc cũng đặt hàng chục hòn gạch, rổ cá, nón rách, mũ mất chóp… để giữ chỗ từ tối hôm trước. Hôm sau người ta tới xếp hàng mua thực phẩm thì Cóc bán lại chỗ cho. Chỗ tốt một hào, chỗ kém hơn năm xu. Làm cái nghề kỳ quặc thế nên con bé nổi tiếng là đanh đá, láo xược. Nó sẵn sàng chửi nhau tay đôi với một bà già hoặc cởi trần đánh nhau với một thằng bé mười ba, mười bốn tuổi. Suốt ngày phơi nắng nên da Cóc đã đen lại càng giống như nhọ chảo. Tóc đỏ xác xơ như lông bò. Những mụn thịt ở mặt ngày càng dày chi chít và to thêm Cóc tóc đỏ là hình ảnh quái gở nhất mà các bà mẹ thường đem ra dọa đám con trai. Đứa nào nho nhoe, bướng bỉnh là bị cảnh cáo:
- Mày liều liệu không tao cưới con Cóc tóc đỏ cho đấy…
Các cậu con trai dù ương ngạnh mấy cũng phải nhũn như chi chi ngay.
Vậy mà đối với tôi, Cóc lại tỏ ra tử tế. Không hiểu sao, nó chuyên gọi tôi là chị, xưng em một cách ngon lành mặc dù bình thường nó cứ mày mày tao tao với đám thiếu nữ mười lăm, mười bảy. Có lần, tôi ra chợ mua thịt, Cóc sấn sổ gạt mọi người, giành chỗ tốt nhất cho tôi. Mua xong, tôi dúi vào tay Cóc năm xu và bảo:
- Cám ơn nhé.
Cóc tóc đỏ lập tức trợn mắt lên:
- Sao chị coi khinh em thế? Em với chị mà lại ngửa tay nận năm xèng hay sao?
Rồi vỗ bộp vào túi quần, nó nói:
- Em mời chị một bát tái bò, phở nhà Hoi ngon lắm…
Tôi vừa lắc đầu từ chối thì Cóc tóc đỏ đã nắm tay tôi kéo đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò vì kinh ngạc của mọi người…
Bây giờ, nó đang đứng trên hè, kể cho tôi nghe vụ xung đột nhà cai Cân:
- Chị biết không? Lão cai Cân vừa đánh mụ vợ kế đấy. Hai thằng con trai lão cũng nhảy vào đánh hôi. Công an tóm lão lên đồn. Còn hai thằng ranh bị em trai bà Lưu tát tai cho đang la lối om sòm trong sân…
- Nhưng vì sao lão đánh cô Lưu chứ? Vừa cưới nhau được hơn một tháng mà!...
- Vàng, vàng… Tiền, tiền… Từ đó mà ra cả…
Cóc tóc đỏ cong môi, khua hay tay như người rao bán dầu cù là. Vẻ mặt nó hăm hở và tức tối, đúng tính cách của một đứa trẻ quá quan tâm và làm quen với đồng tiền:
- Chị hiểu không, lão cai Cân lừa mụ vợ kế ngon ơ. Hồi cưới, lão xui mụ bán nhà về ở với lão. Thu được sáu lạng vàng và một cục tiền, lão bảo vợ đem chung vốn buôn thuốc phiện với cánh Hà nội. Mụ vợ nghe ngọt nhạt gật đầu. Thế là lão tuốt về quê. Tuần sau, lão trở về bảo đã bị lừa hết. Mụ vợ phát điên rồ kêu la, lão nện liền…
Tôi đứng lặng người. Thế là Loan bắt đầu cơ cực. Nỗi lo buồn không thể đo đếm, những tai ương không thể tính trước, người xưa nói đúng thật.
Cóc tóc đỏ thấy tôi im lặng, giơ tay lên:
- Em mà như vậy ấy à?... Em sẽ róc xương lão ra cho tới khi lão trả đủ số vàng đó…
Lúc đó một bà già cao lòng khòng đứng bên kia đường gọi to:
- Con bé trời đánh kia, bố mày hét ầm cả nhà lên kia kìa…
Cóc tóc đỏ nhướng cổ đáp:
- Rõ rồi, thưa bà…
Nó chào tôi rồi biến mất. Tôi đứng suy tính hồi lâu, quay lại, tìm quán nước chè quen, vào ngồi chờ Loan đi học về. Ỏ quán nước đó cũng như mấy quán bên cạnh, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán vụ đánh lộn ở nhà cai Cân. Nhân cớ đó, người ta lục tìm quá khứ mờ ám của lão, từ những vụ mua bán lừa đảo tới việc chạy chọt xin giấy mở cửa hàng chạy nước đá bán lẻ. Tôi ngồi nghe chuyện vặt đó cho tới gần trưa Loan hạt mít mới về. Tội nghiệp, nó đi thui thủi một mình giữa những tốp học sinh vui vẻ. Ngày thường, bao giờ chúng tôi cũng cặp kè nhau như đôi cá thờn bơn. Loan bảo tôi:
- Tối nay bố Thế đến nhà đằng ấy đấy. Buổi sớm bố ở Ty giáo dục về thì đằng ấy đã đi rồi…
Tôi biết rằng bố Thế thương tôi. Nhưng tôi không muốn gặp mặt bố nữa. Vì tôi bố đã phải chống đỡ và sẽ còn gặp nhiều sự phiền hà. Tôi không thể nào nhìn gương mặt chất phác và nhân hậu của bố, khi gương mặt đó nặng trĩu những nỗi lo buồn. Tôi bảo Loan:
- Mình không về nhà đâu.
Loan chưa kịp hỏi, tôi đã nói tiếp:
- Còn đằng ấy cũng có chuyện cần phải nghĩ đấy. Ta tìm chỗ vắng rồi tớ sẽ kể lại đầu đuôi.
Nhìn vẻ mặt tôi, Loan ngoan ngoãn phục tùng. Chúng tôi chui vào một ngõ hẻm có ngôi chùa cổ để tránh đám học sinh tan trường đang tiếp tục diễu qua. Ở đó, dưới một tán bàng xanh um, tôi kể cho Loan biết vụ xung đột tại nhà cai Cân, biết mẹ Loan hiện đang nằm bệnh viện, biết tình thế của Loan hiện tại. Sau cùng, tôi bảo:
- Đằng ấy về thẳng nhà mình. Buổi chiều, mẹ mình sẽ đưa về nhà cai Cân lấy quần áo. Có đằng ấy ở với mẹ, mình sẽ yên tâm. Mà đằng ấy sẽ bớt khổ sở.
Loan im lặng. Tôi biết nó sẽ ưng thuận hoàn toàn. Lát sau, cô bạn ngước nhìn tôi, hỏi rụt rè:
- Còn Bê… Bê đi đâu?
Tôi đáp:
- Không thể cho đằng ấy biết được. Chiều nay lúc năm giờ ta sẽ gặp nhau ở bến sông, chỗ buộc thuyền của bà An Lạc. Tuyệt đối không được cho mẹ mình và bố Thế biết rằng đã gặp mình. Thôi, đứng dậy… và đi đi…
Tôi ngồi dưới gốc bàng, ôm đầu suy tính: Đi đâu bây giờ? Đi đâu? Ở thị trấn này chăng?
Các thầy cô giáo quen biết mẹ ở khắp nơi. Họ sẽ phát hiện ra tôi và đem trả ngay cho mẹ. Và mẹ lại nhìn tôi với con mắt lạnh lẽo, buồn rầu, không nói một tiếng. Chao ơi, tôi sợ những tia nhìn nghiệt ngã đó và sự im lặng hơn những roi đòn đau rát nhất từ xưa đến nay… Hay về quê?
Không, về quê xa xôi quá. Vả lại có về đó rồi mẹ tôi cũng sẽ tìm thấy ngay. Mà tai hại hơn nữa, là tất cả bà con họ hàng, chị em họ, cháu họ xa gần sẽ biết tôi bị đuổi học. Xưa nay, tôi vẫn là ngọn cờ để họ biểu dương: “Cứ nhìn chị Bê con bác giáo Hạnh đấy, học sớm hai năm mà năm nào cũng đứng thứ nhất”. Hoặc: “Cứ nhìn cô Bê con bà trẻ Hạnh đấy, học cứ như thần đồng. Còn chúng mày thì chỉ là một lũ ăn hại thôi…” Đáng buồn thay, thần tượng của họ đã bị sụp đổ rồi. Tai ương và lỗi lầm đã cướp đi của tôi niềm tự hào nhất đối với tuổi niên thiếu. Đi tới đâu, bây giờ tôi cũng bị nỗi tủi nhục bao vây…
Nghĩ tới đó, nước mắt tôi chảy ròng ròng trên má tự lúc nào không biết. Tôi cúi đầu úp mặt vào hai đầu gối để mấy bà đi vào chùa khỏi nhìn thấy. Nghĩ lan man mãi, cuối cùng tôi quyết định đi tới nhà chú bé chụp cá bên kia sông.
Đồng hồ các nhà trong ngõ thong thả điểm mười hai tiếng chuông. Đám học sinh tan trường đã về tới nhà. Đường phố vắng vẻ hơn. Tôi đi rất nhanh ra bờ sông, mặt cúi gằm xuống đường để tránh những cặp mắt của người quen trong thị trấn. Bến sông vắng lặng. Làn nước lấp lánh dưới ánh nắng. Vài đám bèo Nhật bản hoa tím nổi bập bềnh trên sông và một con bói cá lẻ loi, lông xanh biếc chốc chốc lại nhào xuống cắp mồi. Tôi định bơi qua sông nhưng chợt nhớ mình đang đói bơi dễ bị chuột rút nên tôi cố gắng leo lên đồi, đi vòng qua cầu để sang bờ bên kia. Vượt qua đê, tôi tới làng chú bé chụp cá đêm. Men theo hồ sen, tôi lại tìm được nếp nhà tranh nhỏ xíu, cổng bằng rào tre, mảnh sân hẹp như chiếc chiếu xung quanh co vài bông mào gà và cúc kim chi vàng nở.
- Cau ơi Cau… Cọt ơi… Cọt…
Tôi cất tiếng gọi:
- Ai đấy, vào đi i i…
Giọng đàn bà cao vút trả lời. Rồi mẹ chú bé bước ra. Ban ngày, tôi nhìn rất rõ người đàn bà lai tàn tật. Lưng cô gù gập xuống khiến dáng người như con cua. Khuôn mặt đẹo nhưng quá nhỏ nên trông kỳ dị, đôi mắt rất to với những rạch sáng xanh lam, và những lọn tóc quăn màu hung rực rõ bao quanh mái đầu.
- A, cháu đã đến chơi hôm trước, đúng không?
Cô cất tiếng cười vui vẻ, hỏi tôi.
Tôi lúng túng cảm động vì thái độ hồ hởi của người đàn bà, khẽ đáp:
- Thưa cô, vâng ạ…
Chủ nhân quay người đi trước, miệng nói:
- Vào nhà kẻo nắng.
Tôi hỏi:
- Em Cau có nhà không cô?
Người đàn bà bước vào nhà, ngồi xuống chõng. Lấy tích rót nước vào chén cho tôi rồi mới trả lời:
- Em Cau đi học rồi. Nhưng cháu cứ ngồi chơi.
Chờ tôi bưng chén nước uống, người đàn bà lặng lẽ xuống bếp. Rồi sau đó, cô trở lại với một nồi đất đầy ngô bung đậu đen:
- Cháu uống nước rồi ăn ngô. Cô với em vừa ăn xong tức thì.
Tôi thấy những ánh mắt xanh long lanh của cô nhìn tôi trong sáng và nhân hậu quá. Dưới cái vỏ ngoài kỳ dị, tâm hồn cô dịu dàng và tinh tế. Lòng tốt của cô khiến tôi bàng hoàng. Tôi nói khẽ:
- Cháu cám ơn cô.
Người đàn bà cười:
- Ồ, có gì đâu…
Rồi cô nói lảng chuyện khác:
Chiều hôm đó tôi kể cho cô nghe tất cả những rủi ro của mình. Tôi kể một cách tự nhiên, tin cậy như tôi đã thân thiết với gia đình cô từ lâu lắm. Người đàn bà lắng nghe với vẻ cảm thông, trầm tĩnh. Sau đó cô bảo tôi:
- Tất cả rồi đâu sẽ vào đấy. Cháu cứ tin điều cô nói. Qua cơn bĩ cực, tới tuần thái lai.
Chừng non chiều, người tôi bỗng mệt rã rời. Mắt díp lại sau những ngày căng thẳng. Tôi có ý nghĩ nếu đặt lưng nằm xuống tôi sẽ ngủ mãi mãi không thể thức dậy được. Thế nhưng, tôi ngủ được tới năm rưỡi, Cau đánh thức. Chú bé gọi:
- Chị dậy ăn cơm. Cơm chín rồi.
Tôi choàng dậy. Tắt nắng rồi. Những ráng chiều màu đỏ, màu da cam chất ngất ở phía tây, trải lên mặt đất thứ ánh sáng như đồng chảy. Trong ngôi nhà tranh, mọi vật đã nhũ nhòa. Trước sau chỉ còn những bông cúc kim chỉ và những bông hoa mào gà là còn tươi sáng. Tôi sực nhớ giờ hẹn với Loan, hốt hoảng:
- Mấy giờ rồi, Cau nhỉ?
Chú bé ngửa mặt nhìn trời:
- Sắp sáu giờ.
Tôi nói:
- Thôi chết, mình phải đi ngay.
Cau túm tay tôi lại:
- Không đi đâu cả. Cơm dọn ra rồi. Ăn xong đã.
- Nhưng có việc cần, mà mình đã hẹn…
Chú bé nghiêm nghị nhìn tôi:
- Việc nào cũng phải ăn rồi mới có sức làm được.
Và mẹ chú từ trong bếp bước ra, má đỏ lựng hơi lửa, tiếp lời con:
- Cơm thương cháo thương hơn tất cả mọi người thương. Phải ăn đã, cháu ạ...
Tôi không còn cách nào hơn là ngồi xuống bên chiếc mâm gỗ đặt ngay giữa sân. Trên mâm, một đĩa rau khoai lang luộc chín tới xanh rờn đang bốc khói. Chiếc đĩa nhỏ đựng cà pháo kho với tép và ớt chỉ thiên.
Mẹ chú bé chụp cá bảo con:
- Cau múc tương chưa nhỉ?
Chú bé vội vã trả lời:
- Con múc tương bây giờ đây.
Nói đoạn, chú cầm chiếc bát sạch, ra góc sân. Ở đó, có một chiếc chum da lươn nhẵn bóng. Trên miệng chum úp cái chậu sành non. Cau thận trọng lật chiếc chậu sành lên. Xong, nó dỡ mấy lượt lá chuối khô phủ trên rồi mới tới lượt vải màn bên dưới. Cuốn tấm vải màn sang một bên, chú bé vực cái bát ăn cơm vào trong chum. Rồi khi nhấc bát tương lên, nó thè lưỡi liếm những giọt tương rớt bên dưới bát khiến cho tôi suýt bật cười. May mà tôi ghìm giữ được.
Chúng tôi ngồi ăn cơm khi trời chập choạng tối. Ánh hoàng hôn chỉ còn vương vất trên những ngọn tre cao vút và những tàn lá xoan mỏng manh, luôn luôn lay động vì gió thổi. Quanh sân, những con cóc già nghiến răng trèo trẹo nơi góc tường hoặc kẽ đất. Thỉnh thoảng, cào cào châu chấu từ đồng lúa bay vào, đá tạch vào tai tôi, vừa đau vừa ngứa. Tôi lo ngay ngáy khi nghĩ tới chuyện một chú ễnh ương hoặc nhái bén nhảy vào bát tương hay đĩa cá. Nhưng may sao, điều đó không xảy đến. Còn mẹ con chú Cau đã quen ăn cơm ngoài trời nên chẳng mảy may bận tâm. Sau này, khi đã quen, tôi cũng cảm thấy ăn cơm ngoài trời thú vị. Bầu không khí mát mẻ, thoáng đãng khiến ta ngon miệng hơn. Và phong cảnh xung quanh cũng làm cho bữa ăn đạm bạc thêm thú vị.
Ăn xong, tôi ra bến sông. Không thấy Loan hạt mít ở đó. Tôi ngồi chầu hẫu bên chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cho tới hơn bảy giờ tối, Loan mới dò dẫm tới nơi.
Tôi chưa kịp hỏi, nó đã nhăn nhó:
- Mẹ đằng ấy không cho đi.
- Tai sao cơ?
- Cô bảo ở nhà với cô cho đỡ buồn. Sau đó tớ phải nói dối là tới nhà Yến sếu mượn bài tập vật lý mới đi nổi.
- Mẹ tớ có tìm tớ không?
- Có. Cô đi khắp lượt những nhà quen trong thị trấn.
- Rồi sao?
- Không tìm thấy, cô đoán đằng ấy về quê ngoại.
- Biết ngay mà...
Tôi lẩm bẩm, hết sức hài lòng vì mình đã tính đúng mọi nước.
Loan kể tiếp:
- Chiều, cô đưa tớ lên viện thăm mẹ rồi sang nhà cai Cân lấy quần áo.
- Mẹ đằng ấy ra sao?
- Đau lắm nhưng vẫn tỉnh. Mẹ tớ khóc nức nở, xin lỗi vì không nghe lời cô.
- Thế mẹ đằng ấy có bằng lòng cho đằng ấy ở với mẹ tớ không?
- Có. Mẹ tớ bảo khi ra viện, mẹ tớ không về nhà lão cai Cân nữa...
Hai đứa im lặng một lúc, rồi tôi hỏi Loan:
- Chiều ăn cơm với gì?
- Rau muống xào tỏi và trứng luộc.
- Còn mình, mình ăn rau lang luộc chấm tương mà cũng thấy ngon. Con người sẽ quen được mọi thứ...
Tôi nói vừa như để lên lớp cô bạn, vừa như tự bảo mình.
Loan nhìn tôi, mắt long lanh như ướt nước:
- Đằng ấy có đói không?... Này cầm lấy cho đỡ thèm.
Nó rút trong túi ra một gói kẹo đưa cho tôi. Tôi chưa kịp bóc kẹo ăn thì Loan đã thò tay vào lục trong lưng quần hồi lâu, rồi móc ra một gói giấy khác:
- Đây nữa.
Tôi cầm gói giấy, giơ lên dưới ánh sao?
- Gì thế này?
Loan nói khẽ:
- Tiền.
Tôi sửng sốt hỏi:
- Một mình đằng ấy mà dám ra đảo lấy tiền cơ à?
Loan lắc đầu:
- Không. Đây là tiền khác... Mà nhiều lắm, nhiều hơn cả kho tàng của chúng mình.
Nó nhìn quanh quẩn rồi quỳ gối, ghé sát vào tai tôi, thì thầm:
- Hai trăm cơ đấy. Toàn giấy mười đồng thôi.
Tôi sững sờ. Quả thực hai trăm lúc đó là to lắm. Cả vốn liếng hai đứa tôi dành dụm ngoài đảo cũng chỉ ngót nghét năm mươi đồng. Mà chỉ toàn giấy năm hào, một đồng mới. Chưa bao giờ chúng tôi có được một tờ năm đồng trong tay. Ngày ấy ăn quà chỉ cần ba hào là sang lắm. Ba hào một bát phở tái. Một hào ba quả chuối chín, mười hai cái kẹo bột, hoặc hai tấm bánh dẻo không nhân. Trứng gà chỉ có sáu bảy xu một quả. Còn trứng vịt to nhất cũng chỉ một hào mốt là cùng... Đó, bạn hãy cứ hình dung ra giá trị món tiền hai trăm đối với chúng tôi trong lúc vật giá như vậy.
Tôi cầm gói tiền, hỏi Loan:
- Tiền ở đâu ra? Ai cho thế?
Loan rụt tay lại:
- Không ai cho cả.
Tôi nói:
- Không ai cho thì cậu lấy ở đâu?
Thấy vẻ mặt nghiêm nghị và ngờ vực trên mặt tôi, Loan nói khe khẽ:
- Mình không làm điều gì xấu cả. Mai mình sẽ nói. Bây giờ mình phải về, không cô sẽ mắng.
Nói xong, không chờ tôi trả lời, Loan quay về phía thị trấn, đi mải miết như chạy.
Tôi giắt gói tiền vào cái túi nhỏ trong lưng quần. Tính tôi hay ăn vặt: lạc rang, hạt dẻ, thóc nếp rang hay bỏng ngô... Thế nên quần nào tôi cũng khâu một chiếc túi để tiện chứa thực phẩm. Không ngờ cái túi con bây giờ có giá trị lớn lao thế. Tôi cẩn thận sờ các đường chỉ may xung quanh, rồi lấy ghim băng cài chặt lại Về nhà Cau, tôi thấy chú bé đang chuẩn bị đồ nghề đi cá. Tôi bảo:
- Cho chị đi với nhé.
Cau lắc đầu:
- Không được. Mẹ em bảo chị đang mệt lắm, đêm nay phải nghỉ ở nhà nghỉ ngơi đã. Khi nào béo khỏe mới được đi. Sương đêm độc lắm, con gái không thể liều được đâu.
Nói xong, chú bé đưa mắt nhìn mẹ. Người đàn bà cười:
- Em Cau nói đúng đấy. Cháu không bì được với nó đâu.
Cau đưa mắt nhìn tôi kiêu hãnh như muốn nói: “Chị đã thấy chưa?”. Rồi nó cao giọng:
- Chị ấy ở ngoài phố nên thích ăn khoai hầm lắm đấy. Chốc nữa mẹ đổ trấu ủ một nồi mẹ nhé.
Người đàn bà gật đầu, trả lời với giọng nói thánh thót nhẹ nhàng như giọng thiếu nữ
- Con cứ đi đi. Mẹ nhớ rồi.
Chú bé đeo giỏ, xách chụp ra sân. Lưng lủng lẳng những hộp mồi lớn, mồi nhỏ. Tay nắm một bó cần câu nhỏ. Trông nó oai vệ như viên tướng xuất trận. Bỗng dưng tôi ao ước được như nó. Tôi ao ước mình cũng làm được một công việc gì đó hữu ích như Cau để nuôi mẹ, đem lại niềm vui sướng cho những người thân và trở thành trụ cột của gia đình...
Tôi cứ theo đuổi những ý nghĩ đó mãi cho tới khi mẹ chú bé đứng dậy để sắp nồi khoai theo lời con dặn. Tôi theo cô xuống bếp. Người đàn bà vần nồi cám lợn sang bên, bắc nồi khoai lên bếp. Những tàn lửa đỏ bắn lung tung như hoa cà hoa cải. chúng tôi đung khoai tới lúc nước sắp cạn thì ủ vào lửa trấu. Sẵn than, người đàn bà nướng thêm mấy củ khoai nhỏ cho tôi ăn trước. Tồi ngồi rủ rủ nói chuyện với cô mãi cho tới khuya mới lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ đầu tiên xa nhà, bao nhiêu giấc mơ ngắn ngủi và lộn xộn ập đến, giống như những câu chuyện thực xen lẫn những huyền thoại hoang đường. Tuy thế, đó cũng là một giấc ngủ ngon lành, nó đem lại cho tôi sự thăng bằng, niềm phấn khởi để bước tiếp trong những ngày tháng tới.

Chương 9
Tám giờ rưỡi sáng hôm sau tôi mới tỉnh dậy.
Căn nhà vắng vẻ. Chỉ có tiếng thạch sùng tắc lưỡi trên mái gianh. Gà trong xóm chốc lát lại gáy te te. Ngoài sân, một con mèo hoang gừ gừ với chú gián vừa chộp được. Mẹ con chú bé Cau đi đâu từ sớm. Họ để phần tôi một bát khoai hầm trên chõng. Tôi ra sân đánh răng, rửa mặt bằng tay rồi trở vào ăn khoai. Xong, tôi lững thững đi theo con đường làng, qua những khu vườn là những mái nhà nối tiếp. Giờ này, dân trong các xóm đã ra đồng. Chỉ có những bà già giữ cháu và đám trẻ lau nhau chơi khăng, chơi đáo là còn ở nhà. Phía đình làng, lớp mẫu giáo đang học. Bên cạnh đó, nhà trẻ hợp tác có cái giếng xây to tướng và một dãy khăn mặt bay phất phới trên dây phơi. Thằng cu nào đó đang ăn vạ gào rất to. Tiếng cô giữ trẻ cố át đi mà không được. Tôi ngắm nhìn những rặng táo qua mùa, chỉ còn lại dăm quả lơ thơ, nhỏ như cuống cà pháo. Hồi lâu, buồn chán, tôi quay gót ra đồng.
Từ làng ra đồng có một con đường nhỏ, chạy song song với dòng mương. Đường bờ vùng vừa đủ cho xe cải tiến chở phân ra bón và chở lúa về sân phơi. Còn khắp nơi là ruộng xanh bát ngát, chạy mênh mông tới chân trời. Lác đác có những mảnh đầm ruộng, loang loáng nước. Ở đó, dù xa, cũng có thể thấy những đốm trắng li ti xao động. Đó là những đàn vịt được lùa đi kiếm ăn.
Nắng chưa gay gắt nhưng vừa đủ rực rỡ để cho những đám mây lung linh như thêu kim tuyến. Dọc bờ ruộng, cây vòi voi uốn những chùm hoa tím xuống mặt cỏ. Còn những bụi cỏ mật xanh um thì tỏa lên mùi hương ngọt ngào, say sưa như ủ men rượu bên trong. Con mương kẻ một vệt dài thẳng tắp trên cánh đồng lúa. Và mặt nước sóng sánh lay động của nó khiến tôi nhớ lại một câu chuyện xa xưa:
“Có một hoàng tử thích chơi thuyền. Nhà vua đóng cho con chiếc thuyền rồng xinh xẻo. Rồi ngài sai quân lính đào một dòng sông nhỏ trong thành. Hoàng tử vui sướng thả con thuyền của mình lên đó. Viên cận thần của vua nói: “Thưa hoàng tử, thuyền rồng của hoàng tử đã tới biển Cát-xpiên...”. Ông hoàng con ngạc nhiên hỏi: “Thuyền ta tới Cát-xpiên rồi sao?”. Viên cận thần đáp: “Thưa hoàng tử, đúng như vậy”. Hoàng tử cười, và từ đó cứ đinh ninh dòng sông đào trong kinh thành của vua cha là biển Cát-xpiên xa xôi hùng vĩ...”
Chợt nhớ lại câu chuyện về ông hoàng con ngây thơ, tôi mỉm cười. Dẫu sao, tôi cũng trưởng thành và cứng cỏi hơn anh chàng con vua. Nghĩ lan man, tôi đã tới giữa đồng. Cách dòng mương chừng hai mươi thước, nổi lên một gò đất. Gò đất ăn liền với con đường. Trên đó, mọc sừng sững một cây gạo lớn. Gốc cây to, xù xì bướu, một người lớn dang tay mới ôm hết nửa vòng. Cành cây trổ ra bốn phía, da nâu pha từng mảng trắng phếu. Hoa gạo đã rụng hết, chỉ còn lại những chùm quả xanh non mềm mại. Tán lá mỏng, cuốn lao xao trong gió. Cây gạo già khiến tôi đứng lặng đi vì cảm phục. Vẻ đẹp của nó hùng vĩ và thanh cao quá, giống như vẻ đẹp của những ông thần trong chuyện cổ chứ không phải vẻ đẹp của một loài cây bình thường trên mặt đất.
Nhưng sau phút giây sững sờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tôi chợt thấy mình bơ vơ, lạc lõng giữa cánh đồng bao la tràn trề ánh nắng và mày xanh cây cỏ, tôi thấy mình như một kẻ bị lãng quên. Chẳng ai cần tới tôi, biết đến tôi lúc này. Dòng mương lấp lánh trôi. Nó tự thầm thì trò chuyện với mình. Những cây vòi voi hoa tím rủ rỉ nói với những con ong ruồi bé tí. Cây gạo oai phong kia trò chuyện với bầu trời. Những người dân đang làm cỏ lúa và vãi phân trò chuyện cùng nhau. Chỉ mình tôi trơ trọi, đơn chiếc. Tôi đi tới gốc gạo. Tôi định bụng sẽ ngồi đó chơi cho tới khi chú bé Cau đi học về. Đến đỉnh gò, tôi chợt thấy một ông già nhỏ bé ngồi thu lu dưới gò, giáp với những đám ruộng. Vì gò đất cao, từ xa tôi không thể nhìn thấy ông. Ông nhỏ bé đến nỗi tôi cứ tưởng rằng ông vừa lụ khụ bước ra từ cánh rừng nào đó của các chú lùn và nàng Bạch Tuyết. Ông đội mũ lá, mặc áo bộ đội chần ba mươi hai đường gian khổ (loại áo từ thời kháng chiến chống Pháp). Chiếc quần vải nâu xắn cao. Tay ông khoanh trước gối, vẻ mặt tư lự như mặt tượng Tuyết Sơn trong chùa. Bên cạnh ông, đặt một cây que dài, đầu buộc túm lá chuối khô. Té ra ông là một ông già chăn vịt. Trong mảnh đầm nhỏ bị vây giữa đám ruộng dưới chân ông, dăm chục ả vịt bầu đang ngoi lên hụp xuống, vẻ thỏa thuê khoái trá.
Thấy tôi đi đến, ông già quay đầu lại:
- Cháu chào ông ạ. – tôi nói.
- A, ông chào cháu – ông già đáp lời, cặp mắt ẩn dưới hai hàng lông mày bạc nhìn tôi hơi tò mò – Cháu ở đâu đến đây? – ông hỏi.
- Thưa ông, cháu ở trong phố.
Tôi đáp lời. Rồi tôi ngồi xuống vạt cỏ dưới chân gò. Những con vịt dưới đầm ăn no, phởn chí vươn cánh lên vỗ phành phạch và định nhảy sang ruộng lúa. Ông già chăn vịt đứng dậy, huơ cái cần tre buộc túm lá chuối khô, miệng dọa:
- Xùy, xùy...
Lũ vịt quác mồm kêu cạc cạc rồi hốt hoảng quay lại, nhảy tõm xuống đầm. Rồi chúng lại mò hụp, bơi lội một cách ngoan ngoãn trong phạm vi mảnh đầm nhỏ bé. Ông già chăn vịt lại ngồi xuống, đặt chiếc cần tre sang bên cạnh. Rồi ông lục túi áo, lấy ra bao thuốc thơm Thủ Đô. Móc túi bên kia, ông lại lấy ra chiếc bật lửa nhỏ xíu, mạ kền sáng loáng. Ông thong thả rút thuốc, dỗ lên mặt bao cho chặt, bật lửa châm. Cử chỉ của ông không giống tất cả những ông già chăn vịt bình thường. Những người chăn vịt không khi nào đuổi vịt “xùy, xùy...” như ông hồi nãy. Họ cũng không hút thuốc như ông. Thường thường, khi thèm thuốc, họ móc hộp thuốc lào trong túi áo ra, rút chiếc điếu tre gài ở thắt lưng, nạp một một thuốc rõ chặt. Rồi họ rút ở phía thắt lưng bên kia một que đóm mang đi từ nhà, hoặc giật mái lều lấy một nuộc lạt châm lửa. Thuốc đã cháy, họ rít liền ba bốn hơi, cổ họng thít vào thật sâu, điếu nổ giòn như pháo: roọc roọc roọc... Hút xong, thế nào họ cũng ngửa cổ lên, lim dim mắt và từ từ nhả khói trong họng ra. Họ nhả khói một cách chậm chạp, khoái trá và lâu đến nỗi đôi khi, tôi tưởng cổ họng họ có một đám trấu rấm lửa ở bên trong, nên những hơi khói trắng đục cứ tuôn mãi chẳng ngừng... Rồi nhả hết khói, bất chợt họ mở choàng mắt, đưa chiếc điếu lên nhìn như nhìn người bạn lâu ngày mới gặp. Và sau đó, họ giơ tay vỗ bộp vào miệng điếu cày. Thế là mồi thuốc tàn trong nõ nhảy ra, như con cóc nhảy ra từ miệng mụ phù thủy...
Những lần về quê ngoại, tôi thường theo đám em họ, cháu họ ra đồng. Và nhờ những ngày lang thang, rong chơi đó, tôi biết được khá nhiều thứ. Sau khi suy xét, tôi đâm nghi ngờ ông già chăn vịt kỳ lạ này. Ngoài chuyện đuổi vịt như đuổi chó và cách hút thuốc rất tỉnh thành ra, ông còn có đôi tay nhỏ xíu và những cử chỉ hết sức lịch lãm, tinh vi.
Ông cụ ở đâu đến đây?
Tôi thầm hỏi, băn khoăn nhìn mái tóc trắng như cước của ông phủ xuống tận gáy. Ông già dường như không để ý đến vẻ tò mò của tôi, ngả người ra phía sau, nhả khỏi lên trời. Mắt ông nheo lại và những nếp nhăn chi chít tụ sau đuôi mắt.
Bất ngờ, ông quay lại bảo tôi:
- Này cô bé, lại đây ông bảo.
Tôi vẫn ngồi trên vạt cỏ, phân vân.
- Lại đây với ông nào...
Ông già khuyến khích. Giọng ông nhỏ nhẹ, hơi trầm.
Tôi nhìn cặp mắt hiền hòa của ông, vững tâm tới gần. Ông dắt tay tôi ngồi xuống bên mình, cất tiếng hỏi:
- Có chuyện gì buồn mà lang thang bỏ học bỏ hành thế?... Nhìn vào mắt cháu, ông biết được điều đó... Hãy nói cho ông nghe xem sao. Có thể, ông sẽ giúp được cháu ít nhiều.Còn như nếu không giúp được cháu, ông sẽ im như hạt thóc trong vựa lúa. Cháu cứ yên tâm...
Tôi ngạc nhiên nhìn ông. Ông đưa cặp mắt già nua, thoáng nhìn tôi trìu mến. Rồi ông lại ngẩng lên, rít thuốc và lơ đãng thả từng làn khói vào khung trời xanh thoáng đãng. Sự im lặng của ông chứa đựng điều gì đó khiến tôi bỗng thấy ông gần gũi, tin cậy. Và phía sau những lời khích lệ nhẹ nhàng của ông có một sức mạnh vô hình mà tôi có thể tựa đỡ, cũng như có thể gửi gấm tâm sự của mình. Tôi im lặng hồi lâu, rồi chậm rãi cất tiếng. Mọi chuyện đều được miêu tả lại minh bạch, rõ ràng, không thêm bớt. Có lẽ, tôi đã qua những phút giây quá xúc động. Tôi đã quen được với nỗi đau khổ của mình nên tôi nói về nó với một giọng điệu bình tính. Trong thời gian tôi nói, ông già đã hai lần rút thuốc, châm lửa hút. Những mẩu tàn ném xuống vạt cỏ, dưới chân ông. Cặp mắt sâu của ông như bất động dưới hai hàng lông mày bạc trắng. Cánh mũi khẽ phập phồng và cục yết hầu chuyển động mỗi khi ông thở.
Khi tôi kể xong, ông khẽ đưa tay vuốt mái tóc tôi:
- Này cô bé, theo cháu thì việc làm của cháu sai hay đúng?
Tôi hỏi:
- Ông muốn cháu nói tới việc cháu nhốt ông Gia vào nhà tiêu? Vâng, cháu biết là sai, nhưng dù sao...
- Nhưng dù sao cũng phải làm, có đúng không?... – Ông già cất tiếng cười và ngắt lời tôi.
- Thưa ông, cháu định nói là... – tôi ấp úng.
- Thôi, không cần giảng giải... ông biết rồi.
Ông giơ tay lên, ra hiệu cho tôi im lặng. Sau đó ông nói:
- Những người theo đạo Thiên Chúa thường nhắc câu nói của Giê-Su: “Nếu có kẻ tát vào má trái của con, con hãy chìa nốt má phải cho y”. Câu nói ấy là bình phong che đậy cho cuộc sống an phận, không đấu tranh. Nếu dân tộc mình cũng chìa nốt má phải cho thực dân Pháp thì chúng ta không còn Tổ quốc. Các cháu sẽ không được học lịch sử Hai Bà Trưng, Bà Triệu, chí khí anh hùng của Nguyễn Huệ, Quang Trung. Các cháu sẽ bị bắt buộc đọc những bà sử nhập cảng: “Tổ tiên ta là người Gô Loa...”. Ngày xưa ông đã phải học như thế đấy...
Ông già thấy tôi trợn tròn mắt nhìn liền mỉm cười, gật đầu nói:
- Đúng như vậy. Hồi Pháp thuộc, ông đã nhai nhải học thuộc lòng: “Tổ tiên ta là người Gô Loa...” Ông nói vậy để cháu thấy rằng ý chí đấu tranh của một dân tộc cũng như mỗi cá nhân con người là vô cùng cần thiết...
Ông ngừng lại, nhìn tôi. Đôi mắt nheo nheo đầy hóm hỉnh mà vui vẻ. Tựa như trong đó có một ngọn lửa nhỏ đang nhảy nhót, reo cười. Và ông nói tiếp:
- Nhưng cái khó nhất là phải biết đấu tranh thế nào cho đúng. Đấu tranh với kẻ ác thì khác, đấu tranh với những sai lầm của những người xung quanh khác. Nhất là khi người đó lớn tuổi hơn và đứng vào một vị trí mà mình phải tôn trọng.
Tôi nói luôn:
- Như thế có nghĩa rằng cháu phải im lặng chịu đựng hoặc chỉ có quyền báo cáo mọi chuyện với thầy chủ nhiệm...
Ông già đặt tay lên đầu tôi, ngắt lời:
- Cứ từ từ, đừng vội vã. Ông không bảo cháu phải nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng cần thận trọng.
- Thế ở hoàn cảnh của cháu, ông sẽ làm gì? – tôi nôn nóng hỏi tiếp.
- Ờ ờ... – ông gật gù – Ông sẽ kiên tâm theo dõi mọi sự thêm một thời gian nữa, vì biết đâu mình chẳng kết luận hồ đồ. Hoặc nếu không hồ đồ thì cũng thiếu tang chứng cụ thể. Đời xưa đã có câu: “Nói có sách, mách có chứng”. Cháu không nhớ sao?
Tôi sực nhớ lại việc chị Bội từ chối hoàn toàn sự thực và cảm thấy ông già nói đúng. Nói có sách, mách có chứng... Quả là chúng tôi đã quá ngây thơ, hấp tấp trong việc báo cáo lại những hành vi thiếu đứng đắn của ông Gia.
Ông già nói tiếp:
- Muốn được việc, tất cả điều kiện phải chín mùi. Như ông, thì cháu nên nói rõ chuyện với mẹ, với thầy chủ nhiệm, với người nào đó sáng suốt, công bằng và quan trọng hơn cả là có đủ tư cách và quyền lực giải quyết.
- Nhưng mà ông ấy trù úm cháu, hành hạ cháu ác độc lắm – tôi kêu lên.
- Ông biết chứ - Ông già nhẹ nhàng, trầm tĩnh trả lời – Nhưng dù sao cháu cũng phải cắn răng chịu đựng cho mọi sự sáng tỏ. Trong đời, đôi khi rủi ro ta gặp phải những kẻ xấu, kẻ ác. Nếu ta hấp tấp chống trả lại, không đắn đo suy nghĩ thì hỏng việc. Kẻ xấu không bị phơi áo mà chính ta sẽ thiệt thân. Ví như hoàn cảnh của cháu vậy, cháu bị đuổi học, còn ông giáo hư hỏng kia thì lại trắng án...
- Đời toàn những bất công – tôi kêu lên lần thứ hai, tức tối.
Ông già lại nhè nhẹ vuốt tóc tôi, cười:
- Đừng vung tay lên thế, va vào đầu ông thì ông đau lắm. Ông già rồi, không chịu được đòn như cháu đâu. Này cô bé ngoan ngoãn ơi, cháu đang buồn nhưng đừng vội bi quan. Đời có bất công chứ không hoàn toàn bất công như cháu nói. Mẹ cháu có thương yêu cháu hết lòng không? Có thể mẹ cháu chỉ quen nghĩ một cách đơn giản và không lường hết những phức tạp của cuộc đời nên đã không tìm được cách cư xử đúng với cháu trong lúc này và khiến cháu bỏ nhà ra đi... Nhưng mẹ cháu vẫn là người tốt. Thầy chủ nhiệm của cháu thì tuyệt diệu. Đúng không? Còn cậu bé có ông bố nát rượu đó, tên là gì nhỉ? À Ly, Ly... một cái tên đẹp như tên con gái. Nó cao thượng đấy chứ? Và còn mẹ con chú bé đánh cá ở làng này nữa... Biết bao người! Vì những người đó mà cuộc đời này tươi đẹp và đáng sống biết bao. Cháu đừng mong trên trái đất chỉ toàn những người tốt. Cái xấu đi kèm cái tốt như bóng đêm đi bên ánh sáng. Không có đêm, sao ta phân biệt được ngày? Kẻ xấu, kẻ ác bao giờ cũng tồn tại trong xã hội, và người tốt phải đấu tranh với chúng... Vả lại, cái xấu ngày nay đâu có thấm tháp gì! Cháu cứ tưởng xem, tên giáo viên đồi bại kia lại là một thằng mắt xanh mũi lõ. Nó có thể hãm hiếp mẹ cháu, đốt nhà cháu...
- Thà như thế để cháu đi làm cách mạng giết chết nó còn hơn... Chứ như thế này tức lắm... – tôi ấm ức nói.
- Cha cha cha... – ông già cười to – Đừng nói tầm bậy. Không có thù hận nào mãnh liệt và thiêng liêng hơn thù hận của dân tộc bị cướp đoạt tự do. Nỗi oan ức bây giờ của cháu chỉ là cái gai đâm sầy tí da chân thôi. Phải dũng cảm vượt lên, cô bé ơi. Phải nghĩ tới tương lai.
- Chẳng có tương lai nào hết... – tôi nói – Bà hiệu trưởng đã gửi thông báo kỷ luật cháu khắp các trường cấp ba trong tỉnh. Cháu biết đi đâu bây giờ? Thế là chấm hết.
- Chấm hết. – ông già nhắc lại câu nói với vẻ diễu cơt thân ái – năm mười bảy, sống dưới ngọn roi của pô-lít Pháp, ông vẫn thấy cuộc đời bắt đầu chứ không phải là chấm hết...
- Nhưng cháu biết làm gì bây giờ? Chẳng lẽ cháu lại đi bán kem lấy tiền lời hay ra chợ xếp hàng bán năm xu một chỗ...
Tôi định nói đùa nhưng miệng lại méo xệch và nước mắt cứ tự tuôn ra ào ào không thể nào ghìm được.
Ông già lặng im giây lát, rồi lại vuốt tóc tôi:
- Đừng mưa rào nữa mà! Trời đã tạnh ráo từ lâu rồi... Cô bé ơi, nín đi rồi ông kể cho mà nghe. Hồi trước ông đọc một cuốn truyện bằng tiếng Pháp, nhan đề Pa-pi-ông, nghĩa là con bướm. Con bướm là biệt hiệu của một người tù. Và cuốn truyện đó thuật lại cuộc đời của anh ta. Con bướm vốn là một thanh niên lương thiện bị kết tội oan. Cuộc sống tù tội khiến anh ta trở nên một người gan góc, lỳ lợm, có khả năng làm những việc ghê gớm như bắt cá sấu, giết kẻ mưu phản dễ như trở bàn tay, tổ chức những cuộc vượt ngục mạo hiểm và đẫm máu... Con bướm trốn trại nhiều lần. Lần nào cũng bị bắt và đầy đọa khổ sở hơn, anh ta bị nhốt dưới hầm cấm cố, quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời. Phải ăn cả những con gián, con rết sống để sống. Anh ta đã từng lạc tới đảo của những người hủi bị chìm trong đầm lầy, bị vùi dập trong những cơn giông tố... Mặc những đầy ải khủng khiếp đó, ý chí tự do của người tù không lùi bước. Cuối cùng, khi tất cả bạn bè đầu hàng, yên phận cuộc sống trong trại gian, con bướm đã vượt biển trên một chiếc bè làm bằng những quả dừa khô và đi tới châu Mỹ. Lúc đó, anh ta đã già, tóc trắng như sương. Pa-pi-ông viết cuốn truyện tư thuật cuộc đời mình và trở thành một nhà văn lẫy lừng của thế giới. Chính phủ Pháp, cái chính phủ bỏ tù oan Pa-pi-ông tại đảo Guy Am đã phải mời anh trở về thăm tổ quốc, không phải với danh hiệu một tù nhân, mà với danh hiệu một nhà văn được hâm mộ...
Thấy tôi há hốc miệng nghe, ông già cười:
- Thế nào?
Tôi thẹn thùng cúi xuống.
Ông già chăn vịt hỏi tiếp:
- Cháu đã đọc Goóc Ki chưa?
Tôi đáp:
- Cháu mới đọc “Bài ca chim báo bão” trong văn tuyển lớp chín.
Ông già hỏi:
- Còn quyển “Thời thơ ấu” và “Trường đại học của tôi”?
Tôi thẹn thùng thú nhận:
- Chưa ạ.
Ông già lắc đầu:
- Thật đáng tiếc. Đọc những tác phẩm đó, cháu sẽ hiểu được nhiều điều. Goóc Ki tiếng Nga có nghĩa là cay đắng. Ông là đứa trẻ mồ côi, phải lang thang kiếm sống từ thời thơ ấu. Ông đã từng đọc sách bằng ánh trăng phản chiếu lên một chiếc xoong nhôm, chứ không phải dưới ánh đền một trăm nến như cháu ở nhà – nói tới đây, ông nhìn tôi cười giễu cợt – Goóc Ki đã từng làm đủ mọi nghề, sống với những kẻ mà người ta quen gọi là lớp người đáy của xã hội. Các trường đại học của ông chính là khuôn hình của cuộc đời rộng lớn và đau khổ ở nước Nga xưa. Đi qua cuộc đời ấy, ông vẫn giữ được tấm lòng nhân ái, cao thượng của mình. Ông trở thành môt nhà văn được nhân loại yêu quý.
Tôi im lặng. Ông già lại nhìn vào mắt tôi:
- Chắc chắn rằng Goóc Ki không bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, dù ông đói khát hay đau khổ.
Ngừng lại giây phút, ông hạ giọng nói khẽ khàng:
- Đừng bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, ngay cả khi người ta đã già rồi.
Dứt câu, ông trầm ngâm nhìn ra phía trước. Tôi im lặng ngồi bên ông. Tôi biết ông đang theo đuổi những ý nghĩ rất riêng biệt và tôi không muốn khuấy động giây phút trầm tư đó. Những câu chuyện ông vừa kể còn xáo động tâm tư tôi.Chúng khơi mở một thế giới hùng vĩ và lấp lánh. Có lẽ từ khi tôi lớn tới giờ, chưa người nào làm được công việc thiêng liêng đó. Ông già thổi vào tôi một ngọn lửa kỳ diệu, khiến tôi bỗng thấy mình khôn lớn vượt bậc, nhìn cuộc sống với cặp mắt trong sáng, tự tin và bình tĩnh trước mọi gian nguy. Nỗi đau khổ tôi đang chịu bỗng trở nên nhỏ bé, tầm thường. “Ít ra mình cũng phải vượt qua những tai ương và nguy biến dữ dội gấp năm lần như thế...” – tôi nghĩ vậy mà yên tâm. Dẫu sao tôi cũng phải đứng lên đi tiếp tới mục tiêu của đời mình.
Mặt trời lên cao. Ánh nắng ngả sang màu trắng. Cánh đồng xanh mênh mông yên lặng. Chỉ còn nghe gió rì rào. Xa xa, nơi đồng lúa tiếp giáp với chân trời, những gợn mây trắng mỏng từ từ bay lên cao như những con cừu rong ruổi qua thảo nguyên vô tận của thinh không. Tôi bỗng nảy ra ý muốn ôm chúng trong vòng tay, những con cừu nhẹ như bông , trắng như sữa và hẳn là mát lạnh. Vài đốm nắng lọt qua tàn lá gạo rọi xuống gáy tôi nóng ấm. Tôi chợt nhớ ra là đã trưa và có thể là Cau đã về nhà. Tôi đứng dậy:
- Thưa ông, cháu xin phép ông.
Ông chăn vịt như choàng dậy. Ông nhìn tôi rồi nói:
- Cháu về làng hả?... Thôi được cứ về đi...
Tôi cúi chào ông, định quay lưng bước đi. Ông già vội vã gọi:
- Này cô bé...
Tôi nhìn ông:
- Ông bảo gì cháu ạ?
- Có mỗi việc quan trọng nhất thì lại quên – ông nói, lục túi áo lấy ra một chiếc bút máy hoàn toàn bằng vàng tây, nhỏ như điếu thuốc lá – cháu cho ông ghi tên tuổi của cháu, mẹ cháu và số nhà cháu ở, tên trường và lớp cháu học, cả thầy chủ nhiệm nữa. Ông sẽ cố gắng hết sức mình...
Ông nghe tôi đọc và ghi trên bao thuốc lá những dòng chữ nhỏ li ti. Xong, ông cất chiếc bút sang trọng và bao thuốc váo túi chiếc áo cổ lỗ có ba mươi hai đường gian khổ:
- Dũng cảm lên, cô bé nhé... Ông hy vọng ông cháu ta sẽ còn được gặp nhau. Nhất định sẽ gặp nhau, trong một hoàn cảnh thú vị hơn bây giờ. Người ta nói trái đất tròn mà... Có đúng không?
Tôi không biết trả lời sao, đành ấp úng:
- Thưa ông, cháu cảm ơn ông... Cháu chào ông ...
Ông già giơ bàn tay nhỏ bé , nhăn nheo và nổi những vệt đồi mồi:
- Ông chào cháu. Chúc cô bé gặp may mắn trong cuộc đời. Hãy nhớ những lời ông nói. Nó không thú vị như trò chơi nhưng rất có ích cho cháu, ngay cả khi cháu đã lớn rồi...
Ông đứng dậy, bắt tay tôi như bắt tay một người bạn thật sự. Khi tôi ra về, ông trở lại chỗ ngồi. Hết con đường bờ mương vào đến làng, tôi còn thấy bóng ông dưới gốc cây gạo hùng vĩ. Nhỏ bé và uy nghi, mái tóc trắng như cước bay phơ phất,ông đúng là ông già tốt bụng từ trong cánh rừng của nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn đi lạc tới đây.

No comments:

Post a Comment