Chương 1
Năm ấy tôi mười hai tuổi. Tôi ở
thị trấn Rêu với mẹ tôi. Thị trấn này gồm vài ba dãy phố cũ, toàn những ngôi
nhà lợp ngói, hiên rộng, cột gỗ đen bóng, cây ăn quả và những bức tường phân
cách thấp lè tè, rêu loang từng đám. Bên kia đường xe lửa, có thêm một dãy phố
mới, gồm những ngôi nhà cất trên rẻo đất hoang và nền gạch vỡ tiêu thổ kháng
chiến chống Pháp. Nhà ở đây thường hai tầng, lớn nhỏ lô nhô, bao lơn có song sắt
hoa đủ kiểu. Dân phố mới phần lớn là thương nhân. Cửa hàng của họ bán đủ thứ vải
sồi, mắm muối, gạo bột, tạp hóa khác… Sát đường ray, ở giữa khu phố cũ và dãy
phố mới, có một khoảng đất trống. Chợ họp ở đó. Trước cửa chợ trồng cây cột gỗ
treo một dải lụa hồng. Hàng năm, trước ngày Tết ông Táo, người coi chợ gỡ mảnh
lụa đã bợt màu vì mưa qua gió lại, thay vào đó mộtdải lụa mới tinh khôi, màu hồng
thắm. Dân cư trong thị trấn nhìn về phía chợ, lòng hoan hỉ vì thấy dấu hiệu phồn
vinh của năm tới.
Ga xe lửa ở ngay gần chợ. Ngày
ngày, những chuyến tàu xuôi ngược lướt qua đám dân ồn ào mua bán. Người trên
tàu thò cổ ra cửa nhìn xuống chợ. Và dân trong chợ nghếch mắt nhìn con rắn kỳ dị
bằng sắt trường đi trên đường ray, vừa đi vừa thở phì phò tuôn về phía sau những
luồng hơi trắng như muối.
Phía trên thị trấn chừng nửa
cây số có một dòng sông nhỏ. Chúng tôi goi nó là dòng sông Xanh, vì nước sông
xanh như thể pha màu lá non. Thuyền qua lại luôn luôn, buồm giương lên như cánh
bướm. Đôi khi, gió lặng, người chủ thuyền phải nhảy xuống lội bộ, kéo bằng dây
chão tròng qua vai. Những đứa con nhỏ ở khoang giương mắt thao láo nhìn. Và bất
chợt, người kéo thuyền cất lên giọng hát trầm trầm, có nhiều chỗ láy. Dòng sông
Xanh ấy có hai gò đất lớn, chúng tôi gọi là đảo Hoa Vàng vì chúng mọc đầy cây
duối. Quả duối chín vàng như kén tằm rắc kín các lùm cây, trông như ai rắc những
lớp bụi kim nhũ lên đó. Đảo Hoa Vàng là nơi cất giấu kho tàng bí mật của chúng
tôi. Trên đảo có miếu thờ Ngũ hổ, tuy đã sụt lở nhưng vẫn đủ che cho một người
ngủ qua đêm. Những ngày dân trong thị xã ra đảo cúng Ngũ hổ, mùi hương thơm lan
khắp mặt sông. Tưởng như những cây duối vàng rực rỡ kia tỏ hương chứ không phải
những bát nhang trong ngôi miếu thờ nhỏ cũ kỹ.
Dạo đó là mùa xuân. Bánh chưng
Tết đã hết, nhưng bánh gói rằm tháng riêng còn xếp đầy trong những chiếc thúng
con ở bếp mọi nhà. Chợ phố họp thật đông. Vào dịp này, những người bán kẹo rong
chuyên thổi con tò te bằng đường cô đặc hoặc nặn con giống bằng bột nếp nhuộm
phẩm đểu tới chợ để kiếm cách moi tiền trong túi đám khách đi hội, lễ chùa ghé
qua thị trấn lại đến cửa chợ. Một cỗ xe ngựa mui khum đứng ngay trên bãi đất trống.
Con ngựa già lông hung vục mõm vào giỏ vừa nhai cỏ vừa rùng mình đuổi nhặng.
đám lông nơi khuỷu chân trắng phếch bụi đường. Gần đó, khoảng đất lầm bụi cát
đã được khoanh lại bới những sợi thừng chăng qua bốn cây cọc. Chủ gánh xiếc, một
người đàn ông thấp lùn, nhỏ bé, cái đầu phình ra một cách dị thường, da đen sạm,
mắt long lanh, đang biểu diễn trò nuốt lửa, xiên linh, nhào lộn trên dây. Sau
đó, ông ta tự bịt mắt bằng một tấm vải đen rồ iphóng dao lên tấm bảng bằng gỗ.
những con dao nhọn cắm phầm phập trên tấm gỗ mềm. đứng áp lưng vào tấm bảng, vợ
người chủ gánh xiếc dang hai tay, ngẩng cao đầu với vẻ gan góc và hùng dũng hiếm
có. Đen trũi, dữ tợn, to béo như hộ pháp, người đàn bà đó khiến chúng tôi vừa
kính nể vừa khiếp sợ. Bà ta dương mắt nhìn những ánh thép đang loang loáng lao
tới một cách bình thản, trong khi chúng tôi thét lên vì hoảng sợ, tim nhảy
trong lồng ngực thình thình. Hết trò ném dao, người đàn ông gỡ mảnh vải chào
đám đông với vẻ khiêm nhường. Đoạn ông ta quay lại phía sau, giơ tay vẫy vẫy.
Khi bàn tay ông hạ xuống, hai con khỉ đèo nhau bằng xe đạp tiến ra. Cả hai con
đều mặc quần đùi đỏ viền đen, áo may ô vàng và đội mũ cát-két đen. Con trước
lái, con sau đứng vịn vào vai bạn. Hết một đợt chừng mười vòng, con khỉ đứng
sau nhẩy xuống xe, giật mũ chào người xem và xin tiền. Con kia ngồi trên xe,
gác chân lên ghi-đông vênh váo. Khi mũ đã đầy tiền giấy và xu, con khỉ chạy lại
đưa cho chủ gánh xiếc. Ông cất tiền vào túi bên trái, móc túi bên phải ra một nắm
hạt dẻ hoặc vài trái chuối chín thưởng cho hai con vật. rồi ông ta cúi thấp đầu
cảm tạ người xem và lui lại phía sau, chuẩn bị đợt diễn tiếp.
Ngày thứ hai tới thị trấn, gánh
xiếc đã diễn năm lần mà người xem vẫn còn đông. Trong đám khán giả xúm xít bên
ngoài vòng vây bỗn xuất hiện một người đàn ông lạ mặt. dân thị trấn, dân các
làng phụ cận, khách vãng lai xem hội và lễ chùa không ai lạ lùng như vậy. Người
mới tới bận quần áo đen giống y phục của người Nùng. Áo vạt dài, khuy tết, quần
ống rộng. Bên hông đeo chiếc túi vải như mấy ông già Tàu bán thuốc bắc và cao hổ
ngày phiên chợ. Mũ đội đầu bằng da bò cáu bẩn. bộ mặt dài, nhiều vết rỗ ở chân
lông. Đôi tay to lớn, ửng đỏ, chắc hẳn là rất cứng rắn đặt lên vành mũ che nắng
một cách vụng về. Cặp mắt sáng quắc ẩn dưới hai hàng mày rậm đen như than. Người
đàn ông lạ đứng ở vòng ngoài cùng, sau lưng những người khác. Ít ai chú ý tới
ông ta vì mải xem đôi khỉ đang trêu cợt, cắn nhau chí chóe. Người lạ không xem
xiếc. Đôi mắt sáng quắc của ông ta sục sạo khắp đám trẻ thị trấn đang chen chúc
nhau đứng sát vòng dây thừng. Khoảng cổ hở ngoài áo đỏ rực, cục yết hầu nhảy
lên tụt xuống như trái nhót. Người khách lạ chăm chú nhìn hồi lâu, rồi tự dưng
biến mất.
Chiều tối, vợ chồng người làm
xiếc nhổ cọc, cuốn thừng gấp vải phông và thu dọn đồ vật cho lên xe. Họ nhốt hai
con khỉ vào chuồng. Rồi con ngựa được tròng vào ách. Giỏ cỏ gác phía sau giàn
khung. Chiếc xe lên đường. Lũ chúng tôi chạy theo xe, sục vào đám bụi nồng mùi
mồ hôi ngựa. Tới khi chiếc xe đã khuất hẳn sau khúc đường vòng, tôi mới quay về.
Phố đã lên đèn. Trước cửa đồn công an thị trấn, một đám đông đứng lô nhô. Tôi
nghe tiếng xì xào, ồn ã:
- Đứa bé mất tích rồi!... Khốn
khổ…
- Sao? Đứa nào mất tích?
- Con lão cai Cân.
- Đứa nào?
- Cái thằng bé nhất, tôi cũng
chẳng biết tên.
- À, thằng Dũng còm. Thằng bé lẻo
khoẻo, đen thủi, đen thui chứ gì?
- Có lẽ đúng đấy.
- Thằng ấy là đứa ngoan nhất
trong đám con nhà cai Cân. Mất thằng bé thì bố nó điên lên mất.
- Ờ… Nhưng cũng chưa chắc. Cai
Cân chỉ điên lên khi mất tiền thôi.
- Trời ơi, bà này độc miệng quá.
- À, để rồi mà xem…
Trên thềm, một trung úy cảnh
sát bước ra:
- Mời bà con về. Tình hình ra
sao, chúng tôi sẽ thông báo sau.
Nhưng đám người xem vấn đứng
túm tụm, thì thầm bàn tán. Họ muốn xem mặt cai Cân. Họ vốn không mấy cảm tình với
ông ta nhưng tò mò muốn biết thái độ của ông ta trong hoàn cảnh đau khổ này.
Người nào cũng chuẩn bị sẵn một lời an ủi. Nhưng kìa, cai Cân đã từ căn phòng lớn
của đồn công an bước ra. Mặt ông ta lạnh như tiền. Hai gò má nhẵn, râu cạo trơn
tru, vầng trán bóng như xoa mỡ, cặp mắt nhìn bình thản, ông bố đứa bé mất tích
bước xuống thềm. giơ một cánh tay lên:
- Các ông các bà tốt phúc sinh
con ngoan. Tôi vô phúc đẻ ra đứa chẳng ra gì. Nó bỏ nhà trốn đi lêu lổng mất rồi.
Thật không ngờ nó hư đốn thế…
Dân thị trấn chưa kịp nói một lời
chia buồn, cai Cân đã vùn vụt đi về. Bóng ông ta khuất dưới bóng dẫy bàng cổ thụ.
Không ai nhìn thấy ông ta đang nhếch mép cười. một nụ cười bí hiểm, khinh mạn
và tàn ác.
Chương 2
Dũng còm bị mất tích không hiểu
vì lý do gì. Dân thị trấn đoán rằng nó không muốn ở với ông bố keo kiệt và độc
ác nên bỏ đi theo gánh xiếc. Bằng cớ là đứa bé mất cùng với chiếc xe mui khum
cũ kỹ kia. Hẳn là người chủ gánh xiếc đã giấu nó trong cái thùng xe ọp ẹp được
che bằng tấm vải sơn loang lổ những hình vẽ. Bà vợ to béo của ông ta đủ sức giấu
hai đứa trẻ sau lưng… Cũng có người đoán Dũng còn bị mẹ mìn bắt đem bán. Điều
này được các bà mẹ chúng tôi tin ngay. Và ngày nào cũng vậy, các bà mẹ răn đe
chúng tôi rằng: mẹ mìn không chỉ bắt trẻ con, lớn hơn chúng mày nó cũng bắt được.
nó cho ngửi thuốc mê rồi dẫn lên núi. Con gái mười ba tuổi bán cho người Mèo
làm vợ. Con trai mười ba tuổi bắt mang thuốc phiện lậu sang bên Tàu… Kèm theo lời
dọa dẫm đó là một chế độ kiểm soát gắt gao. Thậm chí, có bà còn mua cả xích chó
về xích con vào cột nhà. Ba tuần lễ liền tôi không được đi chơi đâu ngoài buổi
học. Kể ra điều đó cũng có thể chịu được, nếu những cơn mưa đầu xuân không rơi
xuống. Ồ, các bạn có nhớ những cơn mưa này không nhỉ? Chúng đẹp như không phải
mưa mà như bạc ròng tuôn chảy. phố xá lấp lánh những sợi tơ dài, reo lanh tanh
và nhảy nhót trong ánh mặt trời chiếu rọi. Mưa thật đẹp nhưng lòng chúng tôi đầy
lo phiền. Bạn biết đấy, gia tài riêng của tôi và Loan hạt mít chôn ở đảo Hoa
Vàng giữa dòng sông Xanh. Dưới gò đất giữa đảo cách cây duối còng một thước có
một chiếc thùng nhôm. Trong thùng, tôi và Loan cất chiếc hộp đựng bánh quy.
Trong hộp có một tập tiền mừng tuổi. Toàn những tờ giấy bạc mới cứng, cọ lên mặt
còn kêu sột soạt. Tờ nào tờ nấy mát rượi và bốc mùi thơm phức. Ngoài xấp tiền
giấy còn một đống tiền hào. Hào nào cũng sáng trắng như bạc, chưa hề bị xây sát
hoặc hoen ố một li. Chiếc hộp đựng bánh quy đó là nửa phần kho tàng của hai đứa
tôi. Nửa phần kia gồm có một pho tượng vũ nữ bằng bạc đúc của bà ngoại Loan hạt
mít cho, một xấp vải vụn các màu có thể may hàng chục bộ váy áo cho búp bê, một
gói lớn hạt dưa hấu phơi khô. Những thứ này chúng tôi mới gói tạm bằng lượt giấy
dầu, định sẽ kiếm tấm vải đi mưa bọc thêm bên ngoài cho khỏi thấm hơi đất. Chưa
kịp làm thì xảy ra vụ Dũng còm mất tích và do đó chúng tôi bị trói chân ở nhà
như những con chuột bạch bị nhốt trong lồng. Trời mưa thế này, vải có thể bị ẩm
mục, hạt dưa sẽ thối. chưa kể tới hơn ba trăm củ khoai nghệ vùi bên cạnh gò sẽ
lần lượt nảy mầm và thế là đi đứt...
Buổi chiều, tôi đã học hết những
bài học cho cả tuần, làm hết lô bài tập toán, lý. Tôi ngồi nhìn hai cánh cửa
đóng im ỉm. bên ngoài, mẹ tôi đã khóa một ổ khóa đồng đóng im ỉm. Qua khung cửa
sổ, khoảng trời xanh chan hòa ánh nắng hiện lên. Cành ổi đu đưa, mấy quả ổi
trái mùa chín trắng ngà. Lũ chim liêu điêu vừa nhảy vừa hót như trêu chọc đứa
bé bị giam lỏng trong nhà. Tôi định ném cho chúng một hòn sỏi nhưng nghĩ thương
tình nên lại thôi. Đúng lúc đó, gương mặt bầu bĩnh của Loan hiện lên ngoài cửa
sổ:
- Bê.
Loan gọi tôi, miệng cười tươi tắn.
- Loan, sao đằng ấy đến đây được?
Tôi mừng rỡ lao tới khung cửa sổ.
Hai gương mặt chúng tôi áp vào nhau. Loan trả lời:
- Tớ nhận đi xếp hàng mua thịt
phiếu là được bay khỏi nhà ngay.
Nói xong, Loan chìa cho tôi xem
chiếc rổ con đựng thịt lợn với dừa cùi và rau cải. Tôi thở dài:
- Mưa to qua, kho tàng ngoài đảo
nguy mất.
Loan gật đầu:
- Tớ cũng lo ngay ngáy. Vải nhựa
xin được rồi mà không có cách nào chuồn được… Nhưng tối nay tụi mình sẽ bay.
Tôi hỏi:
- Sao cơ?
Loan thì thầm:
- Tối nay câu lạc bộ thanh niên
có biểu diễn văn nghệ. Hai đứa mình xin phép đi xem rồi trốn ra sông lấy thuyền
bà An Lạc bơi ra đảo. Tuyệt chưa?
Tôi ậm ừ
- Nhưng ai lại đi nói dối mẹ…
Xưa nay, tôi chưa hề nói dối mẹ
lần nào. Bố tôi ở một đồn biên phòng xa tít tắp nơi phương bắc. Vài ba năm bố mới
về phép một lần. Nhà chỉ có hai mẹ con. Vì thế, mẹ tôi là tất cả quyền uy, tình
thương mến, niềm an ủi và hy vọng. Mẹ tôi vẫn dạy tôi dối trá là tật xấu nhất
trên đời… Không lẽ bây giờ tôi lại nói dối mẹ? Nhưng nếu tôi nói thật, mẹ chẳng
bao giờ cho tôi đi và kho tàng trên đảo sẽ tiêu ma… Lạy trời, một lần thôi, chỉ
một lần này thôi…
Tôi nghĩ bụng và gật đầu bảo
Loan:
- Thôi được, cũng đành vậy.
Loan thở phào sau một lát im lặng
chờ đợi. Rồi nó nhanh nhẹn hỏi tôi:
- Sáu giờ rưỡi nhé?
Tôi đáp:
- Sáu giờ. Đi sớm một chút.
Loan nói:
- Đúng hẹn nhé. Tớ về đây.
Cô hạt mít biến mất.
Chiều, ăn cơm xong, tôi xin
phép mẹ ra câu lạc bộ nghe ca nhạc. Mẹ tôi không nghi ngờ chút nào, bằng lòng
ngay. Tôi cảm thấy mặt tôi nóng ran lên như hơ lửa khi mẹ tôi cúi đầu bình thản
trên chồng vở của học sinh, nhúng cây bút sắt vào lọ mực đỏ chấm bài.
“Con xin lỗi mẹ, chỉ lần này
thôi…”
Tôi thầm nói tỏng lòng rồi vội
vã bước ra phố. Đi giữa dòng người tấp nập, ồn ào, tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Loan
hạt mít đã đứng chờ tôi dưới gốc cây phượng ở ngã ba đầu thị trấn:
- Mau lên, hết trăng bây giờ.
Lúc ấy, trăng thượng tuần lơ lửng
như mảnh ngọc lam treo trên trời. chúng tôi đi hối hả. Hết rặng đèn đầu thị trấn,
chỉ còn ánh trăng mờ nhạt trải trên dải đường xám, trên những mảnh ruộng và những
đám đất trộng xung quanh. Tới bờ sông, mồ hôi đã ướt dính trong lưng áo.
Loan thì thào:
- Trống ngực tớ đánh khiếp quá,
đằng ấy có thế không?
Tôi đáp rắn rỏi:
- Không.
Kỳ thực, tim tôi cũng đang nhảy
thon thót vì hồi hộp. Chưa bao giờ chúng tôi ra đảo lúc đêm tối như hôm nay.
Trước khi xảy ra vụ mất tích Dũng còm, chẳng ai giam cầm chúng tôi và vì thế
vài ba ngày một lần, chúng tôi thong thả ra sông, gỡ thuyền bơi ra đảo. vừa
bơi, vừa ngắm cảnh mặt trời rực rỡ chiếu trên làn nước biếc và những cánh buồm
thấp thoáng gần xa.
Bây giờ, dòng nước trôi dưới
ánh trăng mờ trông bàng bạc, xam xám như một con trăn kỳ quái. Những bụi cây nhỏ
ven bờ nước, ban ngày nhìn rất xinh tươi lại giống những con thú đang vờ vịt ngủ,
chờ cơ hội nhảy chồm lên vồ mồi. thỉnh thoảng một con chim đêm bay qua buông tiếng
kêu:
- Két ét ét ét….
Loan níu chặt tay tôi, gọi giật
giọng:
- Bê.
- Gì thế?
- Có đi nữa không?
- Sao lại không?
Tôi gằn giọng đáp, hất tay cô bạn
ra. Loan hạt mít cắm cúi bước, không dám hỏi thêm câu nào.
Mép nước đã sát dưới chân. Tôi
định hướng tìm cây cọc buộc thuyền. Đây rồi. Chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cột
vào cọc bằng một dây xích lớn. gió đánh khiến sợi dây xích đập xoang xoảng. Những
gợn nước vỡ dưới mạn thuyền giống đàn rắn con đang bò. Có tiếng huýt gió vang
lên phía bờ kia nghe rờn rợn. Tôi lạnh cả gáy. Lúc đi chỉ hăm hở nghĩ tới lúc mở
hộp tiền thơm phức ra ngắm, không nghĩ tới cảnh dòng sông đêm tối tăm ghê rợn
thế này. Nhưng không lẽ quay lại?... Thứ nhất, mất toi buổi tối. Thứ hai, Loan
hạt mít cũng sẽ cho tôi là thứ thỏ nhút nhát như nó. Nghĩ vậy, tôi mím môi nhảy
ào xuống thuyền. Bàn chân bị động mạnh, đau nhói. Tôi vớ vội cọc chèo. Lần này,
cọc chèo lại đập vào chân tôi một cú đau hơn. Loan hạt mít vừa nhảy theo tôi, bật
lên rên rỉ:
- Đằng ấy ơi, về đi, tớ sợ lắm.
Tôi đang tức giận vì đau, quay
lại quát to:
- Sao hèn thế? Vì mình mà người
ta phải nói dối mẹ, đi ra đây… Giờ lại đòi về… Không biết xấu hổ hay sao?
Hạt mít lặng im. Có lẽ hai cái
mép nhỏ hênh hếch của nó đang mếu xệch trong bóng tối. tôi thương hại cô bạn,
nhưng vẫn lầm lỳ làm mặt giận đập mái chèo bồm bộp xuống nước. Tiếng chèo đập
nước khiến tôi trở lại bình tĩnh. Con thuyền đã lìa bờ mỗi lúc một ra xa. Tới
giữa dòng, nhìn những gợn nước loang loáng trôi dưới mạn thuyền, tôi bỗng nảy
ra ý nghĩ: Nhỡ Loan ngã xuống sông thì sao? Và nỗi lo ập đến khiến tôi lạnh toát
cả người. Quãng sông này nhiều vực, người ta đồn là lắm ma nam. Tháng sáu năm
trước có hai chị em cô bé làng bên chết đuối. Năm kia, một ông lão gù ngớ ngẩn
xuống sông tắm buổi trưa, đột nhiên kêu ú ớ từng tràng rồi cũng chìm nghỉm
luôn. Lâu hơn nữa, thời mẹ tôi còn nhỏ, cũng đã có một cô gái xinh đẹp nhảy xuống
sông tự vẫn vì bị ép duyên. Nhớ tới những chuyện đó, tôi sởn gai ốc. Tuy nhiên,
tôi không thể lộ cho Loan biết những ý nghĩ của mình. Tôi cố gắng chèo đều đặn.
Loan hạt mít ngồi thụp sâu trong lòng thuyền , tay níu mạn thuyền, tay bám chặt
chân tôi. Con thuyền trôi và dần dần dải bờ bên kia đã hiện ra dưới ánh trăng
non.
- Kíu íu íu íu… ít ít ít…
Một tiếng kêu rất lớn, thảng thốt,
đột nhiên ré lên xé màng nhĩ chúng tôi. Một hơi gió lạnh đột ngột phả mùi hôi lạ
vào mặt. Kèm theo hơi gió là một khối đen vụt qua. Loan rú một tiếng, giật mạnh
quần tôi. Tôi loạng choạng suýt ngã khiến con thuyền tròng trành muốn lật. phải
gắng hết sức, tôi mới giữ cho thuyền thăng bằng trở lại. Định thần rồi, tôi mới
thấy cái khối đen vừa vụt qua mặt chính là một con chim lớn. Chính nó cất tiếng
kêu ghê rợn và phả ra mùi hôi hăng hắc. Đó là một con lênh đênh. Loài chim này
tôi vẫn nghe những người bắn chim nói tới. Nó là loài chim lớn nhất vùng đồng bằng.
Mỗi con nặng tới hàng chục cân. Thịt nó dai, không ngon nhưng nhiều và nạc. Nó
thường nổi lềnh bềnh trên mặt nước như con thuyền không chèo lá. Người săn chim
thường ngậm hơi lặn dưới nước, đầu đội cụm bèo Nhật Bản hay chiếc lá môn, lặng
lẽ đi tới gần rồi lừa miếng túm đôi chân con vật. Còn bây giờ nó làm chúng tôi
tắc thở vì sợ. Con chim vẫn đập đôi cánh nặng nề, vừa bay vừa tiếp tục buông tiếng
kêu khàn khàn hoảng hốt. Tiếng chim kêu vang trên mặt nước, khuấy động trời
đêm. Tôi bảo Loan:
- Con lênh đênh đấy, sợ gì…
Loan không đáp, thở dốc từng hồi.
Con lênh đênh đã bay xa. Tôi đập mái chèo thật mạnh để xua nỗi sợ hãi…
Chừng hai chục mái chèo nữa,
chúng tôi tới đảo Hoa Vàng. Tôi neo thuyền rồi đi tới gò đất chôn kho tàng. Nỗi
sợ hãi tan biến. chúng tôi vui vẻ hẳn lên. Loan tong tả bước, miệng hát ư ử.
Tôi bảo:
- Giá ban ngày, thế nào mình
cũng hái được nửa đấu quả duối chín.
Gò đất chôn của cải của chúng
tôi đã sụt một góc sau mấy trận mưa. Hòn đá chôn làm dấu lăn xuống chân gò. Tôi
nhìn quanh, đêm vắng lặng, không một bóng người. Trăng thượng tuần xanh như lá
non đã ngả lên những ngọn tre đen thẫm làng bên. Tôi bảo Loan:
- Canh gác nhé.
Rồi tôi quỳ xuống, rút cây xà
beng cụt giấu trong bụi duối cạnh gò bẳt đầu đào. Non nửa thước đất là tới cái
thùng nhôm. Tôi mở nắp thùng thật khó nhọc vì rỉ sắt đã cắn chặt lại. May sao,
hộp đựng tiền bên trong vẫn còn nguyên. Chúng tôi ghé mắt nhìn những đồng hào
sáng trắng và ngửi mùi xấp tiền mừng tuổi còn thơm phức một cách thú vị. Sau đó
tôi đậy hộp, quấn hai lớp vải sơn rồi mở gói đựng vải vụn với pho tượng bạc ra
xem. Chợt Loan kêu lên:
- Có người kìa.
Tôi quay lại. quả tình sau lưng
chúng tôi hiện lên một bóng đen. Cái bóng nhỏ bé đó đi dọc theo mép nước lúc mờ
lúc tỏ. Nghe tiếng hét của Loan, nó sựng lại như cái cọc, rồi cứ như vậy, đứng
trơ trơ. Loan đã run rẩy. Hơi thở nóng hổi của nó phả vào vai tôi. Tôi bảo Loan:
- Không phải là trộm. Nếu là trộm,
nghe kêu nó đã chạy.
Loan thì thào:
- Hay là ma?
Tôi bảo bạn:
- Đừng sợ. Để tớ ra xem. Đằng ấy
cứ bọc lại gói vải cho cẩn thận rồi bỏ vào thùng.
Nói xong, tôi tiến về phía bóng
đen kia. Vừa đi tôi vừa bẻ một cành duối vung vẩy. Bà ngoại tôi vẫn bảo: ma quỷ
sợ nước tiểu và roi dâu. Không có roi dâu, tôi dùng roi duối vậy. Tôi quật cây
roi vun vút trong không khí. Khi đã thấy rõ bóng đen, tôi dừng lại hỏi?
- Ai kia? Người hay ma?
Bóng đen lắp bắp trả lời:
- Em…
Tôi quát to hơn nữa và thấy tay
mình bỗng run như gặp rét:
- Em là ai?
Bóng đen nói nhỏ như mất hơi:
- Em là…
Tôi hỏi dồn dập, nửa thị uy nửa
tự trấn tĩnh mình:
- Nói mau, em là ai? Làm gì ở
đây?
Bóng đen đáp lại vội vã:
- Em là… đi chụp cá… Em đi chụp
cá…
Tôi tiến lên vài bước nữa và nhận
ra một thằng bé còi cọc đen thủi đen thui. Khi nó nói, chỉ có hàm răng trắng
ánh lên. Lưng nó đeo chiếc giỏ và tay cầm chụp. tôi bỗng thấy mủi lòng, chả lẽ
một đứa bé gầy guộc như vậy mà đêm đêm lặn lội đi kiếm ăn? Nó còn thua mình vài
ba tuổi…
Tôi định bước tới, nhưng một
câu chuyện cũ lại hiện lên trong trí nhớ khiến tôi dừng bước. Chuyện thế này:
Năm năm mươi tư giải phóng thủ
đô, bộ đội ta về tiếp quản các thành phố và thị trấn. Đêm đêm các anh thường
thay nhau đi tuần tra. Một lần đã khuya, hai anh bộ đội gặp một đứa bé lên năm
giữa ngã ba đường. Thằng bé khóc nức nở, kể rằng bị lạc mẹ từ chặp tối. hai anh
bộ đội cũng thương xót cõng nó tới đồn công an. Từ ngã ba tới đồn công an, chừng
non nửa cây số. thằng bé trên lưng lúc nhẹ như bấc, lúc nặng như chì. Anh bộ đội
kinh ngạc hỏi:
- Cháu lạ thật, lúc nặng lúc nhẹ
như ma ấy…
Thằng bé cất tiếng cười sằng sặc:
- Hay là ma thật đấy…
Và nó thè cái lưỡi dài hơn cái
đòn gánh liếm vào mặt anh bộ đội…
Chuyện đó bà Tô béo bán bún
riêu kể khiến tôi chùn bước. tôi suy nghĩ vài giây rồi ngồi ngay xuống tiểu tiện.
Nếu cái bóng kia là ma, hẳn nó phải biến ngay. Nhưng không, nó vẫn đứng im và lặng
lẽ quay đầu đi. Vậy nó là một thằng bé bằng xương bằng thịt. Tôi đến gần nói:
- Xin lỗi nhé, tao phải làm thế
vì sợ mày là ma.
Thằng bé sửng sốt nói:
- Ma gì cơ?
Tôi giải thích:
- Ma là linh hồn người chế đêm
đêm hiện về.
Thằng bé nói:
- Đêm nào em cũng đi chụp cá.
Khắp bãi sông này và đầm bên kia – Nó giơ tay chỉ - cả hồ sen nữa. Chẳng thấy
ma bao giờ.
Tôi lặng thinh, hơi ngượng. Thằng
bé chụp cá thấp hơn tôi một cái đầu. Tay chân nó nhỏ quắt như những ống xì đồng
bắn chim. Trong chiếc giỏ tre đeo bên lưng có những vệt trắng óng ánh. Tôi hỏi:
- Mày được nhiều cá chưa?
Đứa bé đáp:
- Chỉ đủ niêu kho thôi. Chưa có
cá bán. Hôm nay đen quá, toàn cá nhỏ.
Tiếng nói của nó thật dịu dàng,
ngoan ngoãn. Tôi bỗng muốn gần gũi và thân ái.
- Nhà em ở đâu? – T ôi hỏi.
- Trong làng, ven đám hồ kia. –
nó đáp.
Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của
chú bé, thấy mặt đầm loang mờ ánh nước và những khoảng tối đen của các đám cây.
Tiêng lịch kịch từ gò đất vẳng tới đã tắt. Tôi đoán Loan đã chôn xong thùng nên
gọi to:
- Loan ơi, lại đây.
Khi Loan tới, tôi giới thiệu:
- Đây là chị Loan, bạn chị. Còn
đây là chú bé đi chụp cá. Tên em là gì nhỉ?
- Em là Cọt.
- Cọt? Sao tên buồn cười thế.
- Mẹ em đặt tên em là Cau.
Nhưng em nhỏ quá nên người làng gọi em là Cọt. Hai chị về nhà em chơi nhé.
Loan ngần ngừ. Tôi nhìn về phía
thị trấn còn sáng đèn, bảo bạn:
- Mới hơn bảy giờ thôi. Tụi
mình đi chơi một lát rồi về cũng kịp.
Chú bé chụp cá mau miệng nói:
- Về nhà em đi. Chỉ có mình mẹ
em thôi. Mà mẹ em thích có khách tới chơi lắm… Về bây giờ khoai vừa chín nục.
Trước khi đi cá, em đã vùi nồi vào đống trấu.
Ồ, đêm lạnh thế này mà ngồi ở một
căn bếp chốn làng quê, ăn khoai mật hầm thì thú vị tuyệt. Tôi sốt sắng nói:
- - Đi.
Cậu bé Cọt thoăn thoắt đi trước.
Tôi và Loan bước theo sau. Từ phút ấy, đêm tối lẫn sông nước không còn chút nào
vẻ bí hiểm đe dọa chúng tôi nữa. Vừa đi chúng tôi vừa chuyện gẫu. Toàn những
chuyện vu vơ mà cười giòn như bắp rang.
Nhà Cau nhỏ xíu, giống như chòi
canh dưa hấu. Cổng làm bằng hai cành tre vít cong lại. Chú bé nhấc cánh cửa rào
rào cho chúng tôi vào. Sân vắng lặng. Tôi hỏi:
- Nhà em không nuôi chó hay sao?
Chú bé đáp:
- Có gì mà phải nuôi chó!
Nói xong, nó cười hì hì như ông
cụ. Tôi hiểu, nhà chú nghèo nên chẳng có gì cần canh giữ. Cau tiến sát tấm cửa
liếp, cởi giỏ cá đeo bên hông. Trong nhà, tiếng gọi vọng ra:
- Cau về đấy hả con?
Giọng trong như nước mưa vậy.
Chú bé đáp:
- Con về đây. Mẹ thắp đèn lên
đi. Nhà ta có khách.
Người mẹ đáp lời ngay, thánh
thót như tiếng nói của một đứa bé đứng trong dàn nhạc lễ ngày xưa:
- Chờ mẹ một tí. Có đèn ngay đấy.
Tiếng lịch kịch khe khẽ, rồi
sau đó ánh đèn dầu le lói rọi chiếu ra. Một bàn tay nhẹ nhàng nâng liếp cửa:
- Ai đấy? Xin mời vào nhà chơi.
Một người đàn bà nhỏ xíu, y hệt
thằng bé Cau hiện ra. Nhưng sau đó cô thụt vào trong nhà, nhanh đến nỗi chúng
tôi không kịp trả lời.
- Các chị vào nhà đi.
Chú bé giục chúng tôi. Rồi lau
tay lên vạt áo, nó rót nước ra chén mời mọc. Những chiếc chén Bát Tràng xoàng
xĩnh vẽ hoa xanh được rửa sạch bóng. Cả bóng đèn hoa kỳ cũng được lau đến trong
suốt, nhìn rõ từng hạt bọt thủy tinh. Nhà Cau nghèo nhưng sạch sẽ và ngăn nắp.
- Nước vối ủ, mẹ em cho thêm gừng
thơm lắm.
Chú bé nói. Chúng tôi uống nước,
không những thấy thơm mà còn thấy vị ngọt đọng mãi ở đầu lưỡi.
- Thằng Cau thích nước vối ủ
pha gừng lắm. Đi cá về làm một chén là ấm người lên ngay.
Người đàn bà nói, đoạn nheo mắt
cười. Mắt cô rất to, xanh biếc, mi dài và cong. Sống mũi cô thẳng và cao, chi chít
những vết tàn nhang. Gương mặt cô khác hẳn những gương mặt đàn bà ở làng quê mà
tôi thường gặp.
Chú bé Cau đã bưng nồi khoai
lên. Nó kêu:
- Mẹ đỡ hộ con tí. Nóng quá.
Người đàn bà lật đật đứng dậy,
đỡ nồi khoai cho con. Lúc đó, tôi mới thấy rõ là lưng cô bị gù gập lại. một cái
bướu lớn nằm ngay dưới vai trái. Trông cô xiêu lệch và nhỏ tẹo như con cua bị bẻ
một bên càng.
- Các cháu ăn khoai đi.
Cô mời. Lần này nhờ ánh đèn tôi
thấy rõ những gợn tóc hung đỏ bao quanh gương mặt cô, đẹp như tóc của một tài tử
phương tây, và làn da trắng nõn. Cô là một người lai. Một người lai tàn tật.
Tôi không dám nhìn người đàn bà
lâu hơn nữa, cúi xuống bát khoai đang bốc hơi nóng hổi. Còn cô, cô ngồi trên
giường, lấp sau lá màn nhuộm nâu và nhẹ nhàng nói chuyện:
- Chủ nhân nhà này là em Cau
đó. Nó đi học một buổi, đi cá, đi tôm một buổi. Tiền bán cá bán tôm, mua muối,
hương hoa ngày lễ Tết, áo quần chăn màn mùa đông. Còn thóc thì hợp tác xã bán
cho rẻ. Ngày mùa, Cau đi mót thêm lúa, thêm khoai. Chỉ có cô là chẳng được tích
sự gì…
Cau nhăn mặt, gắt:
- Mẹ lại nói chuyện cà kê gì thế?
Chán lắm…
Nói xong, chú bé quay đi. Dường
như nó muốn che giấu nỗi xúc động trước chúng tôi. Còn người mẹ, thì khẽ thở
dài, ngước nhìn con bằng cặp mắt long lanh và dịu dàng nói:
- Thì mẹ kể cho các chị ấy
nghe. Có gì sai đâu?...
Chú bé im lặng.
Mẹ chú vuốt ve chú bằng những
ánh mắt chan chứa yêu thương lẫn tự hào.
Chờ chúng tôi ăn khoai xong,
Cau giục:
- Đi đi, khéo không trộm nẫng hết
giàn câu của các chị.
Tôi ngẩn người, hỏi:
- Giàn câu nào?
Lại tới lượt Cau ngẩn ngơ:
- Giàn câu của các chị… Thế
không phải là các chị đi canh giàn câu cho bố mẹ hay sao?
Hóa ra Cau tưởng chúng tôi ra
sông canh giàn câu. Ở thị trấn có vài gia đình sống bằng nghề câu giàn. Họ cắm
từng dây cần câu mắc sẵn mồi và ngồi canh. Lâu lâu lại đi tuần một lượt gỡ cá mắc
mồi và thay mồi mới khi mồi cũ đã bị rỉa hoặc nhạt vì ngấm nước. Câu giàn là lối
câu nhàn nhã nhất trong nghề câu kiếm sống. Nhưng muốn câu giàn phải có một số
vốn to
Cau vẫn băn khoăn nhìn chúng
tôi:
- Em tưởng là…
Tôi bấm Loan gật đầu:
- Ờ, ờ…
Chúng tôi chào cô chủ nhà, ra
đi. Quen đường, tôi đã có thể phân biệt được cành tre ngả phía trước lẫn bãi
phân trâu bên vệ cỏ. Tới ngã rẽ, chúng tôi chia tay nhau. Cau đi về phía đầm nước.
Chúng tôi trở lại dòng sông. Trí nhớ khá tốt khiến tôi tìm được lối tắt đi ra đảo
mà chú bé Cau đưa chúng tôi lúc trước. Đang đi, chợt tiếng gà gáy te te trong
làng vẳng ra. Thú phiêu lưu chợt tan biến. Nỗi lo âu khiến cả hai chúng tôi lạnh
cả người. Loan khẽ nói:
- Chết rồi Bê ơi! nửa đêm gà mới
gáy thế chứ.
Nhìn sang bên kia sông, thị trấn
đã tắt đèn. Tôi cũng hoảng sợ.
Loan tỉ tê nói tiếp:
- Mẹ tớ đánh chết thôi.
Tôi gắt:
- Có gan đi chơi thì phải có
gan chịu đòn chứ! Đằng ấy có im đi không, tụt xuống sông bây giờ…
Chưa dứt lời, Loan kêu hự. Nó tụt
xuống nước thật, kéo cả tôi theo. May sao tôi bình tĩnh lôi được cô bạn lên,
nhưng áo quần hai đứa ướt lướt khướt. tôi không dám gắt nữa, ngọt ngào dỗ bạn:
- Cứ bình tĩnh, sắp tới đảo rồi.
Quả nhiên, Loan không kèo nhèo
kêu than nữa, túm áo tôi lặng lẽ bước. Lát sau chúng tôi tới đảo. Vừa lúc đó,
bên kia sông hiện lên hàng chục đốm lửa li ti. Những đốm lửa thoạt đầu còn nhoà
trong sương đêm, sau hiện rõ dần lên, giống như những ngôi sao màu vàng ngâm
trong đáy nước. Tôi che mắt nhìn kỹ hồi lâu và nhận ra những cây đèn bão đang lắc
lư tiến đến bờ sông. Bóng người bị vuốt dài ra, như những cây cột đèn di động.
tất cả hơn hai mươi cây đèn. Vậy là đoàn người đi tìm chúng tôi ít nhất cũng
hơn số hai mươi. Tôi chắc mẹ tôi và cô Lưu - mẹ Loan hạt mít – đã khóc chạy ngược
chạy xuôi khắp thị trấn tìm kiếm, báo công an và nhờ cậy bất cứ ai. Nỗi ân hận
khiến tôi nao nao trong dạ. Lúc mải vui, tôi đã không nghĩ tới cơ sự này.
Loan níu tay tôi, lo lắng hỏi:
- Làm sao bây giờ?
Tôi đáp
- Lặng im đừng nói năng gì cả.
Giống như người bị ma rủ ấy. Không thì chết đòn.
Lúc đó, tôi chưa kịp nghĩ ra
cách nào hơn. Sau này, tôi mới thấy lối thoát đó đem lại một kết quả tuyệt diệu.
Đám người trong thị trấn tới bờ sông cất tiếng gọi. Trong những tiếng gọi đó,
nghe thấy tiếng mẹ tôi và tiếng cô Lưu yếu ớt như hụt hơi, run run như vừa gọi
vừa khóc. Tôi cay sè cả mũi. Loan thút thít chùi nước mắt vào tay áo. Tôi khẽ bấm
cô bạn:
- Im ngay.
Tiếng gọi bên kia sông lắng dần.
Rồi tiếng bàn tán vẳng sang rõ mồn một:
- Chúng nó không có ở đây. Thôi
về đi.
- Không còn ngõ nào không sục tới.
Chẳng lẽ con mẹ mìn nào đó lại tóm được một lúc hai đứa lớn ngồng như vậy sao?
- Bây giờ chúng nó có thuốc mê.
Người lớn như mình cũng lú lẫn nữa là trẻ…
- Năm nay lắm chuyện buồn quá.
- Tôi đã bảo mà, chưa hết hạn
sao Chổi. Các cụ đã nói: “Sao Chổi quệt đuôi vào trái đất là phải chịu đủ ba
mươi sáu tai nạ mới tới lúc yên hàn. Thôi về đi…
Những cây đèn lắc lư, lắc lư.
Chợt bà An Lạc tru tréo lên:
- Thôi chết rồi, chiếc thuyền của
tôi đâu? Tôi vẫn buộc nó vào cây cọc này mà… Cả một sợi dây xích sắt to tướng…
Đám người xôn xao:
- Đúng rồi, hai đứa bé lấy thuyền
bơi đi rồi.
tiếng bà An Lạc vẫn san sát:
- Còn chệch đi đâu nữa? Cái
thuyền tôn tôi vẫn bơi sang sông lấy bèo cho lợn ấy. Chẳng mấy con ranh này thi
ma khênh đi hay sao?
- Chết thật, đêm hôm thế này mà
rủ nhau bơi thuyền. Chúng nó điên hay sao?
- Điên gì! Ma đã quyến rũ thì
trèo lên mái nhà cũng cứ trèo như không. Tôi đây này, to như hộ pháp mà năm hai
mươi tuổi còn bị ma rủ đi vòng quanh đầm nước suốt đêm. Sáng bảnh mắt, người đi
làm đồng mới dắt về nhà…
Một giọng thanh niên rắn rỏi
vút lên:
- Thôi bà con trật tự. Có thể
các cháu rủ nhau sang bên hồ nhổ củ ấu thì sao?… Hai thanh niên bơi sang tìm đi…
Tiếng nói vừa ngừng, hai bóng
người đã nhảy tòm xuống nước. Họ bơi rất nhanh về phía chúng tôi.
- Thuyền bà An Lạc đây rồi.
Một tiếng reo cất lên, nghe
quen quá mà tôi không nhận ra người nói. Bên bờ kia, có tiếng hỏi:
- Tìm thấy hai đứa bé không?
Người thanh niên vừa cất tiếng
reo đáp thật to:
- Đang tìm…
Rồi anh nhảy lên thuyền, bơi
ngược dòng sông. Anh đã nhận được hai cái bóng mờ mờ của chúng tôi dưới bụi duối:
- Các em đấy phải không?
Anh mừng rỡ cất tiếng hỏi,
trong khi chiếc thuyền lừng lững trôi trước mặt chúng tôi. Tôi bấm chặt tay
Loan, nhất quyết không đáp. Anh chàng không thấy trả lời liền nhảy xuống nước lội
bì bõm tới nơi chúng tôi ngồi:
- Sao không nói năng gì cả, hai
cô bé? Trời ơi, ướt sũng rồi…
Anh kêu thật to rồi bế xốc từng
đứa một đặt vào lòng thuyền. Lúc đó tôi nhận ra anh. Anh tên là Chiến, đấu thủ
bóng bàn của thị trấn. Chúng tôi thường chiêm ngưỡng anh trong những trận đấu
giao hữu tại câu lạc bộ thị trấn, một ngôi nhà to lớn có những dây cờ lụa nhiều
màu bay phất phới quanh năm. Khi chúng tôi đã ngồi yên trên thuyền, anh bắt đầu
chèo về phía bờ bên kia. Lúc đó, bạn anh mới tới nơi liền bám vào mạn thuyền
bơi trở về. Tới bờ, anh lại bế từng đứa lên. Mẹ tôi ôm chặt tôi vào lòng. Cô
Lưu cũng vồ lấy Loan, vừa khóc vừa cười như điên dại:
- Con ơi là con. Ma quỷ rủ rê
thế nào mà đêm hôm mò ra sông nước. Lạy đức thánh Trần, lạy bà cô miếu Cội… Từ
rày lễ lạt hương khói tháng hai lần, con không dám đơn sai…
Người đàn ông kể chuyện ma rủ
đi quanh đầm nước lúc này đắc ý nói oang oang:
- Đã bảo mà, đã sáng mắt ra
chưa?…
Không ai đáp lời. Hẳn mọi người
đều tin rằngchúng tôi bị ma rủ thật. Nếu không, họ đã thi nhau mắng mỏ. Và
chúng tôi ít nhất cũng lĩnh đủ một chục con lươn trên mông.
Chương 3
Sau cuộc phiêu lưu kỳ dị dó hai
tuần, một chuyện làm biến động cuộc đời học sinh tươi đẹp của chúng tôi.
Tôi chưa nói cho các bạn rõ,
tôi có hai thầy giáo rất tuyệt. Thứ nhất là thầy chủ nhiệm. Cả lớp không ai gọi
thầy bằng thầy mà chỉ gọi là bố Thế. Thầy đúng là ông bố của lớp. Thầy ngoài bốn
mươi nhưng chưa có mụn con nào. Thầy và người vợ cùng tuổi đều hoạt động vùng địch
hậu, bị địch bắt giam, tra tấn đến thành bệnh, khó có khả năng sinh nở. Trong
những trường hợp đó, người ta thường trở nên khó tính và ác độc. Nhưng thầy
giáo của chúng tôi lại hiền hậu, dịu dàng như có cả một người cha lẫn một người
mẹ kết hợp lại trong tâm hồn mộc mạc của thầy. Từ trò đứng đầu lớp đến trò đội
sổ lưu ban, không ai có thể oán thán điều gì, không ai nhận thấy một dấu hiệu cỏn
con của sự thành kiến hay bất công ở thầy. Công bằng và nhân hậu, nâng đỡ và
dìu dắt con người cho tới khả năng cuối cùng, thành thực và chất phác, đó là những
đức tính chúng tôi nhận được ở thầy. Điều đó giúp tôi một khả năng lâu dài bền
bỉ trong cuộc sống sau này, khiến tôi có thể vững vàng chịu đựng gian truân,
khoan dung với những sai lầm của kẻ khác và tự kiềm chế mình mỗi khi trong tôi
dấy lên những ý muốn trả thù.
Sau bố Thế, chúng tôi yêu quý
thầy dạy thể dục. Hồi đó, thể dục là môn học phụ nhưng vì thầy dạy thể dục tốt
và vui tính, nên đối với chúng tôi nó bỗng trở thành một môn học lý thú được chờ
đón trong tuần. Thầy dạy thể dục ít tuổi hơn bố Thế, người tầm thước, rắn rỏi,
da ngăm đen. Tóc thầy đen, dày. Cặp mắt nghiêm nghị nhưng cởi mở. Thầy luôn
luôn đem lại cho chúng tôi tiếng cười thoải mái trên sân tập. Thầy nói rất ít,
dường như không thuyết giáo bao giờ. Nhưng chúng tôi hiểu những cử chỉ và ý muốn
của thầy. Ánh mắt tươi vui, trìu mến của thầy khiến chúng tôi vượt qua nỗi sợ
hãi hay sự nhọc mệt. Khoảng sân cỏ mền tràn đầy ánh nắng. Những lá cỏ tươi
xanh. Những con chuồn chuồn bay lượn. Bầu trời xanh lơ có những đám mây nhỏ. Và
tiếng cười sảng khoái khi trán còn long lanh mồ hôi sau buổi tập hoặc sau các
trò chơi thể dục… Những giờ học đó là hạnh phúc thực sự của tuổi thơ. Tôi nhớ
chúng rõ ràng như nhớ những bông hoa phượng đỏ có những chiếc vòi mà mỗi mùa
hè, chúng ta thường rứt xuống để chơi trò chọi gà vậy.
Thế mà bỗng dưng thầy rời xa
chúng tôi. Thầy có ba con nhỏ với người vợ ở làng. Vợ thầy đau yếu luôn, không
làm ruộng được nên nhà túng bấn. Gần đây, cô bị viêm gan. Vì thế thầy phải chuyển
về một trường ở huyện để tiện chăm sóc vợ và lũ con dại. Thầy đi vội vã đến nỗi
không kịp gặp gỡ, liên hoan chia tay với học trò theo thường lệ. Chúng tôi chỉ
còn biết bùi ngùi thương nhớ thầy, tự trách mình quá thờ ơ vói con người chịu
nhiều khổ sở nhưng lúc nào cũng bình tĩnh và làm việc hết lòng ấy. Lớp trích quỹ
mua tặng thầy một cặp sơ mi và một đôi giày da mùa đông. Giờ thể dục bỏ trống.
Và hai tuần sau giáo viên thể dục mới về trường.
Sáng đó chúng tôi xếp hàng đứng
đón. Trước mặt chúng tôi xuất hiện một người đàn ông to cao, béo nục, tóc chải
bồng, bận bộ đồ trắng lốp. Chúng tôi xiết bao ngạc nhiên khi thấy bố Thế giới
thiệu thầy thể dục mới hai mươi bốn tuổi tên Gia. Chúng tôi tưởng ông giáo này
ít nhất cũng ba mươi tư hoặc ba mươi lăm rồi. Trong lúc bố Thế nói, thầy giáo mới
đứng im, mắt nhìn lướt qua đầu chúng tôi về phía xa xăm như một triết gia. Bố
Thế đi rồi, ông giáo cúi đầu nhìn lũ trò. Chúng tôi chờ đón xem thầy thể dục mới
nói gì. Bất chợt ông giáo hô to:
- Tất cả nghiêm!
Chúng tôi nhảy dựng lên như bị
kiến đốt, vội vàng ưỡn lưng, nghển cổ nhìn về phía trước. Thầy giáo Gia liếc
nhìn bộ hài lòng, rồi bắt đầu bài giảng:
- Tôi bước vào tiết học đầu
tiên ở đây. Trước khi dạy các anh chị, tôi là giáo viên trợ giảng của trường Đại
học thể dục thể thao. Học viên của tôi là những thanh niên trẻ khỏe, đã tôt
nghiệp cấp ba phổ thông, có nhận thức rất khá. Vì thế, e hèm… việc tôi về đây dạy
các cô, các cậu (thầy giáo Gia hạ chúng tôi từ anh chị xuống cô cậu đột ngột
như hô nghiêm vậy)… rất là đặc biệt. E hèm, tôi lưu ý các cô các cậu điều đó…
Chúng tôi đứng im phăng phắc.
Lúc đó một con ruồi trâu to tướng bay tới. Tiếng bay vo vo của nó vang rất rõ
trong không gian. Thầy Gia tỏ ý không hài lòng. Thầy giơ tay đập. Con ruồi vọt
lên cao, nhưng không bay đi mà cứ rung cánh ro ro như ấm nước đun bằng dây điện
vậy. Thầy Gia hậm hực lườm lườm con ruồi rồi nói tiếp:
- Bây giờ bắt đầu vào tiết học.
Đối với chúng ta, thời gian là vàng ngọc, sức khỏe là châu báu. Không được lãng
phí một giây. Trước tiên hãy khởi động cho cơ thể được hâm nóng. Nó cũng giống
như dịch vị tiết ra trước bữa ăn… Theo tôi… Một, hai… Tất cả hãy chạy vòng tròn…
Chúng tôi hồi hộp nhìn nhau, bắt
đầu chạy. Loan thở hổn hển, ghé vào tai tôi thì thầm:
- Ông này điêu quá, mày ạ. Chỉ
có việc khởi động mà thuyết lý hàng tràng. Nghe cứ rối mù lên.
- Lặng im xem còn gì nữa không.
Tôi đáp. Trước đây thầy dạy thể
dục chỉ cần giơ hai cánh tay, chụm hình chữ U trên đầu là chúng tôi đã ngoan
ngoãn chạy vòng tròn khởi động.
“Thật sung sướng khi sống với
những người giản dị và tươi vui” – tôi thầm nghĩ.
- Tất cả chú ý!
Thầy Gia lại đột ngột thét như
lên như còi tàu. Lần này tim chúng tôi cũng nhảy thon thót. Chúng tôi lén đưa mắt
nhìn nhay. Thầy Gia nói:
- Giữ khoảng cách thật đều. Sao
cho mỗi cá nhân là một đơn nguyên trong cấu tạo vòng tròn. Tôi cho mỗi người
hai phút tự kiểm tra, điều chỉnh để định vị mình cho chính xác. Phải nêu cao ý
thức thể dục thể thao mới. Phải nghiêm túc và giữ gìn kỷ luật… Nào, bắt đầu…
Tôi bấm giờ đây. Mỗi người được quyền tự tu chỉnh trong hai phút…
Đám học trò nhìn nhau:
- Gì thế? Thầy giáo mới bảo gì
thế?
- Chịu. Khéo, giẫm lên chân tao
rồi.
- Chạy đi, sao đứng ì ra đấy?
Thầy ấy quay lại thì chết cả nút bây giờ…
- Nhưng tao chẳng hiểu gì hết…
Thầy Gia trịnh trọng nhìn chiếc
đồng hồ quả quýt đeo trước ngực đếm:
- Ba mươi lăm, ba mươi sáu,… bốn
mươi giây. Còn sáu mươi giây nữa…
Mọi người cuống quýt:
- Bỏ sừ. Bê ơi… bảo chúng tao với!
Ông ấy nói gì thế nhỉ?
Lúc ấy tôi ghé vào tai Yến sếu
nói:
- Chia khoảng cách cho đều. Chỉnh
lại vòng tròn. Cả mớ lý thuyết đó tóm gọn chỉ có thế thôi.
Yến sếu thở phào. Tín hiệu được
truyền đi ngay tức khắc và được thực hiện hối hả.
Một hồi còi dài báo hiệu hết giờ
tự tu chỉnh. Chúng tôi dừng lại, hướng về phía giáo viên như những hành tinh hướng
về mặt trời.
- Các cô các cậu chú ý này… - mặt
trời của chúng tôi nói - Bài tập của chúng ta hôm nay là…
Đang trịnh trọng, thầy Gia đột
nhiên dừng lại, mặt phồng lên, căng thẳng một cách khổ sở. Hai cánh mũi lớn có
những mạch máu li ti đỏ rần rật. Mắt thầy nhìn xuống đất, giống như cắm một cây
cọc nhọn xuống đó và nhất quyết không nhổ lên nữa. Cả bộ mặt thầy y hệt một mảnh
buồm đã mục, căng hết cỡ trước làm gió dữ, chỉ cần một hơi thở dồn tới là bục
ngay. Tình trạng nguy hiểm đó kéo dài chỉ chừng năm sáu giây. Rồi bỗng:
- Hắt ắt ắt xì ì ì hơi ơi ơi
!!!...
Thầy Gia không thể kìm được cơn
hắt xì hơi vốn mạnh hơn ý muốn giữ vẻ trang nghiêm đạo mạo trước đám học trò.
Thầy đành ngửa mặt lên trời, há miệng không kịp giơ tay che, cũng không kịp
quay đầu đi để hắt hơi một cái thật mạnh như hơi nồi súp de bị xì, làm bắn nước
bọt lên đầu Yến sếu.
Vì bộ mặt thầy lúc đầu quá trịnh
trọng nên khi nhăn nhúm lại do phản ứng của cơ thể nom hài hước quá. Nó khiến
chúng tôi không nhịn được, nổ tung lên một cơn cười. Từ trưởng lớp đến học
viên. Tất cả mọi người trong lớp đều không kìm được cơn tức cười cồn cài gan ruột.
Nhất là mấy chị lớn tuổi, cứ gục đầu vào vai nhau, nước mắt giàn giụa, cười rũ
rượi hồi lâu.
Sau khi bình tĩnh lại, thầy Gia
giậm chân, trợn mắt quát:
- Tất cả trật tự!
Chúng tôi giật mình đứng
nghiêm, nhưng tiếng cười vẫn còn bắn ra khỏi cổ họng, nổ giữa hai hàm răng. Thầy
giáo liếc nhìn chúng tôi, giận dữ nói:
- Các cô các cậu cười gì? Cười
cái gì?… Đây là giờ học hay giờ chơi. Ý thức tổ chức kỷ luật để đâu? Các cô các
cậu coi thường bộ môn, coi thường thầy dạy phải không?…
Chúng tôi không còn cười được nữa.
Chúng tôi im re, cúi mặt nhìn xuống đầu móng chân. Không khí trở nên nghiêm trọng
vì mặt ông giáo mới tím lại, giận dữ và uất ức. Ông nhìn xoi mói vào chúng tôi.
Rồi như nhận ra tôi là đứa bé con đứng đầu hàng cười to nhất và nhiều nhất, ông
chỉ:
- Cô kia, tên gì?
Tôi lạnh toát sống lưng, khẽ trả
lời:
- Thưa thầy em tên là Vũ Thị Bê.
- Cô cười gì?
- …
- Tôi hỏi, cô cười gì?
- … Đây là giò học hay gìơ chơi?
- Thưa thầy, giờ học.
- Giờ học có được phép cười
không?
- Thưa thầy … không ạ.
- Vì lý do gì cô cười?
- …
- Cô là kẻ vô kỷ luật, vô tổ chức,
không xứng đáng đi học…
Ngón chân cái của tôi nhảy lên
nhảy xuống trước mặt. Những dòng nước lạnh toát bò dọc sống lưng. Rồi sau đó, lại
là những dòng nước khác nóng bỏng luồn vào từng thớ thịt. Tôi thấy mình tròng
trành như đi đò ngang qua sông. Cả lớp đứng im, mặt cúi gằm. Chợt một giọng rụt
rè cất lên:
- Thưa thầy, em xin có ý kiến…
Tôi ngẩng lên, Ly run run giơ
tay xin nói. Đó là đứa bé còi cọc nhất lớp. Mẹ chết vì hậu sản, Ly ở với ông bố
nát rượu làm nghề đánh xe ngựa chở thuê và một bà mẹ ghẻ bán nước mắm ở chợ.
Hai người thi nhau hành hạ đứa bé, không ai rỏ cho nó một giọt tình thương. Ly
phải làm quần quật suốt ngày.Nó học kém nhất lớp, mặt mũi tay chân quắt queo như
quả trám khô.
- Thưa thầy, - thằng bé run run
cất giọng nói - chị Bê không dám cười thầy đâu ạ.
Ông giáo mới gườm gườm:
- Thế thì cười ai?
Ly thở gấp, hối hả nói:
- Thưa thầy, giờ thể dục trước
đây được phép cười thoải mái. Thế nên chúng em quen đi…
Ông giáo im lặng. Rồi ông hắng
giọng nói:
- Thôi được, tôi cho qua. Nhưng
các cô các cậu phải biết rằng tôi rất nghiêm khắc với những hiện tượng vô tổ chức,
vô kỷ luật.
Giờ học kéo dài trong không khí
nặng nề, lo sợ. Trưa hôm đó, khi tan học, tôi bước qua sân trường. Chân giẫm
lên những ngọn cỏ mềm, trí não tôi tưởng nhớ tới gương mặt tươi vui, đôn hậu của
thầy giáo cũ.
- Thầy ơi, thầy ơi, thầy ơi…
Tôi thầm gọi, lòng vang lên tiếng
cười ánh ỏi của những giờ học xưa kia. Giờ chúng vĩnh viễn trôi mất. Tôi rẽ qua
hành lang tìm bố Thế nhưng bố đã đạp xe lên Ty giáo dục mất rồi. Buồn rầu, tôi
trở về nhà. Không ngờ, một sự kiện khác đang chờ đợi. Nó đem lại tai ương cho
Loan hạt mít, cô bạn ruột thịt của tôi. Và lần lượt cả hai đứa tôi phải gánh chịu
những tai ương xảy đến.
No comments:
Post a Comment