Wednesday, December 23, 2015

Chốn Vắng (Chương 16 - 18)

Chương 16

… Khóc đi, khóc đi một chút cho vơi lòng…

Giọng tiểu đội trưởng thầm thì và dịu dàng. Dịu dàng như xưa. Anh ấy là con trai Hà Nội. Suốt ngần ấy năm anh em chung sống chưa một lần quát nạt, chưa một bận sỗ sàng. Anh ấy có nụ cười tươi, da trắng đến nỗi những vết sẹo trứng cá và các mụn ruồi nổi lên rõ mồn một. Anh ấy nấu xôi nấu cơm khéo hơn cả đàn bà… Bôn nghe nước mắt chảy qua hai thái dương luồn dưới chân tóc ướt lạnh và nhồn nhột như giun bò. Dễ chịu quá:

– Tiểu đội trưởng ơi, em khóc nữa đây.
– Ờ, khóc thêm chút nữa cũng chẳng sao.
– Tiểu đội trưởng không mắng à?…
– Không… Tôi biết nhiều người đàn ông cũng thích khóc như đàn bà.
– Thế anh đã khóc bao giờ chưa?
– Chưa.
– Tiểu đội trưởng nói khoác. Anh quên ngày em kiết lỵ sắp toi, tay đã giơ lên bắt chuồn chuồn hay sao?… Lúc em sống lại y sĩ quân đoàn bảo anh khóc như mưa như gió…
– Bậy nào…

Tiểu đội trưởng quay đi. Anh ấy ngượng… Bôn thích chí. Anh muốn cười ầm lên dù nước mắt chưa khô. Nước mắt cuốn đi cơn sầu muộn. Anh lấy ống tay áo lau khô nước mắt và ngồi dậy. Cánh đồng hoa dập dờn nắng dập dờn bướm dập dờn những cánh chuồn kim. Con bọ rùa đỏ leo qua ngọn cỏ tới đậu trên đầu gối Bôn:

– Tiểu đội trưởng nhìn xem, con bọ đẹp không này?
– Ờ, đẹp thật.
– Hồi bé, tiểu đội trưởng có hay đào dế không?
– Không, ở thành phố khó kiếm nơi đào dế. Tôi chỉ đi dính ve sầu thôi… Hồi nhỏ tôi cũng thuộc loại lêu lổng, vào khóa học mới da đen nhẻn đen nhèm vì dãi nắng suốt vụ hè.
– Quê em có nhiều thứ ve lắm, nhiều loài dế nữa nhưng chẳng có thời gian mà chơi.
– Ờ, mỗi người mỗi cảnh… Nhưng sao cậu không nằm xuống cho đỡ mệt?… Nằm xuống đi, cứ mặc tôi ngồi. Tôi nằm ngày này qua tháng kia, năm này qua năm khác mục ải xương rồi.
– Sao đã mục ải được? Nơi ấy đất khô…
– Ðất khô mấy rồi xương cốt cũng mục cùng với thời gian… Sau này cậu sẽ biết…

Anh đưa tay vỗ nhẹ lên vai Bôn:

– Nằm xuống đi.

Bôn đáp:

– Xin phép tiểu đội trưởng.

Anh lại nằm xuống cỏ. Những đốt xương sống giãn ra. Ðất dưới lưng vừa ấm vừa mềm, dễ chịu quá. Con bọ rùa vẫn đậu nơi đầu gối nhưng giờ đây trước mắt anh đong đưa chùm hoa màu lục. Ðẹp, trái tim anh hồi dần nhịp đập thanh thản. Nỗi đau đớn ở lại bên kia giải bờ.

– Tiểu đội trưởng ơi, anh nhớ em không?
– Không nhớ sao tôi về đây?
– Anh nhớ những ngày chúng ta cùng nhau trong rừng không?
– Nhớ.
– Anh nhớ lũ chim khiếp đảm bay theo mình không?
– Lũ chim nào nhỉ?… Tôi không còn nhớ rõ?…
– Lũ kền kền quái ác. Bốn con chim ăn xác cả đực lẫn cái lẽo đẽo theo tiểu đội trưởng suốt mấy ngày trời… Lũ khốn nạn ấy. Lũ đểu ấy, em nhớ lắm… Em không bao giờ quên chúng được.

Bôn nói. Và sau đó, anh bỗng thấy bầu trời nâng cao lên, cao lên không ngừng. Mọi hình ảnh đều tan loãng. Không còn bướm dập dờn, không còn chuồn kim đỏng đảnh, không còn mây trắng nghiêng nghiêng trôi, không còn màu lơ thắm trong nắng thu, không còn gì ngoài một khoảng hun hút màu xám tro không mây gió. Rồi khoảng không đó quay chầm chậm như chiếc chong chóng vĩ đại vô hình mà luồng gió của vũ trụ thẳm sâu làm chuyển động. Bôn chăm chú nhìn những vòng quay chậm rãi của chiếc chong chóng mờ ảo trên cao không kịp nhận ra chính những vòng quay đó đang hút anh vào lõi chuyển động. Ðến lúc nhận ra điều đó, anh thấy mình bị dính vào

chiếc chong chóng ma quái kia như một hạt bụi sắt dính vào thỏi nam châm không cách nào thoát nổi:

– Tiểu đội trưởng, nguy quá, cứu em với i i…

Bôn cất tiếng gọi nhưng anh không mở miệng ra nổi. Lưỡi anh đã dính chặt vào hàm. Cổ họng tắc nghẹn. Khói bom lẫn bụi đất từ đâu đã xộc đầy hai lá phổi, lấp các đường phế quản. Anh biết anh sẽ chết ngạt nếu không khạc được cục bụi quyện lẫn nước bọt và đờm đang nút kín cổ họng anh. Anh thu hết sức lực khạc liên tiếp năm sáu lần, hai mắt nổ hoa cà hoa cải mới đẩy được cục bụi đó ra. Ðồng thời, cơn choáng váng làm anh xây xẩm mặt mày, không còn nhìn thấy gì ngoài những bầy đom đóm đen đom đóm vàng bay lượn… Bôn vội vã nhắm mắt, lấy hai bàn tay úp lên… Khi anh hết cơn choáng váng, mở được hai bàn tay ra cái không gian vĩ đại màu xám tro đang quay tròn kia đã biến mất. Trước mặt anh là bầu trời tĩnh lặng màu tím đục với mặt trời đỏ tướp máu phía sau cao điểm 327 nát nhừ.

– Tiểu đội trưởng ơi… Tiểu đội trưởng…

Anh gọi. Ba trái lựu đạn nổ liền đáp lời anh. Một cột bụi phọt lên mé bên kia đồi. Ðất bị xáo trộn, băm nát đã nhuyễn như bột bánh khảo, chỉ cần một âm thanh một va đập nhỏ là phọt lên. Sau chuỗi lựu đạn, tiếng gọi lần thứ hai như bị bẻ gẫy thành khúc:

– Tiểu đội… Trưởng ơi… tiểu đội… trưởng ơi…

Không có tiếng lựu đạn trả lời chỉ những hồi âm vọng qua ngọn đồi ngập ngụa tử thi súng ống, vật đổ nát và khói đang ngún cháy. Những làn khói ngoằn ngoèo bốc lên, mặt trời đỏ máu nhuộm thành thứ màu pha trộn nửa như huyết đọng nửa là màu áo sư sãi. Tựa như những ngọn khói ngoằn ngoèo uốn lượn kia là lời cầu nguyện chậm rãi, là hơi thở của đất đau đớn đang chờ bài kinh xá tội, đang đợi tiếng mõ từ những ngôi chùa xa hút vọng về. Bôn gióng tai nghe. Anh hy vọng sẽ nhận ra tiếng rên hoặc tiếng gọi của tiểu đội trưởng cho dù chúng yếu ớt khẽ khàng đến mấy. Thuở nhỏ, người làng gọi anh là Bôn dơi vì tai anh thính như tai dơi. Nhưng trong không gian yên ắng chỉ có tiếng tích tắc của tiếng đồng hồ đeo tay vang lên. Chiếc đồng hồ của Lợi chua cho anh trước khi chết. Lợi cùng tiểu đội với anh, quê Ninh Bình. Hát giả giọng con gái giống như hệt. Nói cũng eo éo như con gái và ăn chua cũng như con gái kỳ ốm nghén. Thế nên, cả đại đội gọi là Lợi chua. Lợi chết vì chứng kiết lỵ mãn tính. Các loại thuốc quân y viện phát đều vô dụng. Sáu tháng trời, ngày nào Lợi cũng ra hố xí ngồi hàng giờ, lúc quay vào mặt nhợt như gái đẻ băng huyết:

-Này Bôn, cầm lấy mà dùng dưới cõi âm chẳng ai cần thứ này đâu…

Chiếc đồng hồ Thụy Sĩ cổ lỗ của Lợi chua vẫn còn, vẫn chạy dai dẳng dù bao nhiêu bận bị bom vùi bom nén. Bôn cúi xuống nhìn chiếc đồng hồ lẩm nhẩm:

– Lợi ơi sống khôn chết thiêng xin chỉ đường cho tôi tìm tiểu đội trưởng. Anh ấy đã cư xử tốt với tất cả chúng ta, chẳng riêng ai…

Chiếc kim giây quay bốn mươi, năm mươi, sáu mươi rồi chín mươi nấc. Sắp hai phút, chưa nghe tiếng động nhỏ nào. Mặt trời càng nở to hơn đỏ bầm tụt xuống phía bên kia cứ điểm, chỉ còn lại vành bán nguyệt với dải mây tím bên trên. Một trái lựu đạn nữa bất thần nổ, hất lên vài mảnh vải rách với vật gì đó tựa như khúc tay cụt. Sau đó, tất cả trở lại yên tĩnh. Cánh rừng sau lưng bắt đầu sẫm lại. Chỉ lát nữa thôi nó sẽ chìm vào bóng tối. Bôn tuyệt vọng: Nếu anh không tìm được tiểu đội trưởng, mười lăm phút hoặc nửa giờ nữa máy bay Mỹ sẽ tới dội xăng hủy các tử thi. Và lúc ấy sẽ chẳng thể tìm nổi dấu vết của con người…

– Tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng… Anh gào. Nghe tiếng gào của chính mình run rẩy. Những làn khói ngoằn ngoèo run rẩy theo và vài con chim hớt hải từ cánh rừng sau lưng bay vọt lên:
– Tiểu đội trưởng ơi anh có nghe thấy không?
– Tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng ơi…
– Anh ở đâu, ở đâu? Tiểu đội trưởng ơi i i…

Bôn gào, gào liên tục như hóa rồ, tiếng gào âm vang khắp khung trời khiến lũ chim đen hớt hải bay trong ánh hoàng hôn tàn lụi.

Mặt trời chỉ còn nhô lên cái vành mỏng như móng tay, bốn bên sương núi ùn lướt tới, trùm lên các tử thi, hòa cùng các đám khói:

– Tiểu đội trưởng ơi i i…

Lần cuối. Cuối cùng. Tiếng gào nghẹt nước mắt. Giống tiếng chào ly biệt hơn là tiếng gọi tìm đồng đội. Bôn nước bọt khan nuốt nước mắt mặn xốc lại thắt lưng, sờ chiếc bình-toong còn vài ngụm nước bên trong. Anh đưa mắt nhìn cứ điểm lần chót trước khi quay lưng mò vào rừng. Và đúng lúc ấy, tiếng tiểu đội trưởng vọng lại:

– Tôi… Tôi đây… Tôi ở đây…

Tiếng gọi rõ nhưng vô cùng yếu ớt, chỉ như sợi thanh âm luồn qua một khối đen tử thi lẫn những thanh gỗ rầm gãy nát, những khối vụn bê-tông chồng chất. Bôn quay lại, lần lượt kéo từng xác người sang bên, không phân biệt xác nào lạnh xác nào còn ấm, bới và đẩy những thanh rầm lẫn mớ gạch và mảnh bê-tông, kinh hồn vì những đợt bom đã tung bứng, xào xáo quỷ quyệt đến mức cả đống xác người lẫn đồ vật dồn tụ giữa hai bức tường xi-măng gãy nát. Tiểu đội trưởng chưa phải người cuối cùng, bên dưới anh còn hai tử thi nữa. Nhưng với sức nặng của ngần ấy xác lẫn rầm gỗ, anh còn sống cũng là sự thần tình. Bôn xốc ngược tiểu đội trưởng ra ngoài, tức khắc cõng chạy về cánh rừng giờ đã hoàn toàn đen thẫm. Hai tay tiểu đội trưởng quàng qua vai anh mỗi lúc mỗi lơi lỏng. Chiếc bi-đông quay ra phía sau, đập vào xương cụt đau nhói nhưng anh

không dám dừng lại xoay nó về vị trí cũ. Linh tính bảo anh rằng chỉ trong khoảnh khắc, máy bay sẽ tới và tất cả sẽ biến thành biển lửa… Tiểu đội trưởng to con hơn, nặng cân hơn Bôn nhiều, nhưng lúc ấy anh không biết nặng nhẹ, anh chạy phăng phăng vì trước mắt anh là cây cầu, bờ bên này là cái chết bên kia là sự sống… Rồi Bôn cũng chạy kịp. Anh tới được cửa rừng cũng là lúc bầy phi cơ ập đến, rú rít xé nát bầu trời, lửa đèn hiệu gắn nơi cánh và đuôi phi cơ nhấp nháy liên hồi như những con mắt đỏ. Lũ máy bay lượn thành vòng tròn, chu vi vòng tròn mỗi lúc mỗi hẹp.

Các thùng nhiên liệu cháy được thả xuống theo một tiết điệu đều đặn trên khắp khu đồi. Chừng vài phút sau, toán phi cơ nâng độ bay. Một loạt bom ném xuống và cứ điểm 327 tức khắc bùng lên biển lửa. Lửa cháy rần rật bốc cao lưng trời, soi rõ từng mảnh quần áo rách bị gió thổi bay vừa bay vừa bốc cháy, soi rõ cả mấy khóm cây

lẻ loi đang xèo xèo sôi nhựa. Bôn lau mồ hôi mặt mồ hôi gáy. Tiểu đội trưởng đang tựa mái đầu nặng trĩu trên vai anh. Anh ấy cũng đang mở mắt nhìn lửa cháy. Ðôi mắt hiền và mơ màng như đang buông lơi tia sáng để trôi vào khung trời khác:

– Lửa… lửa cháy… Rồi… tất cả sẽ thành tro… Anh lẩm bẩm.

Bôn hỏi:

– Tiểu đội trưởng bị thương ở đâu?… Ðể em xem…

Anh lắc đầu:

– Thôi… Vô ích…

Bôn nói:

– Em hãy còn cuốn băng cá nhân… Cứ để em…

Tiểu đội trưởng lắc đầu lần nữa, hình như anh mỉm cười nhưng nụ cười thật gượng gùng và khó khăn trên cặp môi trắng nhợt:

– Ðừng mất công… Tôi không qua… được… Ðứt động mạch chủ rồi…

Bôn rống lên:

– Ðứt động mạch chủ?… Sao không gọi y tá làm ga-rô?…

Tiểu đội trưởng nhắm mắt không đáp. Bôn chợt hiểu anh vừa hỏi một câu xuẩn ngốc. Làm gì còn y tá trong lúc đó?… Cả thảy có năm người, ba đã chết ngay lúc mở đầu trận đánh. Hai người còn lại đưa thương binh về hậu tuyến, chẳng rõ họ và đám thương binh có đi thoát hay đã bị bom dập nát rồi… Nhưng Bôn không cam lòng bó tay, anh rờ rẫm tìm vết thương trên người tiểu đội trưởng, hy vọng mong manh rằng còn nước còn tát. Tiểu đội trưởng bị mảnh bom chém ngang đùi trái. Máu thoát theo đường ấy, bết vào lớp vải khiến ống quần bên trái khô cứng như mo cau. Bôn kêu:

– Tiểu đội trưởng ơi, em rạch ống quần ra nhé?…

Anh khẽ lắc:

– Ðừng.

Bôn nói:

– Dao em rơi mất rồi… Ðể em mò con dao của anh…

Nói rồi anh đưa tay lần quanh thắt lưng tiểu đội trưởng. Anh ấy cố đưa tay lên như muốn ngăn Bôn nhưng cánh tay rơi thõng xuống. Tiểu đội trưởng nhướn cặp mi vài lần rồi từ từ mở mắt ra:

– Tôi thấy trời màu đỏ, đỏ như hoa phượng hoa hồng… Ðẹp lắm…

Anh buông từng tiếng khó khăn, như lưỡi anh bị rút ngắn và đang cứng dần. Nhưng tiếng anh trong trẻo. Một làn ánh sáng phảng phất trên mặt anh, như rong rêu vô hình biếc trong ánh lửa từ cứ điểm 327 soi chiếu. Rồi anh mỉm cười:

– Thế… cũng xong một đời trai… cũng hay… ay…

Và mắt anh chợt lóe lên một tia sáng như muốn thu nhận lần chót đám cháy rực rỡ tàn bạo có tên 327, đám cháy khiếp đảm đã thiêu cháy bao nhiêu con người bao nhiêu cuộc đời của hai bên chiến tuyến. Không ai đếm nổi trong đụn lửa ngất trời kia có bao nhiêu tro bụi hài cốt hòa trộn bốc bay. Trong đám tro xương đó có bao nhiêu gã đàn ông những kẻ may mắn biết hương vị ái ân và còn lại bao nhiêu chàng trai khờ khạo như anh, chưa hề biết đến da thịt đàn bà dù đã đọc hàng trăm cuốn tiểu thuyết, xem hàng trăm cuốn phim, giảng giải và nói phét về chuyện ái tình cho đám lính quê như những gã Sở Khanh thứ thiệt…

… Ðời là cuộc chơi… Nhưng trò chơi không được quyền chọn lựa…

Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt anh. Ý nghĩ như mây trôi. Rồi ý nghĩ qua mau chỉ còn lại vòm trời tưng bừng hoa đỏ. Xa hơn nữa là những tầng khí quyển màu lơ chan hòa ánh nắng. Nhưng tầng khí quyển màu lơ hút anh về phía chúng. Nắng không rải lên cõi đất mà quy tụ thành từng luồng sáng rực. Những luồng sáng đó giống những vòi rồng hút anh vào trong. Tâm hồn anh nhẹ nhàng bốc bay như cánh ong như cánh bướm như phấn hoa tản mạn và mờ ảo. Chúng bay lên cao càng lên cao những chùm sáng nhẹ nhàng mong manh kia càng hồi tụ, giống như những chùm khói chùm mây rực rỡ, chúng kết thành hình dạng con người một chàng trai khác lạ, vừa như anh nhưng vừa chẳng là anh, mà là phiên bản của Chúa Hài Ðồng.

Khi tâm hồn anh bay về khoảng xa xăm, thân xác anh nằm lại trên tay Bôn dần biến sắc. Gương mặt chẳng còn trong suốt như nặn bằng thạch cao mà ngả sang màu xanh xám. Cặp mi im lìm đông cứng. Hai cánh tay sõng sượt chẳng bám vào đâu.

– Tiểu đội trưởng ơi…

Bôn gọi giật giọng.

Gương mặt xanh xám của tiểu đội trưởng như gương mặt người bị trúng phong, hôn ám và bất động.

– Tiểu đội trưởng ơi…

Bôn gọi giật giọng lần thứ hai, vừa gọi vừa lắc vai anh dữ dội:

– Tiểu đội trưởng ơi, đừng bỏ em…

Hai cánh tay thõng thượt của tiểu đội trưởng quăng đập sau những cú lắc điên rồ của Bôn. Gương mặt anh đã hoàn toàn xa vắng. Không còn tiểu đội trưởng nữa. Anh ấy đã đi. Ði hẳn rồi. Anh ấy đã đi theo khung trời hoa hồng hoa phượng.

– Tiểu đội trưởng ơi i i…

Lần này không còn là tiếng gọi mà là tiếng than. Nước mắt Bôn lặng chảy. Giá như anh biết kêu, biết khóc, biết than hờ, biết hát những bài hát đưa vong mà đám người lớn tuổi thường vẫn hát, có lẽ lòng anh sẽ bớt đau. Nhưng anh không biết. Không thể. Và cơn đau quẫy lộn trong tim:

… Tiểu đội trưởng ơi anh nhớ ngày chúng mình gặp mặt?… Lúc đó em mười bảy nhưng đã có vợ, còn anh hai mươi ba tuổi mà vẫn trai tân. Ðám lính mười tám mười chín trong tiểu đội đều đã lấy vợ cả. Nông thôn chúng em lấy vợ sớm để giữ giống trước khi ra trận. Chỉ dân thành phố các anh là khờ… Ngay buổi tối đầu tiên sau bữa liên hoan chúng em hò nhau vật anh ra giường để xem con giống của gã trai tân thành phố trắng đến đâu?… Hai hôm sau lúc ở thao trường về anh đãi cả bọn một bữa xôi chè thả cửa…

Bôn lau nước mắt, xốc người chết tới gốc cây gần đó. Anh tựa lưng vào gốc cây cho đỡ mỏi. Cái bình-toong chạm đánh khấc một tiếng vào mẩu xương cụt khiến anh đau tê tái. Anh gỡ cánh tay tiểu đội trưởng để quài ra sau lưng, xoay chiếc bình-toong về vị trí cũ. Cánh tay anh ấy đã nguội.

… Người thoát dương chân tay lạnh trước, sau đó đến bụng, ngực và đầu. Kẻ giàu tình trái tim nguội sau chót. Kẻ trí lự cái đầu sẽ giữ hơi ấm cuối cùng… Người đời thường nói vậy… Tiểu đội trưởng ơi, anh là người giàu tình nhất em được gặp trên đời. Như thế, tim anh còn ấm lâu nhất… Bôn luồn tay vào ngực trái tiểu đội trưởng. Hơi ấm truyền sang tay anh. Và nước mắt anh chưa kịp khô lại tiếp tục tràn xuống hai gò má…

Lửa trên cứ điểm 327 bắt đầu tàn. Không còn biển lửa cao ba thước mà chỉ còn một bãi mênh mông lô nhô những đống lửa nơi cao nơi thấp và giữa những đống lửa nhỏ tựa như các gò đụn đang bốc cháy là nền than láng phủ tàn tro, đôi khi gió lùa bốc bay từng đám như pháo hoa ai ném trong những đêm giao thừa thời an bình thịnh vượng. Bôn cúi xuống nhìn mặt tiểu đội trưởng nhưng ánh sáng hắt từ cứ điểm 327 hoàn toàn tắt, tất cả sẽ đen kịt. Không còn ai bên anh, ngoài cái xác anh đang bế trên tay. Ðêm nay là đêm đầu tiên, anh một mình không đồng đội. Từ ngày nhập ngũ cho đến trận đánh khốc hại này anh luôn luôn sống cùng bạn hữu chưa bao giờ lẻ loi.

Từ đây, anh bắt đầu nếm mùi đơn thương độc mã. Anh đưa mắt nhìn xung quanh thấy trời đêm mênh mông hơn, huyền bí hơn hết thảy những đêm anh đã qua, thê lương hơn hết thảy những cảnh chết chóc anh từng nếm trải. Bôn sợ. Anh không biết anh sợ gì? Thám báo, hổ sói, hay ma quỷ?… Có lẽ là tất cả. Anh hãy còn súng còn đạn. Dao găm của anh đã rơi nhưng giờ đây anh có con dao găm của tiểu đội trưởng, mới và bén nhọn hơn nhiều. Anh có thể chống lại bọn thám báo nếu anh cẩn trọng, chịu ẩn mình trong bóng tối và các bụi rậm. Còn hổ báo, sau một trận đánh khốc liệt như trận đánh vừa rồi chắc chắn đến lợn lòi, gấu độc hay cọp già cũng phải chạy bạt đi vài ba cánh rừng và ít nhất qua vài tuần trăng mới quên được cơn khiếp hãi… Còn ma quỷ?… Ðúng. Có lẽ anh sợ ma quỷ vì đó là những hình ảnh khiếp hãi, kinh hoàng đã được cấy vào óc não anh từ hồi thơ dại dù sau này lớn khôn, từng hương khói cho những vong hồn thân thiết là cha mẹ anh, anh đã hiểu thế giới bên kia chỉ là nơi cư ngụ những linh hồn sương khói và ngày nào đó anh cũng sẽ gặp lại cha mẹ anh tại cõi tối tăm ấy. Dẫu sao, người ta cũng khó tẩy rửa nỗi sợ. Thế giới của kẻ đã chết là chốn xa lạ hù dọa tất thảy các sinh linh, nơi đó ánh sáng không phát ra từ mặt trời mà từ ánh lân tinh lập lòe trên các vòm xương sọ, những lũ quỷ nhỏ lông lá luôm nhuôm bẩn thỉu đi thành dãy dài mỗi con cầm một chiếc đầu lâu cắm trên khúc xương đùi tựa hồ bọn người rước đuốc đêm hội.

Ðiều khác biệt là ánh sáng tỏa ra từ những chiếc đầu lâu dát lân tinh là thứ ánh sáng ghê rợn trong thứ ánh sáng đó mọi làn da đều có sắc xanh xám của kẻ bị rút huyết, mọi cặp mắt đều mất đi đồng tử, và mọi làn môi đều có màu máu khô. Thế giới của cõi âm là nơi quẩn quanh dồn tụ những oan khuất của kiếp người dương thế, những kẻ bị phụ bạc, dối lừa, những kẻ chịu đọa đầy oan uổng, những kẻ chưa được nhắp hớp rượu đầu của mùa rượu mới, những kẻ phạt mình ép xác lao tâm khổ tứ suốt một đời mà chưa tới đích, những trai thanh chết non nữ tú chết yểu… Và những vong linh bất mãn, những ông mãnh bà cô ấy thường thích hành hạ hãm hại bất cứ kẻ nào còn có cơ hội nếm trải giọt rượu đời… Ðúng… Anh sợ… Nỗi sợ ấy sống trường kỳ trong anh. Ðôi khi nó bị dìm lấp đi khi có đồng đội bên mình… Cũng là rừng nhưng rừng thật gần gũi những đêm xưa mắc võng, võng nọ nối đuôi võng kia, hàng này kề hàng khác, chỉ cần quơ tay là chạm tới người nằm cạnh, chỉ cần thò cổ khỏi võng là có thể châm thuốc, hàng trăm chiếc võng tạo nên một không gian ấm áp an bình và rừng là những tán lá che sương, che con mắt thần gắn trên phi cơ địch, một kiểu nhà tập thể bao dung và thân ái. Rừng đêm nay lạ lẫm, thâm u, ẩn chứa muôn con mắt rình mò, những gương mặt xa lạ xanh rờn rêu nhớt, những cánh chân cánh tay đã rời khỏi thân mình khua khoắng như lũ vòi bạch tuộc, những con rắn quăng mình trên cây và những tiếng tắc lưỡi của nó vang to như tiếng tớp mồi của loài tắc kè. Trong tiếng sột soạt của các vòm cây Bôn nghe thấy tiếng các bóng ma chuyển động, những bóng ma lạnh lùng dữ tợn ngắm nhìn anh, đo đếm xem anh xứng đáng với những hình phạt nào. Họ sẽ rút lưỡi anh hay treo ngược anh lên cành cây, buộc anh chịu một cái chết dai dẳng, thân xác anh bị các loài chim tới rỉa và sau cùng chỉ còn một nắm tóc phất phơ giữa đám lá cành… Mường tượng đến những cảnh ấy, toàn thân Bôn tê dại. Một ý nghĩa đột khởi vụt lên:

… Nếu tất thảy mọi người chết đều hóa thành ma, ta đang ôm trong tay con ma thân thiết nhất. Kẻ đã bảo trợ ta trong cuộc đời dương thế đã dạy ta từ cách xỏ giầy đến cách xỉa răng, từ cách gấp chăn màn xếp ba-lô đến cách nấu các món ăn dã chiến, đã nhận lỗi thay ta trước mặt đại đội trưởng, đã dung thứ cho ta tội đánh mất công văn, đã bẻ cho ta mẫu lương khô cuối cùng… Kẻ ấy khi chết cũng sẽ phù trợ cho ta, và như thế chẳng còn chi đáng sợ.

Bôn ghì xiết tiểu đội trưởng. Anh có cảm giác như đó là tấm mộc che chắn, là bức thành chống đỡ lại những kẻ xâm lăng vô hình nhưng kinh dị. Anh hít liền mấy hơi thật sâu rồi hét:

… Dừng lại… Dừng lại… Nghe ta nói đây:

Tiểu đội trưởng bắn súng hai tay gần như nhau và có thể phóng dao găm trúng bóc những cự ly ngoài ba mươi thước… Chúng bay hãy dè chừng…

Rừng rung giật ầm ầm. Bôn nghe giọng đắc thắng của chính mình vang lên mồn một, va đập vào các vòm cây khiến các đốm lân tinh vụt tắt vụt nẩy như mắt sao, và anh quay đầu bốn phía nhìn rừng, thấy những gương mặt xanh nhớt tan dần như đám khói bốc trên miệng bình thử hóa chất, những đám cánh chân cánh tay treo lủng liểng trên cành cây tựa hồ lũ đao phủ điên rồ đã lượm vét từ các thùng phẫu của các quân y viện đem tới đây cũng rụng lả tả và tan mủn như tàn tro không còn dấu vết, những con mắt thù hận trong hố mắt rộng và sâu không lông mày lông mi nhìn anh từ bốn phía bỗng biến mất như phép tàng hình. Bôn thấy rừng an toàn yên tĩnh như những đêm mắc võng xưa, một mái lá che cho anh bớt lạnh:

… Chúng nó trốn sạch rồi, tiểu đội trưởng ơi… Bọn ma ấy sợ anh. Giờ em có thể ngủ yên…

Anh nói và vỗ lên cánh tay lạnh ngắt của người chết. Ðoạn, anh gài con dao của tiểu đội trưởng vào thắt lưng, đè cây súng dưới mông để phòng bọn thám báo tước mất và ngủ ngay tức khắc…

Sáng hôm sau, nắng xiên qua kẽ lá soi vào mắt Bôn khiến anh thức giấc. Anh nằm tênh hênh trên lớp lá rụng, khẩu súng dưới mông xác tiểu đội trưởng úp lên ngực trong tư thế từa tựa tư thế kẻ làm tình. Bôn luồn tay vào ngực áo người chết nhưng chợt hiểu rằng chẳng thể tìm được chút hơi ấm nào ở đó nên rút tay ra. Xác chết lạnh cứng. Hơi sương ẩm tấp lên lớp áo quần bốc mùi khét khói đạn, mùi máu khô tanh khẳn. Anh lật xác tiểu đội trưởng lên, thấy rõ từng nốt ruồi con từng vết sẹo trứng cá cả những nếp nhăn nhỏ trên gương mặt xanh tái. Có gì đó khác lạ trên gương mặt anh quen thuộc mọi ngày. Không chỉ vì màu da đã đổi khác mà còn vì vẻ xa vắng cách biệt. Bôn đưa tay rờ những nốt ruồi con nơi gò má, miết những nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt người chết, những cử chỉ anh không thể làm khi tiểu đội trưởng còn sống vì chúng kỳ quặc, có vẻ như lối tỏ tình của gã lại cái hoặc lối nịnh nọt của lính với cấp trên.

Tiểu đội trưởng đã chết, giờ chỉ còn mình anh trong cánh rừng này, chẳng ai có thể rình mò hay chế riễu.

… Tiểu đội trưởng ơi, chẳng ai tốt với em hơn anh… Nhưng anh đã sang cõi khác, không thể cõng anh theo trên đường tìm đơn vị. Lát nữa, em sẽ phải vùi anh nơi góc rừng này, xin anh xá lỗi…

Bôn tiếp tục xoa gò má, hai thái dương và vòng xuống cằm người đã khuất:

… Nếu trời còn cho sống, bao giờ yên hàn em sẽ ra Hà Nội thăm quê anh, trả lại cuốn nhật ký của anh cho bà cô ruột, đặt tấm ảnh anh lên bàn thờ… Em sẽ đến những nơi anh rong chơi thời học trò: Văn Miếu, Hồ Tây, sông Hồng, sẽ bơi ra cù lao bẻ bắp nướng… Anh thấy viền môi tím ngắt của người chết khẽ đụng đậy như muốn kìm giữ nụ cười:

… Sao mà bi lụy vậy?… Ai rồi cũng chết. Chúng ta lũ trai thời loạn phải chấp nhận một cuộc ra đi chóng vánh hơn cuộc ra đi của những người sống cuộc sống bình thường. Chẳng ai chọn được thời để sinh, cũng chẳng ai chọn được chốn đầu thai nên hãy vui vẻ chấp nhận mảnh đất Ðức Phật đã gieo quẻ xúc xắc cho kiếp sống của mình. Ðừng khóc… Tôi chẳng thích nhìn đàn ông khóc, và hơn nữa, khi họ là người lính…

Anh nghe rõ tiếng cười của tiểu đội trưởng. Bao giờ anh ấy cũng cười thật khẽ, gần như không bật thành tiếng, vừa dịu dàng vừa hài hước nhưng chính vẻ dịu dàng đó giờ đây cấu xé tim anh. Anh nghiến hai hàm răng để nước mắt ngừng chảy, đưa tay vuốt cặp mi cứng đờ rồi đặt tiểu đội trưởng xuống đất, mở ba lô. Trong ba lô của anh có cuốn nhật ký với bộ quần áo thu đông của tiểu đội trưởng. Trước lúc đánh cứ điểm 327, anh ấy đột nhiên gọi Bôn lại:

– Này, cậu là người cẩn thận nhất tiểu đội, hãy giữ giùm tôi cuốn nhật ký và bộ quần áo, tôi biết cậu sẽ chẳng bao giờ để mất…

Linh tính xui khiến hay quỷ thần đã mách bảo anh?… Bôn chợt rùng mình khi nhớ lại ánh mắt tiểu đội trưởng lúc ấy. Ánh mắt mơ màng trống rỗng, như không phải mắt người mà là ánh sáng chiếu rọi từ một tâm hồn nhẹ bổng bay lơ lửng lơ trong cõi khôn cùng:

… Phải, anh ấy đã rời xa chốn này từ phút đó, anh ấy đã bay tới cõi khôn cùng, nơi không còn đất đá rừng cây không súng đạn hầm hào không khẩu lệnh tác chiến phương án chính phương án dự phòng, không còn mồ hôi nước tiểu không còn máu…

Anh đặt bộ quần áo mới tinh lẫn cuốn sổ của tiểu đội trưởng sang một bên, thứ đến mớ quần áo của anh để rút tấm ni-lông trùm võng. Trải tấm tăng xuống nền rừng. Bôn đặt người chết lên, lục lọi tất cả túi áo túi quần lấy được một chiếc bút máy, một khăn tay bẩn một bao thuốc hút dở bỏ tất cả vào ba lô rồi xếp lại và buộc chặt. Xong xuôi, anh kéo chân tay tiểu đội trưởng cho thật thẳng, quấn xác anh ba lượt trong tấm tăng dài rộng, hài lòng vì mình đã giữ được tấm tăng tới lúc cần thiết này trong khi chính tiểu đội trưởng lẫn đám đồng đội đã đánh mất hoặc đổi lấy sắn khoai ăn trên đường qua các bản Vân Kiều. Khi đã gói xác chết cẩn thận, Bôn rút trong túi quần sau cuộn dây dù nhỏ buộc kĩ ba phần: đầu, ngang bụng và cổ chân tử thi. Rồi cầm dao găm gạt lớp lá mục bên trên anh bắt đầu đào hố. Ðất không quá rắn dao găm sắc ngọt, chừng non một giờ sau anh đã đào huyệt. Cũng là lúc nắng bắt đầu nung nóng rừng cây. Không có gió mà chỉ có những làn khí nóng hầm hập luồn qua lưng khiến mồ hôi nhơm nhớp ngứa như kiến đốt.

… Ta cần chôn anh ấy thật nhanh. Trời nóng tử thi dễ ngả mùi…

Anh ôm xác chết đặt xuống hố, đứng nghiêm theo tư thế mặc niệm dưới chân huyệt:

… Không có nhạc tiễn đưa anh. Cũng không hoa tưởng niệm. Lẽ ra em phải bắn băng đạn cuối cùng, nhưng e trên đường về đụng biệt kích. Xin anh xá cho…

Rồi anh quỳ xuống hì hục lấp đất. Chỉ mươi phút sau nấm mồ đã thành hình, cao hơn nền rừng chừng già một gang tay. Những chiếc lá úa tiếp tục rụng, rải màu đỏ chết chóc lẫn màu vàng ủ dột. Rừng này là rừng khộp, lá bằng bàn tay khi tàn nhuốm những màu sắc dữ dằn và buồn thảm, Bôn đứng ngây dại nhìn lá rụng:

… Tiểu đội trưởng ơi lá rụng không ngừng… Rồi mai đây mùa mưa tới. Rồi mai đây những gốc cây già đổ xuống, rừng thay đổi dạng hình và chẳng còn ai tìm ra dấu vết của anh…

Rút dao ra, anh hối hả chém lên những gốc cây xung quanh. Gốc cây nào cũng khắc chữ X thật lớn, vừa bổ dao lia lịa anh vừa thấy tâm trí mịt mù như đám khói vì biết rằng chẳng bao giờ còn có thể quay lại nơi đây. Khi các gốc cây quanh mộ đều hằn lên hình chữ X, anh xốc ba-lô lùi lũi bỏ đi, e sợ nếu quay đầu lại sẽ nghe thấy tiếng gọi dưới mồ và không còn can đảm đi tiếp.

Ði như thế hơn hai giờ liền, cơn khát cấu xé khiến lưỡi Bôn như dính vào hàm trên. Chiếc bi-đông chỉ còn lại vài ngụm mà chẳng biết lúc nào mới gặp được khe nước hay nguồn suối. Ðã đặt tay lên bi-đông nhưng anh rụt lại, đưa lưỡi liếm mồ hôi đọng trên môi rồi tiếp tục đi. Chừng một giờ nữa, cổ họng anh bắt đầu sưng lên. Bôn đành tìm gốc cây ngồi nghỉ, cởi bi-đông uống vài ngụm nhỏ. Từng giọt nước thấm vào lưỡi, từng giọt nữa trôi qua cổ họng khiến da thịt sưng phỏng mát dịu đi. Nhưng khi cổ họng anh bớt đau, dạ dày anh liền hồi tỉnh và lên cơn phẫn nộ. Ðã hai ngày nó bị quên lãng. Thoạt tiên, nó lên tiếng than van nỉ non, rồi những than van mỗi lúc càng dồn dập hơn nhiều hờn oán hơn. Bôn siết chặt dây lưng. Dạ dày anh sôi lên ùng ục không kêu than mà nguyền rủa cấu xé anh bằng cách tự cấu xé nó trước. Hai ngày hai đêm qua anh mất hoàn toàn cảm giác đói, giờ đây toàn bộ giác quan anh quy tụ quanh cái dạ dày. Tai anh nghe nó réo gào, mắt anh nhìn thấy chất cường toan đang bào mòn thành vách, da thịt anh thấm dần những cơn buốt rát từ nó lan truyền sang… Bôn thít lại dây lưng lần nữa, ngả đầu vào gốc cây, nhắm mắt lại. Anh bắt đầu tìm kiếm một mùi thơm trong trí nhớ: một mẩu cháy, một miếng lương khô, sắn nướng trên than hoặc thịt nai quạt chả… ôi mùi thịt rừng quyến rũ ấy suốt mấy năm quân ngũ anh chỉ được nếm một lần mà hương vị còn nguyên vẹn đến giờ…

Những năm ấy, đơn vị anh đã hành quân qua bao nhiêu cánh rừng không ai nhớ nổi. Nhưng theo những vệt bom cày, các loài thú lánh bạt đi. Rừng thuở xưa nào hươu nào nai nào hổ nào gấu nào các loài chồn cáo các loài chim chóc đã biến mất… Chỉ những khu rừng lở lói xác xơ vì bom dội, trụi tóc vì chất đi-ô-xin. Các bờ suối mất vẻ mộng mơ vì mọi thứ rau ăn được bị lính tráng vặt trụi, bữa ăn tươi thường chỉ thịt đôộc nấu cháo, làm nộm hoa chuối hoặc rang mặn với mắm tôm khô đồng bằng gửi lên. Họa hoằn mới thấy bóng hươu nai. Trong cảnh tàn phá dữ dội chỉ có thứ hổ độc hay cọp thành tinh mới dám trụ lại kiếm mồi. Mồi của chúng giờ không chỉ là bầy thú sơn lâm mà cả những chú lính lơ ngơ hoặc các tốp giao liên xuất hành vào giờ Khốc Hại:

… Một miếng, ước gì một miếng thịt nai từ trên trời rơi xuống.

Một miếng bằng bàn tay hoặc bằng hai bao diêm thôi cũng được… Nước miếng anh tứa đầy chân răng, và bao tử anh róc rách mơ có con suối nào đang chảy. Bôn nhắm mắt chặt hơn nữa, nuốt nước bọt. Khi anh làm như vậy, những ý nghĩ tới mau lẹ hơn.

Ngày ở làng bao lần ta vớ được bọng ong rừng. Sao những năm chiến tranh không còn may mắn đó?… Ong cũng sợ đạn bom như các loài thú hoặc vì ta chưa có thời gian rảnh rỗi kiếm tìm?… Có lẽ vậy. Dù bom dội, hoa vẫn nở, bướm vẫn bay đầy lèn đá và như thế, ong cũng vẫn xây tổ làm mật… Ta sẽ thử vận may xem sao?… Giờ cần ngủ một giấc để lấy sức. Sau giấc ngủ, ta sẽ tìm cách lấy một giỏ ong…

Bôn thầm nghĩ, thọc tay vào túi kiểm tra xem chiếc bật lửa còn không. Chiếc bật lửa còn. Trời đã thương anh. Sau giấc ngủ anh sẽ lấy trong ba-lô chiếc may-ô cũ nhất xé làm nùi hun. Anh sẽ lựa chiều để chiếc áo cháy xong đàn ong bay đi hết. Anh sẽ trèo thật nhanh dỡ giỏ ong xuống để dè chừng lũ ong quay lại hoặc một con gấu tấn công. Anh đã mường tượng rành mạch cách đối phó với con thú tham lam kia, nếu nó ẩn núp sau một bụi rậm chờ khoảnh khắc thuận lợi chiếm đoạt chiến lợi phẩm của mình. Anh sẽ nổ súng thật mau lẹ, nhắm giữa hai con mắt hay chính tâm điểm trán tên kẻ cướp. Và sau đó, sẽ có thể là món thịt gấu nướng… Bởi lúc đói thế này, thịt gấu cũng sánh tày thịt nai…

Niềm hy vọng khiến cơn đói nguôi ngoai và anh thấy tự tin hơn. Trước lúc buông mình vào giấc ngủ hoàn toàn anh còn kịp nhẩm tính:

… Mình đã đi được bao nhiêu cây số rồi nhỉ? Mười một, mười hai cây, không có lẽ chỉ mười cây chẵn. Theo hướng Ðông, nếu may mắn gặp đoạn rừng hẹp cũng còn sáu bảy chục cây nữa mới tới miền thưa lục… A, miền thưa lục… Ai dạy ta câu ấy nhỉ?… Chính là tiểu đội trưởng, anh ấy đã nhặt danh từ này trong một câu thơ.

Bôn nghe âm vọng mơ hồ của câu thơ năm nào nghe đọc, rồi anh trượt từ thân cây xuống đám lá rụng và không hay biết gì nữa. Giấc ngủ kéo anh xuống một đường hầm không ánh sáng, một không gian đen thẳm hun hút không bờ không đáy, tựa hồ anh rơi xuống một cái giếng ma rơi mãi rơi mãi không biết bao giờ chạm vào mặt nước… Anh tỉnh dậy khi một cành khô rơi vào vai đau điếng. Cơn đau kéo anh từ cái giếng không đáy từ đường hầm vô tận kia về rừng khộp. Ðám lá quanh anh sực hơi nóng. Anh xoa vai, ngước nhìn vòm trời nhuộm ánh tà dương biết ý định tìm giỏ ong là bất khả.

Chỉ nửa giờ nữa thôi trời tắt nắng và rừng rơi vào bóng đêm nhanh như trở bàn tay. Cơn đói đã qua, giấc ngủ đem lại cho anh sức lực nhưng anh vẫn khát. Anh lắc bi-đông xem có thể nhấp thêm một ngụm nữa chăng nhưng sau đó quyết định xoáy chặt nút bi-đông lại để trấn áp cơn thèm. Ðã có lần đơn vị anh hành quân qua một vùng khô cạn hơn ba tuần lễ, mọi người phải uống nước đái, khi gặp bãi phân voi tươi còn bốc khói ba cậu đã xô nhau áp bộ mặt nứt nẻ vào bãi phân để làn da được dịu đi… Kỷ niệm ấy anh không quên được.

Anh phải dành những giọt nước cuối cùng cho ngày mai, ngày mai và ngày mai… Phải cố bao nhiêu ngày mai nữa để ra khỏi cánh rừng này?… Anh chưa biết… Nhưng anh biết đích xác rằng anh phải gìn giữ một ngày mai. Vì thế, giờ đây anh phải ngủ tiếp giấc ngủ nữa, theo đúng phương cách của lính mùa chỉnh huấn chỉnh quân và đói thực phẩm: Lấy Ngủ bù Ăn. Nắng cuối chiều nhạt. Bôn gối đầu lên ba-lô nhìn vòm lá chuyển màu. Ánh tím đỏ trên các phiến lá già đã ngả sang nâu và dưới các tàn lá thấp một thứ khói chàm mỏng như hơi sương luồn qua kẽ lá.

Rừng rùng mình từng cơn tựa như nổi gió tựa như cất tiếng thở dài tựa như ớn lạnh sởn gai ốc và mỗi lần như vậy lá úa thi nhau lìa khỏi cành chao liệng như đám thuyền nhỏ trước khi đậu xuống. Những chiếc thuyền cỏn con màu đỏ tía màu vàng phai màu nâu ủ dột đẹp vẻ đẹp phù du khiến con ngươi thắc thỏm sợ hãi. Không gian bắt đầu nhuốm mùi hiểm nguy và nỗi kinh hoàng. Bôn ớn lạnh. Anh vội lấy tấm áo thu đông của tiểu đội trưởng mặc rồi mắc võng. Ðêm nay anh không thể ngủ dưới đất vì đất ẩn chứa một thế giới khác và từ thế giới ấy những hồn ma có thể tấn công anh. Mắc võng xong, Bôn mở khuy quần vừa đái vừa đi một vòng quanh võng để nước tiểu rắc một vành đai xú uế chống ma. Ðoạn, anh bỏ cả súng cả ba-lô lên võng rồi leo lên nằm. Trời bắt đầu tối, anh nhắm mắt lại:

… Ngủ đi, ngủ thêm một giấc cho khỏe. Ngày mai ta phải đi một mạch hai mươi cây số không được nghỉ. Phải đi như thế hai hay ba ngày liền mới hy vọng gặp được người… Miễn là người của đằng mình… Không có gì ăn, cũng không đủ nước uống, phải lấy ngủ làm phương tiện duy nhất để phục hồi sức khỏe… Nào, ngủ đi…

Ý nghĩ đó thật rành mạch, quyết đoán, giống như mệnh lệnh khiến anh không còn nghĩ gì thêm. Anh chờ giấc ngủ tới. Nó không tới. Anh bắt đầu đếm từ số I đến 1000 rồi vòng trở lại, nhưng bất chợt một tiếng: Roạt vang lên kèm theo mùi hôi hắc. Bôn mở choàng mắt. Rừng đen kịt. Một con đại bàng đất vừa bay qua, để lại thứ mùi khó ngửi:

… Tổ sư mày, đồ chết giẫm…

Anh thầm rủa con chim, nghe tim đập thình thịch. Chẳng bõ bèn gì con chim đêm mà tim anh đập nhịp mã hồi không sao ghìm nén. Bôn xấu hổ với chính mình:

… Làm sao ta lại đổ đốn ra thế nhỉ?… Ta đã qua bao nhiêu trận mạc, vác xác đồng đội ít nhất cũng bảy lần, chứng kiến cảnh chết chóc triền miên không nhớ rõ… Vậy mà giờ lại sợ tiếng chim đêm. Thật đúng là đồ con lừa… Hãy nhắm mắt ngủ đi… Nhưng một chuỗi cười vang lên khành khạch ở góc rừng, phía dưới chân võng:

– Này anh lính, tôi đố anh ngủ được, cho dù anh đếm từ số một đến một triệu. Ðêm nay anh phải thức để tiếp chuyện tôi. Tôi chờ anh ở xó rừng này đã lâu.

Bôn tự bảo:

… Vớ vẩn, mình chẳng quen ai ở vùng này. Toàn là chuyện tưởng tượng… Anh nhắm mắt và bắt đầu đếm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9… Tiếng cười khành khạch lại vang lên, lần này ngay ở đầu võng và âm thanh rợn như tiếng dao cạo trên tinh nứa:

– Mở mắt ra. Không ngủ được đâu. Anh không thể tự lừa anh lại càng không thể trốn được tôi. Mở mắt ra, tôi đang ở đây và đang nhìn vào mặt anh.

Bôn kéo hai vạt võng trùm kín mặt nhưng hai bàn tay anh bỗng lạnh toát cứng đơ đau điếng như bị hai bàn tay bằng thép nắm chặt và bóng ma cúi xuống thổi vào mặt anh làn hơi giá. Trước tiên hai gò má anh buốt lạnh, rồi hai mi mắt anh tê cứng máu không còn luân chuyển, anh không còn điều khiển nổi và chúng bỗng dưng đờ đẫn mở ra như miệng con sò nướng chín:

– Có thế chứ?

Bóng ma cao giọng:

– Hãy mở mắt nhìn xem chúng ta đã gặp nhau ở đâu?

Một gương mặt trong suốt, xanh như lá mạ đang lửng lơ trước mặt anh, vầng trán rộng và nụ cười đầy riễu cợt:

– Nhớ ra chưa? Chúng ta đã có duyên hội ngộ mà?…

Bôn lẩm bẩm:

– Không… Không thể nhớ…

Bóng ma giơ một bàn tay lên: Bàn tay phải chỉ có bốn ngón hiện rành rành từng đốt xương như tấm phim chụp X quang.

– Hãy nhìn bàn tay phải của tôi: Nó chỉ còn bốn ngón thôi và ngón cụt chính là ngón trỏ.

Bôn gật đầu:

– Ðúng, bàn tay anh chỉ còn bốn ngón nhưng tôi chẳng nhớ đã gặp anh ở đâu.

Bóng ma nói:

– Hãy lục thêm một lần trí nhớ. Anh cũng như tôi còn rất trẻ. Óc minh mẫn như tờ giấy trắng dễ dàng ghi nhận nhiều điều.

Bôn bắt đầu bực:

– Thôi đừng đánh đố, tôi không nhớ được là không nhớ được.

Bóng ma cười:

– Cha cha… Sao mà vô tư vậy? Dễ quên lắm vậy?… Anh nhớ ngọn đồi Sao Trắng chứ?…

– Nhớ. Ðồi Sao Trắng tức cứ điểm phía Tây Nam Bình Quới. Ðơn vị tôi đã diệt gọn quân địch trong một đêm. Sau trận ấy được tuyên dương đơn vị anh hùng và được thịt ba con bò khao quân.

Bóng ma lại cất tiếng cười khanh khách, điệu cười ròn rã như trẻ thơ như đau đớn như cay đắng:

– Sao, bữa cỗ khao quân đó có ngon không?

Bôn đáp:

– Ngon. Mấy tay đầu bếp pha nước tương chấm bò thui ngon tuyệt.
– Trong mùi thịt bò có ngửi thấy mùi thịt chúng tôi không đấy?

Anh trai tôi, chỉ huy đồn Sao Trắng cùng đồng đội của anh ấy đều đã chết vì Rốc-két của các anh. Tôi là kẻ hưởng ân huệ sau cùng.

Tôi đã hứng một tràng tiểu liên của anh khi tôi đứng trong góc kẹt giữa hai bức tường nhà kho… Anh vẫn nhớ hai bức tường ấy chứ?… Chúng quét vôi vàng nên máu và óc tôi vọt bắn ra in nhòe nhoẹt như bức tranh màu. Trên chóp nhà kho cắm cây chong chóng chỉ hướng gió và sau lưng nhà kho chất lổng chổng những hòm gỗ rỗng. Anh đã bị ngã ở đó. Và lúc ấy, đứng trong góc kẹt nếu tôi vẩy một phát súng ngắn thì anh sẽ chết ngon lành, anh sẽ chẳng còn cơ hội lia một băng tiểu liên vào tôi…

Giọng kể của bóng ma đều đều, vừa như vui vẻ vừa như buồn rầu và gương mặt xanh rờn trong suốt đó cao bổng lên, mắt nheo lại ngắm nhìn anh:

– Anh bạn, giờ đã nhớ ra rồi chứ?…

Bôn không đáp. Trí nhớ anh như thung lũng lấp dưới bao nhiêu than tro, bụi đá, sỏi đất những trận bom những luồng đạn pháo những chiến trường dằng dặc liên miên tên cứ điểm này chồng lên tên cứ điểm kia, con đường nhỏ đổ vào con đường lớn, các đoàn quân đi từ đông sang tây từ Bắc vào Nam rồi lại từ Nam quay ngược ra Bắc, anh làm sao nhớ được?… Chừng như bóng ma đoán ra điều ấy, liền cất tiếng sẽ sàng:

– Anh còn nhớ gã trai nhỏ thó mặc bộ quần áo lính Dù đứng giữa hai bức tường nhà kho cứ điểm Sao Trắng, cái gã đeo cặp kính cận và giơ chiếc áo sơ mi trắng lên đầu?…

Trong tâm trí Bôn vụt lên tiếng kêu:

– Giờ tôi đã nhớ…

Hình ảnh gã trai đeo cặp kính cận bỗng trồi dậy qua bao nhiêu địa tầng trong trí nhớ… Phải, lúc đó anh đã trượt ngã khi nhảy qua đống hòm gỗ phía sau nhà kho, anh vượt qua gian nhà sập mái, một kho thực phẩm đang cháy và sau đó chợt nhìn thấy gã trai nọ đứng trong khúc kẹt giữa hai bức tường, gã giương lên đầu vật gì đó trăng trắng và cặp mắt kính long lanh hướng về phía anh. Lúc đó anh không nghĩ ngợi gì đã lia một băng tiểu liên và tiếp tục chạy về phía trước, tiếp tục truy quét đám tàn quân theo tiếng hô của đồng đội:

– Tôi chính là gã trai mang cặp kính cận nhưng giờ đây tôi không mang chúng nữa… Chúng chẳng còn cần thiết dưới cõi âm…

Bôn lặng thinh. Anh hiểu rằng đã đến lúc kẻ ra đi vòng trở lại. Cái oan hồn kia sắp tính sổ với anh… Lúc đó, tại sao anh không đếm xỉa tới tấm áo sơ-mi giơ lên thay cho ngọn cờ trắng?… Anh không biết. Có lẽ anh quên kỉ luật nhà binh, thứ lý thuyết chỉ đọc qua một lần. Có lẽ vì diễn biến trận đánh quá nhanh, anh không ngờ mình có thể gặp hàng binh… Cũng có thể vì trong trận đánh trước, đại đội của anh đã bị diệt quá nửa nên những kẻ sống sót không còn khả năng gìn giữ kỉ luật chiến trường… Cũng có thể lúc đó óc anh mê mụ vì tiếng đạn rốc-két, tiếng trung liên, tiểu liên, tiếng gào thét và tiếng hô xung phong, vì lửa vì khói vì những xác người đổ xuống và tất thảy làm thành bản nhạc siêu thặng kinh dị của chiến trường, thứ âm nhạc ở ngoài tất thảy.

Không một giao hưởng, một tấu khúc nào đạt tới bởi nó khiến con người mê đắm trong cơn say thù hận, chém giết… Không, không…

Anh không biết và anh cũng chẳng cần bào chữa cho mình. Anh nói:

– Tôi nhớ ra rồi… Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Lúc các anh giội bom nghiến nhừ từng đại đội chúng tôi rồi quay về Sàigòn uống bia lạnh và ôm gái các anh có ngửi trong mùi bia mùi máu chúng tôi chăng?… Ðừng hỏi những câu ngớ ngẩn. Muốn làm gì nhau cứ làm…

Gương mặt xanh rờn kia lướt lại gần:

– Anh nói đúng. Chiến tranh là chiến tranh. Anh trai tôi, người chỉ huy đồn Sao Trắng cũng sẽ bắn tới người lính Việt cộng cuối cùng nếu anh có thể… Nhưng tôi là gã trốn lính, là thằng lao công đào binh lên Sao Trắng thăm thân nhân trước lúc trở về Sàigòn.

Bàn tay bốn ngón lại giơ lên trước mắt Bôn:

– Anh hãy xem: Tôi đã chặt ngón tay đó với lưỡi rìu của một ông già Ê-đê khi đơn vị tôi đóng quân ở Ðắc Lắc. Lúc đó tôi nhập ngũ được hai tháng sau khi đã chạy chọt đủ kiểu mà không thoát nạn quân dịch. Vì tội ấy tôi bị tù năm năm, sau đó là ba năm lao công đào binh…

Bôn cắt lời:

– Lúc ấy tôi làm sao biết được bàn tay bốn ngón của anh?

Bóng ma gật đầu:

– Phải, nhưng tôi đã giơ cao tấm áo sơ-mi trắng lên đầu và hẳn anh biết đó là dấu hiệu quy hàng?…
– Tôi cũng đã được học qua nhưng lúc đó tôi quên béng… Giá hẳn là mảnh cờ trắng cho thật rõ ràng đã đi một nhẽ… Ðằng này lại là tấm áo. Tôi biết đâu mà suy ra?…

Bóng ma xanh rượt kia nhếch miệng cười buồn, chẳng phải tiếng cười khanh khách đầy thách thức riễu cợt như lúc trước:

– Tôi thấy anh thực thà… Quê anh ở đâu?
– Quê tôi…

Bôn định nói quê anh miền sơn dã, một xóm giáp Trường Sơn hẻo lánh và thơ mộng… nhưng anh chưa kịp mở miệng một bóng ma khác từ phía sau bóng ma xanh rờn kia chồm tới:

– Câm mồm… Ðã đến lúc mày trả mạng…

Một bóng ma vậm vạp, hung dữ, cao hơn bóng ma xanh nhợt kia cả cái đầu:

– Thằng sát nhân, tới phút mày phải đền em tao mạng sống.

Bôn thấy nửa mặt anh tê điếng như vừa bị cú đấm hiểm độc hoặc bị tọng một báng súng. Anh muốn bật trả lại cú đấm, anh muốn quơ tay lấy khẩu súng nhưng hai cánh tay anh đã tê cứng như đóng thành băng. Anh không động cựa được. Lúc đó, bóng ma ẻo lả kia lướt tới gần:

– Thôi đi anh… Chẳng để làm gì?

Bóng ma hung dữ gầm lên:

– Em ngu lắm… Không ai cao thượng với kẻ thù nhất là thứ kẻ thù ti tiện như bọn Cộng Sản.
– Em xin anh… Anh ta còn quá trẻ. Và anh ta chẳng được học hành.
– Không lý luận. Tao là lính và tao hành động theo cách lính.

Phía sau bóng ma đó, một lũ ma xô tới:

– Ðúng, bẻ cổ thằng sát nhân ấy đi.
– Rút lưỡi nó ra.
– Cho nó một nhát lê vào giữa tim… Mà thằng lính quê đó chẳng có tim đâu. Trong ngực nó chỉ có một quả cật bò hay cật lợn…

Ðám ma lính xông tới, hò hét, khạc hơi lạnh của tử địa vào mặt anh, tất cả giữ nguyên vóc dạng hình hài, trang phục lính. Bôn như ngửi thấy mùi khét của mồ hôi lẫn mùi máu đọng trên những vết thương của họ, mùi dầu chải tóc, mùi áo quần, mùi kẹo cao-su họ thường nhai… thứ mùi quen của bọn thù địch. Lũ ma bên kia chiến tuyến còn ghê rợn hơn lũ ngạ quỷ anh thấy trong các ngôi chùa bởi chúng không phải những hình ảnh do các huyền sử ghi tạc mà là những kẻ thù thật sự, và khi anh đã quên, chúng còn nhớ…

… Chỉ mình ta, đơn thương độc mã, nhưng ta có súng và dẫu đông chúng vẫn chỉ là những hồn ma… Chiến đấu!…

Ý nghĩ đó bật lên trong tâm hồn phẫn nộ của anh, khiến máu anh vọt từ tim ra, lùa luồng khí nóng đi khắp cơ thể, sưởi ấm đôi tay cóng giá. Anh co bóp mấy lần hai bàn tay rồi nắm chặt, chặt đến đau điếng và sau động tác đó, những ngón tay anh lấy lại cảm giác bình thường. Bôn hét to:

– Chiến đấu… Chiến đấu…

Rút cây súng dưới lưng, anh nổ ba phát liền. Rừng đêm rung vang rào rào trút lá. Anh nghe tiếng lá rơi, tiếng chân thú nhỏ chạy xào xạc, tiếng đập cánh của lũ chim đêm trên các vòm cây. Lũ ma biến mất, cả đám ma hung hăng lẫn con ma ẻo lả có gương mặt xanh rờn.

– Chiến đấu…

Anh thét lên lần nữa, say sưa vì thắng lợi, vì sự nhục mạ được tẩy rửa:

– Tao sẽ cho chúng mày biết trong ngực tao có trái tim hay không.

Pằng, pằng, pằng… Ba phát nữa tiếp theo. Rừng lại rung âm vang vọng và lá trút ào ào khắp bốn bên. Ngớt tiếng súng, Bôn giương mắt nhìn quanh thấy đêm im lặng, đen như nhung, an toàn như những đêm xưa:

– Có thế chứ…

Anh cao giọng nói, nghe tiếng vọng lại như tiếng nhạc của thần rừng. Yên tâm, anh nằm xuống, tay chặn lên khẩu súng và tay kia cuốn vạt võng lên che bụng:

… Giờ ta có thể ngủ một giấc cho đến sáng, và sớm mai, ta sẽ tiến hai mươi cây số về phía đông…

Nhưng toàn thân anh nóng sực, thần kinh anh căng thẳng như những sợi dây đàn vặn căng hết cỡ trong cuộc giao tranh khiến anh không thể chợp mắt. Anh lắng nghe tiếng vỏ cây rạn vỡ, tiếng những con bọ bay rè rè, tiếng chuột rừng chạy trên đám lá khô, tiếng chim đêm gõ mõ… Và chợt nhận ra hai tai anh giỏng lên nghe ngóng mọi tiếng động rừng đêm vì trong thâm tâm anh sợ hãi tiếng cười khanh khách của con ma có gương mặt xanh rờn:

… Tại sao ta lại bắn nó?… Cái gã ẻo lả đó. Nó đã giơ cao tấm áo trắng trên đầu. Rõ ràng ta nhìn thấy hai cánh tay gã giơ lên, vạt áo trắng thõng xuống che một phần mái tóc. Hình như óc ta chẳng kịp suy nghĩ trong khi tay ta như cỗ máy tự động bóp cò… Khốn nạn thật…

Anh biết con ma ẻo lả đó đáng sợ nhất vì nó đã tước đi vũ khí của anh. Anh không thể căm thù nó. Anh không thể xả súng bắn sáu phát liền vào nó như vừa bắn lũ ma lính đểu cáng kia. Anh sờ khẩu súng, khấn trời mau sáng và nếu lũ ma còn hiện hình xin hãy là lũ ma lính đồn Sao Trắng, bọn thù địch anh có thể đối đầu không ăn năn khiếp hãi, có thể xả súng khạc đạn hoặc có thể đái vọt vào mặt chúng dòng nước tiểu để xua chúng đi theo cách cổ truyền…

Nhưng trời còn lâu mới sáng và chừng nửa giờ sau, khi thần kinh anh bớt căng thẳng, khi gân cốt anh bắt đầu chùng xuống, giấc ngủ mơ hồ lướt tới một bàn tay lạnh buốt lại đặt lên trán anh:

– Sao, anh không ngủ được à?

Bôn mở mắt, thấy gương mặt xanh và nụ cười buồn:

– Tôi không có ý định hành hạ anh. Nhưng tôi không hiểu nổi việc anh làm. Tôi không hiểu được cái chết của tôi và giờ đây tôi muốn chúng ta trò chuyện…

Bôn ngồi nhỏm dậy. Anh biết nếu còn tiếp tục nằm anh sẽ chết ngạt bởi làn ánh sáng xanh rợn toát ra từ gương mặt trẻ trung kia, nó có thể là làn khí độc thoát ra từ những con hồ chứa thủy ngân hoặc những lọ độc dược bọn phù thủy thường dùng để tiêu diệt đối thủ:

– Hình như anh còn kém tuổi tôi?… Ở nông thôn, người ta đăng lính sớm…

Bôn nói:

– Tôi đã bảo anh rồi: Chiến tranh là chiến tranh, không ai tính được trong lúc đạn réo bên tai, đạn cày trước mặt. Tôi chẳng thù oán gì anh, nhưng trời xui đất khiến anh lạc vào đồn Sao Trắng và tôi phải xử với anh như với kẻ thù.
– Tôi hiểu.
Bóng ma đáp nhẹ nhàng, không nhìn vào mặt anh mà hướng ánh mắt về phía trước:
– Ngay từ đầu tôi đã nói: Tôi chờ anh nơi xó rừng này để trò chuyện, tôi không tính nợ máu như những kẻ ân oán chốn giang hồ. Hãy yên tâm, tôi chẳng làm gì phương hại đến anh.

Bôn đáp:

– Tôi chẳng sợ. Anh muốn làm gì cứ việc làm.
– Ồ, sao anh lại cáu?… Ðêm còn dài và chúng ta có thể chuyện trò thả sức… Anh có vợ chưa?
– Rồi…

Bôn đáp trong khi tiếng rên rỉ bật lên trong trái tim anh:

… Ðêm còn dài nhưng tôi muốn ngủ, tôi không muốn đối mặt anh, chuyện trò với anh. Không ai muốn đối thoại kẻ mình đã sát hại… Nhưng bóng ma dường như không biết tới tâm trạng của anh, tiếp tục cuộc nói chuyện một cách khoan dung:

– Dân miền núi các anh lấy vợ sớm thật… Như thế, anh cưới vợ năm mười chín tuổi?
– Mười bảy.
– Trời đất, thế vợ anh bao nhiêu?
– Cô ấy bằng tuổi tôi.
– Chị ấy xinh không?
– Vợ tôi đẹp như tiên, chẳng xấu xí như tôi.
– Anh không xấu dù anh chẳng đẹp… Anh có cặp mày chữ nhất và đôi mắt u uẩn như mắt dân Chàm. Chị ấy có viết thư cho anh không?
– Năm đầu tôi nhận được hai lá… Từ đó đến nay không có nữa.
– Bên các anh phương tiện thư tín khó khăn.
– Phải, chúng tôi không có viện trợ Mỹ. Chúng tôi không đủ thịt hộp, lương khô, sữa hộp, thuốc lá và thuốc men như quân địch.
– Nhưng đạn dược thì hẳn là nhiều.
– Cũng có đôi khi không đủ… Ðôi khi chúng tôi phải rút quân sớm vì không chuẩn bị đủ cơ số đạn… Nhất là B40 và B41.
– Các anh được nhận đạn của cả Liên Xô và Trung Quốc, sao thiếu được.
– Nhận của ai cũng mặc mẹ họ… Tôi không muốn nói mãi chuyện ấy…

Bôn nổi khùng vì tim anh đau thót, dường như cuộc nói chuyện với hồn ma kia là cuộc thôi miên dẫn anh vào độc đạo, càng đi hơi thở càng suy yếu ngột ngạt, tâm hồn anh càng tả tơi tan mủn như mảnh giấy báo dầm mưa… Anh cần phải rút khỏi cuộc đối thoại này trước khi trở thành xác chết:

– Thôi thôi, anh đi đi…

Anh đột ngột thét lên:

– Tôi đéo nói chuyện với anh nữa… Cuốn xéo đi đi đi…

Bốn bên, rừng lặp lại tiếng anh. Và những tiếng vang nghe rùng rợn, nghe ma quái như không còn là tiếng của chính anh mà là tiếng vọng từ hang sâu vực thẳm nào đó. Anh chộp khẩu súng, lên đạn giương về phía bóng ma:

– Ði đi… Tôi chẳng thù oán gì anh nhưng tôi không thể đối mặt anh… Ði đi, nếu không tôi bắn…
Anh nghe có tiếng cười khe khẽ, gương mặt xanh rờn kia không xao động:

– Ðạn không bắn thủng được hồn ma. Chúng tôi sẽ giữ mãi hình hài của chúng tôi lúc chết. Hãy nhìn xem: lỗ thủng trên trán tôi vẫn còn.

Bóng ma xáp gần, giơ ngón tay chỉ vào vầng trán rộng và Bôn thấy trên vầng trán đó lỗ thủng đen tròn viên đạn anh để lại.

Bóng ma tiếp tục nói:

– Tôi không làm hại anh, nhưng anh chẳng thể trốn tránh tôi. Chúng ta không thể chối bỏ hành động của chính mình, bất cứ ai cũng vậy… Tại sao anh lại bắn tôi lúc đó?… Tôi đã giữ mạng sống cho anh, tôi đang đợi anh tới để nộp cờ hàng. Tôi biết chúng ta cùng nòi giống và lẽ ra chúng ta không nên làm cuộc chiến tranh thảm sầu, nồi da nấu thịt…

Bôn không rời mắt được cái lỗ thủng đen và tròn trên vầng trán xanh xao kia. Có những viên đạn khác nữa ở vị trí cao hơn đã bửa tung cái đầu gã trai khiến máu lẫn óc vọt lên hai bức tường. Cảnh tái hiện khiến anh kinh hãi:

… Phải… lúc ấy mắt gã long lanh. Ta nhớ đôi mắt đầy thiện ý. Và giá như ta bước tới, gã sẽ bỏ tấm áo trắng kia xuống và ngoan ngoãn bước đi. Ta có thể nhốt tạm gã vào gian phòng nào đó rồi sau trận đánh thả gã về thành phố…

Những ý nghĩ ấy cày trong óc não anh những rạch cày buốt xót. Gã trai ẻo lả đó đã chết vì tay anh. Và khi thu dọn chiến trường nào ai còn để tâm tới bàn tay phải có bốn ngón của gã?… Nào ai biết gã là kẻ phản chiến và lẽ ra gã còn có cơ hội được sống dưới ánh mặt trời… Anh thấy anh sắp tắt thở, liền kêu rống lên:

– Tôi không biết, tôi không biết… Lúc ấy tôi chẳng nhớ gì, và…

Lưỡi anh tắc lại, hơi thở yếu xìu, có lẽ anh sắp hết hơi và chỉ vài giờ nữa anh sẽ chết nếu tiếp tục bị con ma kia tra khảo:

… Trời ơi, giá tiểu đội trưởng ở đây, giá có anh ấy bên ta lúc này ta sẽ chẳng còn khốn khổ. Tiểu đội trưởng là dân Hà Nội, anh ấy sẽ đủ lý lẽ để thuyết phục con ma thành phố kia, và biết cách bảo vệ ta…

Anh hối hận vì đã không lường trước khúc nhôi này, không đem tiểu đội trưởng theo mà chôn anh ấy lại góc rừng sát cứ điểm 327:

… Lẽ ra ta phải cõng anh ấy theo… Giờ đây ta côi cút và anh ấy cũng côi cút…

Bóng ma xanh rờn kia vẫn đứng trước đầu súng, chẳng mảy may run sợ. Bôn nói tiếp, nghe giọng anh lạc hẳn đi, gần như tiếng van vỉ:

– Anh đi đi… Ði đi…

Bóng ma cất tiếng thở dài. Hơi thở cuốn theo làn gió lạnh. Làn gió đầy âm khí lướt qua mặt qua vai Bôn khiến toàn thân anh sởn gai ốc và sống lưng như muốn sụn xuống. Bôn biết anh sắp chìm vào cơn tê bại lúc trước nên nghiến răng bấm cò súng. Một tràng đạn rung giật rừng đêm, xô lắc đám cành cây, lá úa thi nhau trút đổ. Tiếng súng lắng, anh giương mắt nhìn: Bóng ma kia vọt lên cao như trái bóng của trẻ nhỏ như đám lông chim bay liệng giữa không trung. Anh biết rằng khoảnh khắc nữa, khi mùi thuốc súng tan lắng hoàn toàn, rừng im lặng hoàn toàn, nó sẽ lại nhẹ nhàng đáp xuống như con bướm, trước mặt anh, đưa cặp mắt ma trống rỗng nhìn anh, tiếp tục cuộc hỏi cung từ tốn và kinh rợn. Anh quỳ gối, mở khuy quần, rút bộ phận sinh dục giờ trở thành vũ khí tùy thân, tia nước tiểu về phía trước. Nhưng anh chẳng có nước uống nên nước tiểu tia ra một chút rồi tắc lại. Bôn thót bụng hòng vắt kiệt chút nước tiểu còn sót trong bọng đái, dù là máu anh cũng muốn nó biến thành thứ nước khai nồng vào lúc này, nhưng mọi cố gắng của anh đều vô hiệu. Anh đành cài khuy quần, ngồi nhìn bóng ma lững lờ giữa không gian đen thẳm của rừng đêm, tay nắm chặt khẩu súng nhưng không dám bắn thêm một phát đạn nào vì còn phải để dành phòng hờ bọn thám báo… Rồi anh nghe tiếng cười của bóng ma từ trên cao vọng xuống. Rồi anh thấy hai ống đùi nó đong đưa, đong đưa, hai ống đùi không đầu gối không cẳng chân bàn chân… Chẳng loài ma nào có chân cả. Cặp đùi nhẹ bỗng đung đưa trong không gian đôi lúc như sắp lao vào mặt anh đôi lúc lại lảng xa xa, tiến về hướng khác… Mồ hôi anh toát ra, cơn căng thẳng khiến đầu óc anh lúc nóng sừng sực, lúc tê dại… Dần dần, anh thấy hai đầu gối không còn trụ vững, xương bánh chè long dần, rã rời lục cục như mấy mảnh gỗ trong ống quần, tay anh hạ dần khẩu súng xuống. Khi cây súng nằm gọn trong lòng võng, hai cánh tay anh cũng mất hết cảm giác cứng đờ, buốt lạnh. Anh ngã chúi mặt bụng úp lên cây súng. Phía trên lưng anh một bàn tay lướt dọc như muốn làm động tác xoa vuốt, bàn tay xương xẩu chỉ còn bốn ngón, ngón trỏ đã bị tiện cụt đi.

Sớm hôm sau, Bôn thức dậy trong tư thế kì cục ấy. Anh nằm úp mặt xuống võng, chổng mông lên trời hai gối quỳ dưới bụng và khẩu súng dưới gối. Ðầu gối anh thâm tím, quần áo tẩm sũng mồ hôi lẫn sương lạnh toát, tim đập đau nhói từng hồi. Bôn nhảy xuống, tháo vong, mở bi-đông tự cho phép mình uống hai ngụm nước để lấy sức đoạn vặn chặt nắp bi-đông đeo vào lưng. Anh khoác ba-lô quay lại nơi chôn tiểu đội trưởng. Anh đi một mạch, không quay đầu lại phía sau, không nghỉ. Sự thúc hối sống còn khiến chân anh bước vùn vụt như kẻ nhập đồng. Ðoạn đường hôm qua đi được không dài lại không có khúc rẽ nên hơn hai tiếng đồng hồ sau anh đã quay lại đúng góc rừng giáp cứ điểm 327. Bôn tìm đám lá cây khắc chữ X. Ở giữa chúng, mồ tiểu đội trưởng đã lút dưới tầng lá khộp. Bôn vẫn nhớ cự ly từ ngôi mộ đến các gốc cây xung quanh. Cào lớp lá chẳng bao lâu anh thấy nấm đất vuông hiện lên. Anh bỏ ba-lô sang bên, rút dao găm đào đất. Lưỡi dao gọt theo hình chữ nhật rồi dần đưa sâu vào bên trong. khi lưỡi dao vừa chạm tới lớp tăng liệm cũng là lúc trên đầu anh vang lên tiếng kền kền: Một, hai, ba rồi bốn con bay tới, lượn vòng trên các vòm cây, lúc chao bên phải, lúc chao bên trái, mắt chúng quăm quắm theo dõi lưỡi dao dưới tay anh. Bôn nhặt mấy cục đất to ném:

– Cút mẹ mày đi… Tổ sư lũ khốn…

Câu chửi vừa dứt anh bật ho một tràng dài. Ngắt cơn ho Bôn mới biết mùi tử thi đã bốc lên xộc thẳng vào họng anh khiến anh nghẹt thở. Lũ kền kền ngửi thấy mùi tử thi trước anh. Chúng là bạn đồng hành với cái chết, đất chiến trường nơi nào cũng có chúng dù núi cao hay bình nguyên, thung lũng hay cát cồn ven biển. Lần đầu Bôn thấy chúng khi anh cùng Tấn và Kha, hai cậu bạn Nghệ Tĩnh đi hái rau rừng. Qua núi Xiêng Mai bất chợt lũ chim ăn xác vọt bay qua đầu họ, vừa bay vừa buông tiếng kêu ken két như kim loại cọ vào nhau và cánh chúng quạt ra thứ gió nồng nặc mùi thịt người thối khẳm… Ba người lính đứng chết lặng một hồi vì sợ. Ðó là lần đầu họ bắt gặp sứ giả của Tử thần. Lát sau, bình tĩnh lại, họ quay về góc núi kín nơi lũ kền kền vừa bốc bay lên. Góc núi ấy khuất sau những tầng dây leo um tùm xanh ngợp kết thành bức bình phong khổng lồ treo lủng liểng những chùm hoa đỏ nhợt nhị đen, lá dày nổi gân thẩm trông như đúc bằng nhựa màu lục. Thứ lá ấy đụng phải da sẽ sưng rộp trong khoảnh khắc và sau đó vài ngày chúng làm thành thứ mủ vàng đục rất tanh. Họ đã nếm mùi nên phải thận trọng tìm lối đi vòng để tới được bãi mồi của lũ chim ăn xác. Càng tới gần, mùi tử thi bốc lên càng ngột ngạt. Trong không khí tẩm liễm thứ mùi ghê rợn ấy, những toán kền kền khác tiếp tục bay lên, không giống như lũ chim lúc trước vừa bay vừa cất tiếng kêu ầm ĩ mà là những con chim béo mụp, nặng nề, vỗ cánh chậm chạp. Vì quá béo, chúng không còn kêu được, chỉ thì thoảng phát ra một tiếng: Két cụt lủn. Mắt chúng cũng lờ đờ hơn những con kền kền đói. Chúng bay qua mặt tốp lính, từng con một, dửng dưng, không thèm trốn tránh, không sợ hãi, tiếng đập cánh nặng nề của chúng làm không gian trong xó núi thêm cô đặc mùi tử địa và nỗi kinh hoàng. Ba người tới tận nơi: Một góc đất rộng chừng vài trăm thước vuông rải rác xương và những mảnh áo quần bị xé rách, quần áo lính đeo trên các tử thi chưa kịp mục nhưng bị xé rách tươm vì nanh thú dữ và mỏ chim. Không con thú nào còn lại đó vì thịt đã thối khắm. Chỉ còn lại lũ kền kền. Vài con đại bàng đất nghiêng ngó cái đầu trụi bẩn thỉu xấu xí…

Không hố bom. Không vết mìn nổ… Vậy những người lính chết vì lý do gì?… Những chiếc đầu lâu lẫn những chiếc ba-lô. Bôn đếm hơn ba chục đầu lâu: một trung đội. Họ chết vì lý do nào?… Hai người bạn nhìn anh và tất cả những ánh mắt đều chung nỗi hoài nghi. Không ai trả lời ai. Không ai dám lên tiếng. Hơn ba chục chiếc đầu lâu bị tha đi tha lại, lăn lóc, biến dạng, mảnh tóc mảnh thịt dính lươm nhươm… Ðó là những đồng đội của họ, sống cuộc sống gần gụi với họ và có thể là ảnh tượng của chính họ trong một ngày mai rủi ro nguy khốn… Ba người không ai bảo ai câm lặng đi bẻ cành khô, kiếm lá khô quấn thành nùi lớn rồi ném lên đống xương chưa kịp rã hết thịt thối. Phải ngót bốn tiếng đồng hồ họ mới kiếm nổi số củi cành ước lượng tạm đủ cho cuộc hỏa thiêu. Họ cũng chẳng thể nấn ná lâu hơn vì mặt trời bắt đầu xuống núi. Kha châm mồi lửa ném vào đống củi cành. Lúc đó, Bôn và Tấn mới lên tiếng. Cả hai lẩm nhẩm khấn:

– Anh em sống khôn chết thiêng xin chứng giám cho chúng tôi. Chúng tôi không đào đâu ra xăng bột, cũng chẳng kiếm đủ củi khô để hỏa thiêu anh em thật sạch. Xin cầu trời khẩn phật cho vong hồn anh em được siêu thăng, sớm được đầu thai kiếp khác để hưởng cuộc sống an bình… Rồi ba người đứng cúi đầu mặc niệm đám đồng đội vô danh. Trong lúc lửa đã lan từ núm mồi sang các đám củi cành và các thân gỗ khô ải. Lửa bắt đầu bốc cao, Kha bảo:

– Về thôi.

Sau tiếng hô của Kha, cả ba người quay lưng chạy. Họ chạy như điên như rồ như ma quỷ hoặc thần dịch hạch đuổi sau lưng. Họ cắm đầu phóng qua các bụi gai, theo nhau trượt như con cù trên các dốc núi, nhảy qua các bờ vực mà lúc bình thường họ không dám liều mạng đưa chân… Rồi họ trở về đơn vị, không một ngọn rau trong tay, ảnh tượng của những người đồng đội xấu số vẫn bám chặt vào óc não, mùi tử thi bám trên da thịt quần áo, nỗi kinh hoàng ngấm vào từng lỗ chân lông. Cả ba ngã dụi giữa lán, thở muốn đứt hơi, chẳng kịp nói với bạn hữu lời nào và cứ thế òa lên khóc…

Kỷ niệm cũ quay về khiến Bôn sững sờ trong giây lát. Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt mấy lượt liên tiếp như để xua đuổi hình ảnh góc núi Xiêng Mai, những tử thi lăn lóc phía sau tấm bình phong xanh lục khổng lồ treo những chùm hoa đỏ nhợt… Hồi lâu, khi đã thật sự trấn tĩnh, anh ngước nhìn lũ kền kền đậu trên cây đang hau háu chờ đợi… Cũng loài chim kinh tởm này, nhưng giờ đây không có Tấn, không có Kha chỉ mình anh đơn thương độc mã chống lại chúng:

… Phải tấn công trước, lấy tấn công làm chiến lược…

Anh vơ một vốc cục đất to đứng lên vừa hét vừa liệng về phía lũ chim ăn xác:

– Cút… Cút mẹ mày đi… Cút cút… Cút cút cút…

Lũ kền kền kêu thét, vỗ cánh bay lên nhưng sau vài vòng lượn chúng lại theo nhau đáp xuống một cành cây chỉ cao hơn đầu anh vài sải tay.

Mặt trời đã lên cao, hơi nóng lan dần trong các tầng lá. Bôn quỳ xuống tiếp tục đào. Anh phải đi khỏi rừng này, tiến về phía Ðông, tiến về phía sự sống. Anh không được phép chần chừ. Mặc kệ mùi tử thi và lũ chim ăn xác. Mùi tử thi nào có thấm gì với nỗi cô đơn và sự khiếp hãi đêm qua anh phải chịu?… Chỉ cần sự hiện diện của tiểu đội trưởng mọi bóng ma thù địch sẽ lùi xa và anh sẽ an toàn. Cả hai sẽ cùng tiến về phía Ðông. Tiểu đội trưởng, hồn ma chiến thắng sẽ đánh bại lũ ma đồn Sao Trắng sẽ xua đuổi hồn ma xanh xao ẻo lả, sẽ bảo trợ và đem lại nguồn sức mạnh cho anh. Và anh, kẻ yêu anh ấy với một tình yêu chung thủy sẽ mang anh ấy về với đồng bằng… Họ sẽ bên nhau, cho tới phút vinh quang ấy…

Mười lăm phút sau anh đã xốc được tử thi khỏi huyệt. Lũ kền kền bắt đầu nháo nhác kêu, theo nhau lượn vòng trên đầu anh. Hơi gió Tây lùa mạnh hơn bốc mùi tử thi và đưa âm vang tiếng kêu của lũ chim ăn xác, tiếng kêu hoan hỉ hội hè.

– Cút… Cút… Cút ú út…

Bôn hét. Nhưng tiếng hét của anh đã yếu, lọt thỏm giữa rừng già chẳng ảnh hưởng gì tới lũ chim đang khép chặt vòng bay, mắt sáng nhoáng nhăm nhăm nhìn con mồi, mỏ và móng dường như đang sẵn sàng nhay rỉa. Buột chặt một cành cây. Khi đã nắm trong tay thứ vũ khí mới anh vươn thẳng lưng nhìn lũ chim thù địch:

– Ðịt mẹ chúng mày. Tưởng cỗ dọn sẵn rồi hả?… Cỗ đây, cỗ đây, cỗ đây, cỗ sẵn rồi đây…

Anh cất tiếng chửi tục rất to và cứ mỗi nhịp hô, anh lại quật cành cây khiến lũ kền kền phải vọt lên cao. Bôn dừng tay gài dao vào lưng, thở một lúc. Khi đã hoàn hơi anh tháo nút dù buộc nơi cổ tử thi, rút trong túi quần đoạn dây dù khác rồi mở đầu tấm tăng thắt hai góc thành hai nút tai lợn, buộc vào mỗi nút một đầu dây, hai đầu kia nối lại vừa vặn tròng qua vai. Như thế, anh có thể kéo xác chết đi một cách dễ dàng trong khi gương mặt vẫn để hở. Anh đã tính, cần để gương mặt tiểu đội trưởng ra ngoài cho gió tản bớt mùi thối và cho anh bớt lẻ loi. Gương mặt tiểu đội trưởng đen sạm, một màu đen âm u khiến anh không dám nhìn lâu. Không ngờ màu da đổi nhanh đến thế. Trong trí nhớ của anh chỉ duy nhất một gương mặt trắng trẻo tươi cười cặp môi duyên dáng và mấy nốt ruồi tụ như quần đảo nơi gò má.

… Giá có chút phấn văn công và thỏi son là đủ làm anh ấy tươi đẹp như cũ… Ước gì ta có…

Bôn từng gặp mấy cô văn công quân khu vào một sớm tinh khôi khi các nàng xuống suối đánh răng rửa mặt. Nước da tái mét lẫn làn môi trắng nhợt của các nàng khiến anh sửng sốt. Ðêm qua dưới ánh đèn sân khấu các nàng lộng lẫy như tiên giáng thế và suốt đêm hình ảnh các nàng hiện lên trong giấc mơ của anh hòa trộn với hình ảnh Miên, người vợ nhan sắc ở quê nhà… Bôn đã biết phép màu nhiệm của hóa trang, giờ anh muốn thực thi phép màu ấy trên gương mặt tiểu đội trưởng… Nhưng rủi ro, trong tay anh chẳng có vật liệu gì. Nếu đây là vùng đất sét đỏ anh có thể dùng bột đất sét thay phấn. Giá đây là vùng hang động anh có thể kiếm vài thỏi nhũ nghiền thành bột trắng phủ lên mặt tử thi. Nhưng đây là rừng khộp chỉ lá rụng và lá rụng. Rừng khộp. Vô tích sự làm sao?…

Anh suy tính một lúc trong khi đám kền kền bắt đầu cất cánh lượn, dường như nỗi sợ hãi đã qua và mùi hấp dẫn của con mồi kéo chúng về phía anh.

– Roạt…

Bôn cầm cành cây quất mạnh rồi quỳ xuống mở ba-lô. Anh vừa nhớ tới ống thuốc đánh răng dùng dở. Ống thuốc hiệu Côn-gác cô giao liên trạm 72 cho anh sau một ngày anh đưa cô đi hái rau rừng và giặt hộ cô chiếc võng lẫn tấm chăn dù… Phải, không phấn không son không bột đất sét đỏ không nhũ đá nhưng anh có thứ kem trắng tuyệt vời, thơm tuyệt vời, nó có thể trả lại một phần màu sắc cũ cho gương mặt người đã mất. Anh móc ống thuốc đánh răng lên, mở nắp và bắt đầu hóa trang cho gương mặt chết. Thoạt tiên, anh quét thuốc lên cặp môi thâm xịt của tử thi lấy ngón tay miết đều cho chất kem phủ kín, rồi tới hai má và vầng trán. Còn lại khoảng cằm với phần da cổ xám ngoét, anh ngẫm nghĩ vài giây rồi quyết định bóp thêm kem xoa thật mỏng. Sau chót, anh bôi thêm lần nữa chút kem dọc sống mũi và khoảng giữa hai tràng mày. Ống thuốc hết nhẵn:

… Cóc cần, xuống bếp xin bọn cấp dưỡng nắm muối đánh răng càng chắc. Miễn là tìm được đường về…

Bôn đá vỏ hộp kem đánh răng đi, thắt ba-lô rồi quàng sợi dây dù qua vai, lẩm nhẩm:

– Tiểu đội trưởng ơi em đưa anh cùng đi tìm đơn vị… Sống khôn chết thiêng xin anh hãy chỉ đúng lối ra rừng…

Anh nhìn lần nữa gương mặt tử thi trắng bốp rồi quay lưng đi.

Xác chết trượt trên lớp lá khô khá dễ dàng, hoặc linh hồn thân yêu kia đã phù trợ cho anh thêm sức mạnh… Bôn đi một mạch không nghỉ, quên rằng anh chẳng có hột cơm nào trong bụng đã ba ngày ba đêm và mấy ngụm nước anh tự cho phép mình uống sớm nay đã từ lâu tiêu tán. Vừa đi, Bôn vừa liếm những giọt mồ hôi trên môi dường như những giọt nước mặn từ chính cơ thể anh tiết ra giờ đây là nước lấy từ hồ lô của Ðức Phật Như Lai có thể nuôi dưỡng anh ba ngàn ngày không cần ăn uống. Bôn cắm cúi đi cho tới lúc mặt trời sắp lặn, cảm thấy vật gì đó đang lôi tử thi lại. Quay đầu nhìn anh thấy hai con kền kền đậu trên khúc chân tử thi đang cố sức xé tấm tăng:

– Lũ đểu… Lũ khốn nạn này…

Anh buộc chửi. Lũ kền kền đã rượt theo anh suốt đường đi nhưng không dám xà xuống mà chuyền trên các ngọn cây. Thi thoảng anh vẫn canh chừng và vẫn đếm đủ bốn con như bọn yêu quái tháp tùng hay đúng hơn lũ mã tà canh ngục. Chỉ chừng hơn một giờ qua, vì mệt, anh không còn ngoái đầu lại nữa, chúng đã lặng lẽ đậu xuống tử thi, không sợ hãi chẳng kiêng dè cái con người đang sống cách chúng già một sải tay. Bôn dừng lại, bỏ sợi dây trên vai xuống. Hai con chim tinh khôn bay vọt lên ngọn cây, không kêu một tiếng mắt chúng gườm gườm nhìn thẳng vào mắt anh đầu chúng ngó nghiêng một cách trâng tráo:

… A bây giờ chúng sẽ đánh lén sau lưng ta. Bắt đầu cuộc chiến tranh du kích… Sẽ thật khó khăn với lũ khốn nạn này…

Anh rút dao chặt một lô cành, lấy dây buộc thành nùi như kiểu dân chài kết chà cho cá trú. Ðoạn anh cột mớ cành cây lên tử thi. Lúc anh làm xong, trời cũng vừa tắt nắng. Gió dịu lại và đám lá úa quay chầm chậm trong ánh chạng vạng của rừng. Cơn khát bắt đầu thức dậy.

… Phải ngủ ngay. Ngủ ngay tức khắc. Bi-đông chỉ còn vài ngụm nước cho ngày mai và ngày kia… Rồi còn có thể sau ngày kia nữa. Hôm nay ta đi chưa nổi hai chục cây số. Chắc chắn không thể lần ra nước trong miền rừng này. Ta phải ngủ. Ðêm nay, chẳng con ma nào dám quấy nhiễu ta. Ðêm nay sẽ là đêm phục sinh cho sức khỏe và lòng tin. Ngày mai đi tiếp…

Anh nghĩ, và tức khắc hai mi mắt anh nhíu lại:

… Có mắc võng không nhỉ?… Thôi, mắc võng làm gì. Ta ngủ cạnh tiểu đội trưởng. Ðể anh ấy nằm cuối gió. Chẳng còn gì đáng sợ đêm nay…

Anh bò qua đám cành cây ngụy trang trên tử thi để tìm chỗ nằm nơi đầu gió. Rồi buông súng và ba-lô xuống đám lá rụng, anh quài một cánh tay lên phía đầu tử thi và ngủ ngay tức khắc…

Hôm sau, không phải nắng xiên hay cành cây gẫy đánh thức Bôn mà là nhát mổ của lũ chim ăn xác khiến anh kêu thét. Ngồi bật dậy, anh thấy ngay cánh tay đang ròng ròng chảy máu:

… Bỏ mẹ, nhiễm trùng mất… Nhiễm trùng…

Ý nghĩ đó vụt đến anh tỉnh ngủ tức khắc. Anh vội mở ba-lô lấy túi thuốc cá nhân, tìm lọ thuốc sát trùng bôi lên vết thương. Khi lỗ thịt bị đứt đã thấm đầy thuốc, anh lấy bông lau khô cả thuốc lẫn máu rồi tiếp tục bôi lượt thuốc khác lên. Vết thương bắt đầu đông máu. Anh bôi chút mỡ chống nhiễm trùng, áp miếng gạc lên rồi băng vết thương lại. Xong xuôi, Bôn gỡ mớ cành cây ngụy trang trên tử thi. Ðám cành vừa quăng xuống, ba con kền kền nối nhau bay lên vừa bay chúng vừa kêu quang quác như lũ quạ già. Trên gối xác chết tấm tăng đã bị xé rách. Vết xé dài non hai gang. Ðó là cửa chính cho lũ kền kền vào ăn tiệc. Chắc chắn chúng đã bắt đầu bữa cỗ bằng vết thương trên đùi trái. Lúc trời sáng, một trong bốn con chim định tấn công cái đầu tử thi nên đã mổ vào tay anh.

… Khổ thân anh, chúng đã dứt bao nhiêu miếng thịt trên xác anh rồi?… Em biết làm cách nào để chống lại chúng đây?…

Bôn bắt đầu sợ. Lũ chim đã luồn dưới đám cành ngụy trang im lặng xé rách tấm tăng và ăn thịt người đồng đội của anh trong khi anh đang ngủ. Một kẻ đói khát và suy yếu ngủ cũng gần như một tử thi… Ðám cành cây kia chẳng thể chống lại chúng. Vậy anh biết tìm thứ vũ khí nào đây?… Anh không thể hò hét vì tiếng hét của anh không còn làm chúng khiếp sợ. Anh chẳng còn đủ sức hét. Anh cũng không thể dùng cành lá xua đuổi vì trong khi kéo tử thi về phía đông anh không thể ngoái lại phía tây. Và dù có ngoái lại, anh cũng không còn đủ sức cầm cành cây. Anh đói. Tệ hơn nữa, anh khát. Cơn khát nguôi dịu trong giấc ngủ giờ bắt đầu cào cấu, mặt trời và gió càng nóng lên bao nhiêu, khát càng dữ bấy nhiêu. Bôn đặt tay lên bi-đông nước, trong lúc mắt không rời lũ kền kền. Cả bốn con cùng đậu một hướng trên cành cây và những cặp mắt thủy tinh của chúng nhìn anh chăm chú, thản nhiên, không mảy may hồ nghi, không mảy may chùn bước rằng đây là một cuộc đối đầu và kẻ thù của chúng là cái sinh vật đang đứng dưới đất kia, to xác nhưng thiểu não và gần như bất lực vì đói khát và đơn lẻ… Bôn rùng mình. Anh hiểu rằng giờ đây lũ chim ăn xác là kẻ thù của anh, kẻ thù chưa từng tưởng tượng ngay cả trong giấc mơ ngông cuồng nhất, nhưng chính vì thế chúng khủng khiếp. Anh không còn gì để chống lại chúng, để giữ gìn người đồng đội, ngoài chính bản thân anh:

… Trước hết ta phải uống một chút. Một ngụm. Một ngụm thôi…

Ý nghĩ ấy đứt nửa chừng. Anh mở nắp bi-đông nhấp từng giọt, từng giọt để cảm nhận sự hồi sinh một cách chậm rãi:

… Một ngụm rồi. Ta được quyền uống thêm ngụm nữa. Còn ngày mai. Còn ngày kia a a a…

Cái âm tiết cuối cùng của chữ ngày kia ngân dài trong anh như dòng suối chảy như nỗi hoài nghi như giấc mơ xa xôi chập chờn. Bôn đưa mắt nhìn xung quanh. Rừng và rừng. Cây và cây. Những đám lá rụng đã mục nằm dưới lớp lá khô bên trên, những chiếc lá mới rụng còn nguyên vẹn đầy đặn chưa bị sâu ăn kiến đục còn giữ đủ các đường gân nổi lẫn sắc màu rực rỡ… Trước và sau. Bên phải và bên trái. Sau thân cây này là thân cây kia. Sau hàng này là hàng khác. Bên vòm lá cao là vòm lá thấp. Rừng chập trùng vây bủa rừng chăng lưới quây thành rừng mê cung bát quái trận đồ không cho con người lối thoát. Bao năm đi lính, giờ anh mới thấy khiếp sợ rừng, dù anh vốn là dân miền sơn dã:

… Tiểu đội trưởng ơi sống khôn chết thiêng xin anh chỉ lối đưa đường. Em chỉ còn ngụm nước cầm hơi, biết làm sao chống chọi lũ chim ăn xác?…

Bôn khấn thầm. Anh không dám bật thành lời vì điều đó khiến anh tiêu hao năng lượng. Anh phải dè sẻn chút sức lực còn lại để theo đuổi hành trình. Ðoạn anh nhìn đám cành cây tính toán: Không thể dùng cành cây phủ xác chết nhưng có thể gỡ những cành cây còn tươi đan chiếc rọ, nói đúng hơn là dùng từng khúc dây dù cột chúng thành chiếc rọ chụp lên đầu tử thi để bảo vệ cặp mắt người đã chết. Mọi linh hồn khi tách rời thân xác bay lên nhờ ánh sáng chiếu rọi từ cặp mắt mà tìm được lối vào thiên đường hoặc cửa ngõ đầu thai. Một tử thi không đầu hoặc bị khoét mắt linh hồn sẽ lang thang vĩnh cửu trong cõi u tì và dễ rơi vào tay loài ma quỷ.

Không, anh không thể để lũ kền kền chạm tới đôi mắt tiểu đội trưởng cũng như không thể để chúng moi tim hay móc mắt chính anh. Bôn ngồi xuống, moi cuốn dây dù nhỏ trong túi quần. Tiểu đội trưởng và đồng đội vẫn gọi anh là Thằng Bôn hàng xén vì anh thường tích trữ các đồ lặt vặt. Cái cửa hàng xén của anh giờ thật hữu ích. Với cuốn dây dù nhỏ, anh cắt thành nhiều khúc gút các cành cây lại theo kiểu đan rổ hai lớp. Vì cành khộp cứng quèo nên hì hục hơn hai giờ đồng hồ liền Bôn mới đan xong một thứ méo mó, chẳng ra rọ cũng không ra rổ nhưng tựu trung có hai lớp cành cây chằng ngang chằng dọc khiến lũ kền kền không thể rúc đầu qua. Anh chụp thứ rọ cồng kềnh ấy lên đầu tử thi, kiếm mấy đoạn dây lớn và chắc hơn cột chiếc rọ với hai vai, luồn dây vài lần qua nách cho chắc chắn. Sau cùng, khi anh kéo thử xác chết thấy chiếc rọ lúc lắc dặt dẹo nhưng luôn luôn chụp cứng bên ngoài cái đầu giống thứ mũ có lưới sắt các kiếm sĩ thường đội trong cuộc tỉ thí. Hoàn toàn an tâm với sáng chế của mình, anh nhìn lũ kền kền thầm chửi:

… Con mẹ chúng mày, giờ cứ việc bay theo…

Lũ chim ăn xác vẫn đứng thành đội ngũ trên cành khộp, nhìn anh bằng cái nhìn nửa như vô cảm nửa như đe dọa. Nắng đã soi ngang mày. Bôn tiếp tục cuộc hành trình về phía đông, phía hy vọng và sự sống. Chân anh sục vào đám lá khô như lưỡi cày sục vào rãnh cày. Có lẽ hai chân anh bắt đầu phù nề nên bước đi nặng hơn, chậm hơn, chệnh choạng:

… Sao thế nhỉ?… Sao mình đi như thằng say rượu?…

Anh thầm hỏi. Nhưng không thể trả lời vì không còn sức nghĩ tiếp. Anh níu lấy sợi dây trên vai, cúi đầu nhắm hướng đông mà bước, bất luận lên dốc hay xuống dốc, nền rừng phẳng hay gồ ghề… Ðôi lúc, anh không bước mà buông thân lăn xuống bờ vực khiến cả đống lá khô lẫn tử thi cùng đổ ụp xuống theo. Bôn đi như thế cho tới lúc nắng soi sau gáy, chợt thấy mỗi bước chân như có sợi dây níu ngang như có bàn tay vô hình kéo lại. Anh quay đầu nhìn về phía sau: Lũ kền kền vẫn bám trên tử thi. Một con đứng trên lỗ vải bị xé rách đang rúc mỏ rỉa còn ba con kia đã chui hẳn vào trong tấm tăng khiến tấm vải phập phồng:

… Vẫn lũ khốn nạn ấy. Nhưng chúng không đủ nặng để cản chân ta… Hay hồn ma xanh rờn bữa trước?… Không, không, kể từ khi mang tiểu đội trưởng đi theo, ta ngủ mỗi giấc mười hai mười ba tiếng liền chẳng mộng mị cũng không bóng ma trêu chọc. Vậy vì lý do nào?…

Bôn tự hỏi. Rồi bất chợt anh không nhìn lũ chim mà nhìn xuống bàn tay mình. Hai bàn tay đang run. Run không ngừng. Giống hệt chứng run tay của những người già sắp kề miệng lỗ:

… Khốn nạn… Sao ta lại mắc bệnh run tay vào tuổi này?… Ở quê nhà, chỉ những người ngoài tám mươi tám mươi nhăm mới mắc chứng đó…

Anh ngắm thêm lúc nữa thấy cả hai cánh tay cũng đã run theo và rồi hai đầu gối cũng run như để làm thành bản hòa tấu run rẩy. Anh chợt hiểu mình suy kiệt. Ðói. Khát. Căng. Anh ngồi xuống, nhìn hai gối lẫn hai cánh tay tiếp tục run bần bật không sao ghìm giữ được. Dường như chúng không còn thuộc về anh, chúng là những sinh vật độc lập tự hành động theo ý muốn của chúng. Anh muốn khóc. Nỗi buồn tràn phủ trái tim anh, như mây giông giăng kín bầu trời ngày bão lớn. Hình như hai giọt nước mắt vừa trào lên mi. Chắc là hai giọt lệ bé nhỏ bởi chúng không lăn xuống gò má, chỉ vừa nhấp ướt vành mi bỏng rát. Sau đó, mắt anh nhíp lại, không sao mở nổi. Mặt trời chiếu vào gáy anh làn hơi nóng như lửa phả ra từ miệng lò nung gạch nơi quê nhà. Anh hình dung làn khói trắng bay trên vòm trời những đêm thanh bình xa ngái những đêm trong suốt lưa thưa sao sáng bếp lửa nhà ai dậy lên mùi nếp rang ngào gừng mật và ông thợ cả trông lò gạch rút từ làn tre ra chiếc đùi dê nướng… Giấc ngủ ngày thứ tư đã bắt đầu với giấc mơ giữa nắng, giấc mơ yên lành và ngon ngọt, bầu trời lắc rắc sao, mùi ngào ngạt của nếp rang tẩm mật lẫn mùi thịt dê thui uống với thứ rượu nếp già… Có lẽ anh đã ngủ liền hai mươi bốn giờ hoặc lâu hơn nữa để khi anh thức dậy mặt trời đã đứng ngọ và không khí oi nồng của rừng khộp trộn lẫn mùi tử thi thành một khí quyển đặc sệt hãi hùng. Lũ kền kền không còn nhìn anh với con mắt thù hằn nữa. Những cặp mắt thủy tinh của chúng hướng về anh bình tĩnh, ung dung, kiên nhẫn. Cả bốn con cùng đứng trên tử thi xếp thành đội ngũ. Cả bốn con hoặc vừa rỉa lông, gãi mỏ hoặc nghển cổ nhìn anh. Và Bôn chợt hiểu rằng ánh mắt hiền hòa bình thản kia là ánh mắt bọn đao phủ chờ phút hành quyết kẻ tử tù, rằng giờ đây trước mắt chúng anh chẳng còn là đối thủ mà chỉ là con mồi dự trữ, cái khối thịt không nhúc nhích hơn một ngày đêm kia chắc chắn là một thây ma và sẽ tới lúc chuyển mùi. Một nỗi tức giận ghê gớm bùng lên tựa hồ dòng sinh lực còn ẩn chứa nơi sâu thẳm tâm hồn anh bất chợt vọt lên:

– Lũ khốn…

Anh bật tiếng chửi, lao cả thân mình về phía lũ chim.

– Roạt… oạt…

Cả bốn con chim cùng cất cánh bay nhưng chẳng hề vãi một tiếng kêu. Cử chỉ đột ngột của anh không làm cho chúng hoảng sợ mà chỉ khiến chúng kinh ngạc. Lũ chim lượn vài vòng rồi đáp xuống đậu trên mô đất nhỏ cách anh vài sải tay. Ở đó, chúng tiếp tục rỉa lông rỉa cánh như để trêu chọc anh tiếp tục nhìn anh với cái nhìn bình thản chăm chú đầy vẻ xác tín của những kẻ có chủ quyền.

– Con mẹ chúng mày…

Bôn cất tiếng chửi lần thứ hai nhưng lần này tiếng anh không cất nổi qua vòm họng bởi các âm thanh đã dính bết nơi cuống lưỡi. Cơn khát dai dẳng khiến các bộ phận trong miệng anh trở nên khô cứng. Họng anh nóng, đau rát khiến anh không thể tiếp tục há ra thêm một lần nữa. Anh bước loạng choạng về phía mô đất, vồ lũ chim. Lần này, anh ngã sấp mặt xuống mô đất còn lũ chim bay trở lại đậu trên tử thi.

– Lũ khốn nạn… Con mẹ chúng mày…

Anh cất tiếng chửi lần thứ ba, lần này chỉ là tiếng chửi thầm trong óc não. Rồi anh tiếp tục vồ bắt lũ kền kền. Anh không hiểu vì sao anh làm như vậy nhưng nỗi căm giận không buông tha anh và anh nhất quyết phải vồ được chúng, phải bóp được chúng trong tay…

Nhưng anh cứ vồ trượt mãi. Rồi mặt anh đập vào mũi giầy xác chết. Anh không còn thấy đau nhưng thấy nhục, các giác quan anh gần như tê liệt nên cảm giác đau gần như mất hẳn, nhưng ý thức về sự nhục nhã vẫn còn. Như dòng lũ mỗi lúc mỗi đầy tràn, nỗi nhục dâng lên dìm đắm tâm hồn anh. Phải một lúc lâu anh mới lồm cồm bò dậy nổi, nhìn lũ chim ăn xác, những con vật bình thường chẳng ai đếm xỉa, loài chim bẩn thỉu nhờm tởm giờ đây bỗng trở thành kẻ thù hùng mạnh hơn anh, khống chế anh. Anh con người đói khát lẻ loi đã chiến bại. Cuộc chiến đấu tuyệt vọng của anh đã diễn ra trước những cặp thủy tinh ngạo nghễ nhạo báng của chúng:

… Không. Không. Không. Không. Không…

Tiếng thét vọt dậy trong tim anh. Nhưng ngay cả tiếng thét cũng chỉ còn khe khẽ, mơ hồ như tiếng rung của sợi đàn bầu vọng qua thung lũng. Anh cứ nằm úp mặt xuống đất hồi lâu như thế để thở, và lắng nghe nỗi uất hận nguôi dần:

… Tấn ơi Kha ơi Quý ơi Thanh ơi Trấn ơi Tường ơi Phiến ơi Trù ơi… Các cậu ở đâu hãy mau đến với tôi… Tôi không muốn chết tôi không thể chết. Tôi phải đưa tiểu đội trưởng ra khỏi rừng…

Anh chống tay từ từ ngồi dậy, từ từ choàng sợi dây qua vai. Mọi cử chỉ thật chậm chạp. Hai tay anh không còn run lật bật như hôm qua nhưng chúng chệnh choạng và từng động tác phải dò dẫm nghe ngóng như cử động của một người già trong cơn bệnh trọng.

… Tiểu đội trưởng ơi em cùng anh lại tiến về đồng bằng, về đồng bằng… Chúng ta phải thoát khỏi nơi đây. Em sẽ chôn anh gần đồng bằng và ngày nào đó khi đất nước yên…

Những ý nghĩ ấy nhẹ nhàng như làn khói mỏng bốc bay trong óc não anh. Lâng lâng ánh nắng đỉnh đèo, bình nguyên bình nguyên sáng láng những chân trời xanh rờn sóng biển… Anh kéo tử thi và đặt một bàn chân về phía trước, khi cảm thấy đất đã chạm vào gan bàn chân đó anh tiếp tục đưa bàn chân kia lên… Tiến bước. Sợi dây dù cọ riết vào hai vai anh, nhưng da đã tê anh chẳng còn thấy đau hay rát. Tiến bước. Tiến về phía đông. Tiến về đồng bằng.

Bôn không còn nhớ anh đã đi được bao lâu. Toàn bộ cảm thức và sinh lực trong con người anh chỉ còn để điều khiển hai cẳng chân đặt hai bàn chân lần lượt xuống mặt đất, để chúng trụ được dưới thân xác anh, để thân xác anh không rời tuột sợi dây kéo tử thi và toàn thể các bộ phận ấy còn di chuyển được về phía trước. Anh đã nhấp nốt giọt nước cuối cùng và quẳng chiếc bi-đông vào bụi cây ven lối. Giờ thì chẳng còn ước mong được gì thêm ngoài giấc ngủ. Anh tiến bước trong khi hai mắt anh dấp dính ngủ. Khi chân anh không đưa nổi về phía trước anh đổ kềnh xuống như thân chuối bị chặt và chìm vào giấc ngủ đen ngòm. Giấc ngủ không mộng mị như vực tối, hun hút như hang sâu. Sáng hôm sau những chiếc móng sắc của lũ kền kền quắp vào ngực anh làm anh tỉnh giấc. Anh vớ chiếc mũ cố quật vào chúng, nhưng cử chỉ của anh quá chậm và quá yếu nên lũ kền kền đã kịp bay sang đậu lên tử thi. Chiếc mũ lăn xuống: Anh chậm chạp bò tới nhặt mũ đội rồi chống hai tay vào gối đứng lên. Choàng sợi dây kéo tử thi qua vai anh tiếp tục đưa chân về phía trước: tiến về phía đông. Những chùm nắng sớm xuyên qua tán lá rọi thẳng vào hai mắt anh. Cảm giác ấm nóng khiến anh khoan khoái. Anh vừa bước vừa lim dim và trong khoảng khắc đó cây cầu vòng đa sắc của tuổi thơ hiện lên, cây cầu vòng sau những cơn mưa rào đầu hạ:

… Giao ơi Thịnh ơi Tốn ơi Nguyên ơi Dư ơi Yêm ơi Minh ơi Quang ơi Tạo ơi, các cậu ở đâu bây giờ?… Bao giờ chúng ta gặp được nhau. Bao giờ nhỉ?…

Anh lại cất tiếng run rẩy sẽ sàng trong tâm tưởng và tiếng gọi ấy triệu hồi những sớm mai cỏ ướt đẫm sương những sớm mai long lanh rộn ràng chim hót lũ trai trẻ ôm nhau vật lộn đùa nghịch trên cỏ thằng bóp vai thằng đấm lưng thằng bóp dái nhau xem đứa nào có hai hột cà to nhất… Những thanh âm của ban mai xa ngái ngân nga trong anh, đu đưa bông lan chuông nơi góc từng một khoảnh rừng mơ mộng suối chảy lá reo chẳng phải thứ rừng khộp khô nẻ chết chóc chỉ tiếng kêu của lũ chim ăn xác. Bông lan chuông tím đung đưa, đung đưa mãi cho tới lúc anh không còn bước nổi và anh ngã gục mặt vùi trong đám lá mục thiếp đi. Ngày thứ bảy anh thức dậy đã non trưa, lũ kền kền đang moi ruột tiểu đội trưởng ra ngoài giằng xé. Lỗ thủng trên tấm tăng toang hoang. Lũ chim vừa xé các khúc ruột vừa ken két kêu dường như chúng không chỉ ăn cỗ mà còn biến bữa tiệc thành chốn vui chơi đùa cợt:

… Ðịt con mẹ chúng… mày… Anh thầm cất tiếng chửi nhưng ngay tiếng chửi thầm cũng không bật ra nổi, chúng như những tàn tro tơi tả rơi xuống. Cơn uất hận tựa làn hơi độc không thoát ra được khiến Bôn tức thở, xây xẩm mặt mày. Anh lướt tới, dùng mũ quật lũ chim nhưng tay anh không còn giơ nổi nên anh đành buông thõng tay nhìn những con vật ghê tởm và nước mắt anh từ từ lăn ra. Lần này, có hai giọt lăn xuống gò má. Ðã mấy ngày anh không còn nước uống. Những giọt nước mắt ấy hẳn đã chắt ra từ chính máu anh: Anh đã thua. Anh đã thua. Anh đặt hai cánh tay lên đùi. Nước mắt anh đã cạn rồi. Và tại sao anh lại lãng phí chúng vì những con chim ghê tởm kia? Nếu tiểu đội trưởng còn sống, ắt hẳn anh ấy sẽ mỉm cười: Ðấy chẳng phải cách thức của đàn ông…

Một chiếc lá khộp đỏ ối bỗng rời cành quay lộn mấy vòng trước mắt Bôn rồi mới rơi xuống. Hẳn đó chính là vong hồn tiểu đội trưởng ra dấu hiệu để nhắc nhở anh. Anh phải tiếp tục đi.

… Ta phải đi. Không thể thua cuộc… Không thể thua…

Bôn đeo ba-lô đội mũ rồi khoác sợi dây dù qua vai. Giờ đây nó là vật nặng nhất vì bi-đông nước lẫn khẩu súng anh đã ném bỏ. Anh dò dẫm đặt từng bước, từng bước, nhích tử thi theo. Và từng bước anh lần lượt điểm tên những chàng trai cùng đăng lính một lần, cùng tiểu đội, cùng trung đội, cùng đại đội:

… Ðỉnh ơi Nghĩa ơi Sinh ơi Khánh ơi Hạnh ơi Phát ơi Thước ơi Toàn ơi Tân ơi Doãn ơi Hưng ơi Sơn ơi Hùng ơi Chi ơi…

Những chiếc lá khộp màu nâu màu vàng chanh màu cam màu mận theo nhau rơi xuống trước mặt anh, sau lưng anh, rải rác lên tử thi đang bị lũ kền kền cấu xé. Dường như anh sắp ngã dường như anh sắp ngủ dường như sắp rơi xuống một dòng sông màu chì không cầu không thuyền không sóng nước phẳng lặng như gương rồi anh sẽ chìm dần chìm mãi mãi:

… Mình chết mất… Chết trong cái rừng khộp chó đẻ này. Mẹ ơi Cha ơi Miên ơi…

Anh kinh ngạc khi thấy cả ba người anh yêu nhất trên đời đều đứng như ba bóng ma bên kia bờ con sông màu chì không cầu không thuyền không sóng. Họ chẳng trả lời anh, chẳng giơ tay vẫy, cũng chẳng biểu lộ một tín hiệu nhỏ nhoi nào để anh hiểu rằng họ đã nghe anh gọi. Họ đứng như ba cái bóng, dửng dưng, vô cảm với những cặp mắt rỗng.

… Mẹ ơi, cha ơi, Miên ơi… Tôi chết mất…

Trong tâm hồn anh có những giọt lệ từ từ lăn chảy. Chúng giống những giọt sương trong thung lũng ban mai… Tại sao nước mắt giống như sương khi con người tự khóc thương mình?… Anh không hiểu. Và nỗi băn khoăn ấy lơ lửng bay theo anh như những sợi bồ công anh trong lúc anh thu hết tàn lực nhích từng bước về phía trước.

Mặt trời càng lên cao, hơi thở anh càng chìm xuống. Vào lúc hai mí mắt anh sắp dính tịt lại anh chợt nhìn thấy một người lính lấp ló sau những đám lá khộp đang quay đảo. Một tiếng gọi giật róng vang tới:

– Anh em ơi, người đằng mình… Có người đằng mình…

Tiếp theo là tiếng lao xao rất quen thuộc của đoàn quân, tiếng chân bước trên lá khô, tiếng lách cách va đập, giọng nói hòa trộn…

… Ai thế nhỉ?… Ai giống như Na như Quốc như Ðường như Mai như Nha như Ðảng như Tuấn như Huân như Hạc như Thống?… Anh em ơi, tôi đây, người đằng mình đây… Tiểu đội trưởng ơi, chúng ta thoát rồi. Chúng ta đã gặp đồng đội. Lũ kền kền không thể rỉa mắt anh được nữa. Linh hồn anh với đôi mắt sáng sẽ bay về phía thiên đàng nơi những sớm mai trong lành những sớm mai rộn ràng tiếng chim rì rào suối hát và lũ trai vô tư vui đùa trên cỏ…

Sau những ý nghĩ đó, anh chợt nhớ tới lũ kền kền, bầy chim thù nghịch đã hành hạ anh suốt cuộc hành trình:

… Ðịt con mẹ… chúng… mày nhé…

Lần này câu chửi đã vọt ra được, dù chỉ trong tâm tưởng. Sau câu chửi đó anh được giải thoát, người anh nhẹ hổng hân hoan và anh chẳng còn hay biết gì nữa…

Mười hai hôm sau Bôn tỉnh dậy trong y viện quân đoàn. Tiểu đoàn anh tám trăm tám mươi người chỉ còn lại một trăm lẻ bảy. Một đại đội thuộc tiểu đoàn khác đã bắt gặp anh vừa lúc anh ngã ngất đi, kéo theo một tử thi bị lũ kền kền rỉa chỉ còn sót hai vai và cái đầu. Họ đã chôn tiểu đội trưởng ngay tại bìa rừng khộp.

Ở đó, còn năm trăm thước nữa là xuống đồng bằng.

Người thành phố thường dậy muộn hơn dân quê. Nhưng dòng đời phố xá bốc lên nhanh như đám cháy được tưới dầu. Khoảng sáu giờ rưỡi sáng các gian hàng còn khóa chặt, chỉ các cửa ra vào lười lĩnh hé nửa cánh cho mấy người giúp việc ra quét vỉa hè hoặc để mấy bà chủ đầu còn ghim đầy những lọn cuốn tóc vừa bước ra vừa che miệng ngáp áo quần nhàu nhỉnh hớ hênh tìm gọi người bán bánh cuốn rong hoặc sôi nóng hoặc bánh mì pa-tê loại bình dân cho bữa sáng của chồng con. Tới 7 giờ, tất tật các gian hàng đã mở, sáng choang, hàng hóa bầy đâu vào đấy người chạy ra chạy vào nườm nượp. Không gian đầy màu sắc, đầy âm thanh, và cũng bắt đầu bốc bụi. Giữa dòng đời náo nhiệt ấy, Hoan sống lãng đãng như kẻ mộng du. Anh chẳng thức khuya cũng không dạy sớm. Thường bảy rưỡi sáng anh mới mở mắt nhưng còn nằm dài trên giường khoảng ngót một tiếng sau mới ra khỏi phòng. Giờ ấy, chị Nền đã nấu sẵn nồi nước lá thơm cho anh tắm. Mặc dù thời hiện đại, dân thành phố dùng đủ loại xà-phòng và sữa tắm ngoại nhập nhưng anh vẫn tắm nước lá cổ truyền. Ðúng thứ nước lá thơm mẹ anh vẫn tắm cho anh hồi nhỏ. Lá chanh, lá bưởi, hương nhu, cúc tần, lá sả… mùa nào thức ấy.

Tuyệt diệu nhất vẫn là những ngày cuối đông hoặc sau Tết nguyên đán, lúc đó các cây mùi đã già, lụi hoa, kết hạt đem chúng lên nấu trong những thùng nước lớn, hương thơm xông ngào ngạt, thứ hương nửa đồng nội nửa phòng the vừa gợi cho con người sự tinh thiết vừa buộc người ta tơ tưởng đến những khuôn ngực để trần.

Sớm hôm đó, Hoan vừa ra khỏi phòng tắm chị Nền đã đứng chờ anh:

– Cậu ăn sáng gì để tôi mua?
– Em chẳng ăn gì cả.
– Thế cậu dùng một tách cà-phê nhé… Cà-phê nhà không được thơm để tôi gọi quán Nhân đem sang.
– Chị đừng lo, em chẳng uống cà-phê đâu, mà em cũng chẳng đói.
– Cậu nói lạ, người đang xuân thì, không ăn sáng lấy sức đâu làm việc?…

Hoan nhìn ánh mắt hoảng hốt của người đàn bà vừa như chị vừa như mẹ vừa như đầy tớ trung thành, đành nhượng bộ:

– Thế chị mua cho em gói xôi đậu xanh vậy.

Chị Nền yên tâm quay đi. Hoan ngồi pha ấm trà uống. Từ sáng hôm qua anh yêu cầu chị không làm món trứng nhúng nước sôi với lý do ăn trứng nhiều không tiêu được. Thực đơn thường ngày hai bà chị dành cho anh là ba quả trứng gà la-coóc ngày xưa ông giáo ưa thích sau đó cộng thêm một khoanh bánh mì hoặc một nắm xôi và tách cà-phê. Họ chẳng biết thứ thực phẩm đó làm đêm đêm anh khốn khổ. Vợ anh đã trở thành vợ kẻ khác. Người đàn bà góa Xóm Hà đã ngủ yên trong quá vãng và cơn đói dục tình không nguôi dịu khiến đêm đêm anh như kẻ ra đấu trường tỉ thí một mình.

– Xôi còn nóng đây, cậu ăn ngay đi.
– Em xin.
– Có ăn đường tôi mang thẩu đường lại.
– Cho em chút xíu.
– Sáng nay cô Kim Liên tới đây với đứa con gái.
– Cô ta vác xác tới đây làm gì?
– Cô ta đến lấy tiền… Cậu quên rằng tháng tháng mình vẫn phải góp tiền nuôi đứa bé ấy theo quy định của tòa án?
– Chết thật…

Hoan thốt kêu. Anh quên thật. Quên hoàn toàn bởi lâu nay chị Châu và chị Nền đã thay anh làm phận sự đó, cái phận sự hết sức phi lý mà người đời đã đặt lên vai anh. Món tiền chẳng là bao song lẽ nó là thứ nguyệt liễm bắt buộc anh phải đối mặt với quá khứ, cái quá khứ dù có muốn quên cũng không đủ sự dung thứ để lãng quên.

Sau đám cưới tai tiếng cô Kim Liên vẫn nghiễm nhiên xách áo quần về nhà ông bà giáo Huy, còn anh xách áo quần sang trú ngụ ở thôn Bảo, trong căn chòi cất rớ. Sáu tháng sau cô Kim Liên cho ra đời một đứa bé gái da nâu tóc quăn tít, chắc chắn nó phải thừa hưởng máu huyết của người đàn ông nào khác chứ không thuộc dòng giống của ông giáo Huy. Phố xá đến xem mặt đứa trẻ, nườm nượp như để minh chứng cho nỗi oan uổng của Hoan nhưng mọi người đều sợ uy ông phó chủ tịch thành phố và ngại cái mồm có quai của bà trưởng cửa hàng nên chỉ dám thì thào sau lưng họ. Bà Kim Lan tuyên bố:

– Cá nhà ai vào oi nhà ông giáo Huy vẫn là cá của ông giáo Huy.

Ông bà giáo nhẫn nhục chấp nhận. Ðứa bé được khai sinh với họ Trần. Và như để nhắc nhớ cuộc hôn phối ông phó chủ tịch thành phố đích thân đặt tên cho cháu ngoại: Trần Nguyễn Kim Loan. Họ tổ chức lễ thôi nôi cho đứa trẻ to hơn cả cỗ cưới của mọi gia đình khác… Nhưng tất thảy những sự kiện đó diễn ra như màn độc thoại. Bởi Hoan không về. Anh nằm lì trên chòi cất rớ làng Bảo. Hoặc đọc sách hoặc cất rớ và đêm đêm chờ cây cầu thang rung chuyển. Ông phó chủ tịch ngậm đắng nuốt cay im lặng. Ông thương con lẻ loi và chờ cơ hội. Vào thời kì đầu cuộc chiến, khi xảy ra vài cuộc thăm dò của phi cơ Mỹ và dăm trận khiêu khích vùng giới tuyến dân thành phố lẫn các huyện đã phải học tài liệu về âm mưu địch, về những nguy cơ chiến tranh, tầm quan trọng của tinh thần cảnh giác cách mạng… Một tối, Hoan đang nằm hóng gió trên chòi, có tiếng quát:

– Ai trên chòi, yêu cầu xuống ngay.

Anh chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng thong thả tụt xuống. Dưới chân chòi lố nhố một đám người nai nịt sống ống.

Hoan vừa đặt chân xuống mặt đất, có tiếng quát tức thời:

– Anh là ai?

Cái giọng hách dịch lố lăng khiến Hoan bực. Anh đáp:

– Tôi là tôi.
– Không được hỗn láo với chính quyền. Họ tên là gì?
– Trần Quý Hoan.
– Hộ khẩu đâu, xuất trình?
– Hộ khẩu ở số nhà 17 phố Phạm ngũ Lão.
– Người ở đâu hộ khẩu phải ở đấy. Cớ chi anh tới đây?
– Tới đây kéo rớ.
– Chúng tôi đã theo dõi anh nhiều ngày nay. Cá anh kéo chỉ đưa vào nhà ăn hoặc thả xuống sông, anh không làm nghề như những dân chài khác… Hãy khai thật động cơ tới làng Bảo này?
– Không có động cơ gì hết.
– Chúng tôi được lệnh bắt tất cả những kẻ khả nghi về trụ sở ủy ban giao nộp cho tỉnh đội điều tra. Anh là kẻ khả nghi. Anh đã bị bắt. Hoan chưa kịp có phản ứng gì. Thậm chí anh chưa hiểu vì đâu và vì lý do nào bỗng dưng anh gặp cơn cắc cớ này. Anh ngơ ngẩn hoang mang và chính ngay lúc ấy, cái giọng hách dịch kia đã hô to:
– Các đồng chí, trói nó lại đưa về trụ sở.

Trong đám đen lố nhố, hai bóng người nhảy lại bẻ quặt hai cổ tay anh bằng một sợi thừng:

– Ði…

Cái giọng hách dịch đó hô tiếp. Một báng súng thúc vào lưng Hoan và cả bọn dẫn anh đi dọc bờ cát. Anh không biết mặt ai trong đám đông ấy, cũng chưa từng nghe cái giọng hách dịch kia bao giờ. Từ ngày đến làng Bảo, anh chỉ quen biết vài người quanh xóm Bính, xóm chuyên cất rớ sông và vài quán bán chè bán nước xung quanh. Có lẽ đám người bắt anh là dân quân thuộc làng Cát, làng kế cận làng Bảo nhưng cùng một xã Bảo Ninh. Họ thực hiện một cái lệnh nào đó của ủy ban xã… Thật tồi tệ. Anh không thể hình dung ngày nào đó anh bị liệt vào hạng người khả nghi và bị bắt, bị trói, bị đối xử một cách thô bạo như vậy… Nhưng chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh… Anh bắt đầu hồi tưởng những gì đài phát thanh xã Bảo Ninh và cả đài phát thanh thành phố từ bên kia sông ra rả vọng sang, những lời lẽ hùng hồn và quyết liệt, rạch ròi, và tàn nhẫn… thứ văn chương đó hứa hẹn súng dao, máu đổ, đầu rơi:

… Ta dại khờ… Rất có thể có những kẻ dựng chòi cất rớ bên sông để chỉ điểm cho máy bay bắn phá, hoặc thám thính tình hình dân cư, sự phòng bị và phân bố các lực lượng quốc trang… Ta chẳng có tội nhưng chính cuộc sống bất thường của ta đã khiến họ nghi ngờ…

Trên quãng đường đi tới căn phòng đầy rệp mà người ta tống giam anh, Hoan không ngừng băn khoăn về sự dại dột của mình về cuộc sống vô công rỗi nghề đã tạo cớ cho kẻ khác hồ nghi. Những ngôi nhà đen thù lù bên đường càng gia tăng nỗi sợ hãi ấy. Từ ngày có các cuộc khiêu khích của máy bay Mỹ, dân không được thắp đèn đêm. Chỉ được dùng đèn phòng không, đặt trong hộp, lỗ sáng khoét không lớn hơn con đom đóm. Khu nhà của ủy ban xã cũng đen ngòm. Một người trong bọn vẩy cây đèn pin trong tay soi ổ khóa, kẻ khác thò chìa mở. Hai cánh cửa có song sắt mở ra, một bàn tay cởi sợi thừng sau lưng Hoan và ẩy anh vào:

– Anh ở đó. Sớm mai sẽ khai báo.

Họ khép hai cánh cửa, kéo sợi xích loảng xoảng qua hai hàng song sắt và bấm ổ khóa tách một tiếng khô khục. Anh đứng lại trong gian phòng, nhìn qua hàng song sắt thấy đám người lô nhố đi xa dần, lặng lẽ như những bóng ma, chẳng ai nói thêm một lời nào nữa. Khi họ mất hút trong bóng đêm, anh vẫn đứng sững sờ, chẳng hiểu vì sao những kẻ anh không oán thù, không tranh giành lợi lộc lại có thể trói anh, thúc báng súng vào lưng anh và sau rốt đẩy anh vào một căn buồng tối tăm bốc mùi tanh và mùi mốc…

Ðêm ấy Hoan không ngủ. Anh ngồi trên đống phoi bào lẫn với lưới rách. Nơi đây hẳn đã từng dùng để chứa đồ hỏng và cũng đã từng giam người. Linh tính mách bảo anh như vậy. Lũ rệp từ mọi xó xỉnh mò đến tấn công. Hoan vừa gãi vừa mò mẫm giết chúng. Mùi máu rệp bốc lên hăng xè, hòa với mùi tanh lưu cữu của các manh lưới cũ và mùi mốc. Thứ mùi rất khó quên. Anh đã ngồi như thế cho tới tận bình minh. Khi nắng chiếu, anh mới thấy đám xác rệp be bét máu trên sàn xi-măng. Ðêm qua anh đã tàn sát chúng ra trò và chúng cũng đã hút máu anh ra trò. Vệt rệt đi thành lối, dẫn từ những cây cột nhà tới. Hoan đứng lên xem. Các kẽ nứt trên thân cột có hàng ngàn con rệp nhung nhúc. Dù ban ngày, chúng không dám bò đi bò lại nhưng vẫn nhúc nhích cựa quạy chen chúc nhau trong nơi ẩn náu quá chật hẹp. Hoan bất giác rùng mình, trong đám hàng ngàn con rệp này đêm qua mới chỉ vài trăm con tấn công anh. Nếu họ còn tiếp tục giam anh ở đây, hẳn lũ rệp sẽ lần lượt tới thăm anh cho tới khi anh còn sức mà giết chúng. Ðám xác rệp trên sàn gió đã thổi khô, dạt vào như nắm vỏ đỗ, lẫn với phoi bào. Lẫn trong đám phoi bào và lưới rách, anh nhìn thấy vài hòn gạch vỡ, mấy chiếc vỏ ốc, vài vỏ hộp đựng kim vá lưới. Hoan đá đi đá lại mấy chiếc vỏ hộp, bất chợt thấy một cây kim bật ra. Anh cầm cây kim cũ rỉ bắt đầu cuộc tàn sát lũ rệp. Chọc kim vào khe gỗ, anh khêu từng con ra, dùng mũi kim cắt thân chúng làm đôi. Xác rệp dính trên thân cột gỗ chỉ mươi phút sau đã khô queo rụng xuống. Hết rạch nứt này đến rạch nứt kia anh đã giết sạch lũ rệp bám trên thân cột đầu tiên. Lúc hơi nóng hừng hực trên đầu anh mới biết không kẻ nào đến đây để thẩm vấn anh như bọn người đêm qua đã hứa. Ném cây kim, Hoan ngồi xuống sàn:

… Họ đã nói dối, cái lũ người đã tự xưng là chính quyền, đã quát nạt ta, đã thúc báng súng vào lưng ta… Và tại sao ta đưa ta cho bọn họ trói một cách dễ dàng như vậy. Ðêm không đèn lửa và lũ người bắt ta cũng không đọc lệnh bắt người. Ta là kẻ có chữ mà chịu bắt nạt như một gã nông phu thất học thời cũ…

Anh giận thân, đói và mệt. Tiếng gà gáy trưa eo óc từ nhà nào vẳng tới. Anh chẳng còn cách nào hơn là ngả lưng xuống đám lưới rách, chập chờn ngủ. Trong giấc ngủ đó, con tim anh đập nặng nề, tâm hồn anh khắc khoải, vừa oán hận một kẻ thù vô danh vừa sợ hãi một thứ tội lỗi chưa tìm ra diện mạo.

Quãng bốn giờ, bốn rưỡi chiều có tiếng mở khóa, tiếng xích loảng xoảng trên song cửa, một cô gái mặt tròn xoe lấy chân gạt rộng hai cánh cửa rồi xách chiếc làn tre bước vào:

– Cơm anh đây nè.

Cô nói, đoạn vừa liếc nhìn anh vừa mở làn lấy ra một tô canh cá còn bốc khói với đĩa cơm trên cắm cây thìa:

– Anh ăn đi.

Hoan hỏi:

– Những người giam tôi có nói với cô điều gì không?

Cô lắc đầu quầy quậy:

– Em nỏ biết, nỏ biết chi… Anh ăn đi hồi nữa em quay lại…

Nói đoạn cô hấp tấp đứng lên, chạy khỏi gian nhà và khóa cửa lại. Hoan hiểu rằng anh chẳng thể hy vọng gì nơi cô gái này. Có thể cô đã từng ở trong hàng trăm cô gái làng chài thường vụng trộm ngắm anh hoặc trêu ghẹo anh, nhưng cô cũng là nữ dân quân tự vệ xã và người ta giao cho cô nấu cơm canh cho một kẻ bị tình nghi la gián điệp… Cô không thể vượt qua phận sự của mình. Anh bưng đĩa cơm lên ăn, lòng bắt đầu bình thản lại. Thứ gạo đỏ dân chài ưa tuy không dẻo nhưng có vị ngọt đậm, món canh cá cay xè những ớt có nguyên khúc cá tươi. Ðó là bữa cơm đạm bạc của dân làng Bảo nhưng anh thấy nó rất ngon sau hai bữa ăn bị bỏ trống. Hoan khều từng mảy lá húng thơm lá thìa là nhấm nháp, húp từng ngụm canh chua cho đến giọt cuối cùng. Xong bữa cơm anh gạt bát đĩa sang một bên ngả người xuống đám lưới rách và ngủ ngay tức khắc.

Anh ngủ như thế đến lúc linh tính mách bảo rằng có ai đang ở rất gần anh. Mở mắt thấy khung trời đêm bên ngoài song cửa. Một cái đầu tròn trĩnh in trong khuôn cửa đó. Cô gái mặt tròn đang ngồi cạnh anh, im như phỗng. Hoan nhỏm dậy:

– Cô vào lúc nào vậy?

– Lâu rồi, nhưng nỏ dám thức anh.

– Sao không gọi tôi một tiếng?

– Thôi… Em đem canh vào cho anh, sợ anh đói.

– Cảm ơn, bữa cơm chiều đã đủ no.

– Không.

Cô đáp rồi bấm đèn pin soi chiếc làn tre. Anh thấy bát canh đậu xanh nấu với thịt lợn và tỏi, tỏi nổi từng nhánh trên mặt đỗ.

– Cảm ơn.

Hoan nói.

– Ăn đi.

Cô đáp.

Và cô lại ngồi im như phỗng sau khi tắt cây đèn. Hoan ăn bát canh đậu trong đêm, cô cũng ngồi chờ trong đêm, không nói gì thêm. Anh ăn xong, cô đặt vào tay anh một ca nhôm nóng bóng. Hoan đưa lên mũi, mùi chè xanh bốc bay. Cô gái lặng lẽ bỏ chiếc bát vào làn và ra về.

– Cảm ơn cô nhé.

Hoan nói vọng theo khi cô đang lúi húi khóa cửa. Cô ấp úng gì đó rồi biến mất vào đêm. Hoan ngồi uống từng ngụm chè một cho tới hết ca nước. Ðoạn anh bước vào góc phòng, tiểu. Loại nhà giam tạm bợ này vẻn vẹn chỉ có một gian, chẳng nơi tắm rửa, chẳng nơi đại tiểu tiện. Ở một góc người ta đục một lỗ thủng dưới chân tường thông ra khoảng sân cát phía sau. kẻ bị tù đái vào cái lỗ thủng đó và nước tiểu chảy ra ngoài, thấm xuống cát. Còn nếu muốn đi đại tiện, hẳn anh ta phải vơ những phoi bào mủn vào góc đó thay cho thứ bô vệ sinh thời cũ, hứng phân bằng tro. Hoan đã đủ thời giờ để quan sát cái nhà tù không chuyên nghiệp này và tự hỏi trước anh, đã có những ai từng bị giam nơi đây, và bởi những lý do nào?

Sáng hôm sau ủy ban xã mở cửa làm việc. Hoan nghe tiếng người qua lại khoảng sân tít xa vọng tới. Anh đoán chừng đó là những dân chài tới xin chứng nhận giấy tờ, học sinh tới xin con dấu và lý lịch, vài ba người ăn bận vẻ như đám cán bộ bên thành phố. Anh chắc mẩm sáng nay họ sẽ gọi anh lên đối chất và sau cuộc đối chất họ sẽ cho người điều tra, từ làng Bảo sang thành phố chỉ cách một con đò và như thế, chắc hẳn chiều nay anh sẽ được về nhà. Ngồi bó gối, anh kiên tâm chờ, nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện. Rồi bất chợt tiếng gà gáy trưa vọng lại, Hoan đứng lên nhìn ra ngoài song cửa: khoảng sân cát trơ trọi chẳng bóng người. Nắng đúng đỉnh đầu. Như vậy, hẳn đám cán bộ xã đã về nhà và dùng xong bữa cơm trưa:

… Lũ khốn kiếp… Không lẽ chúng muốn ta phải gào thét hay đập phá gian phòng này để làm cho rõ rành mọi chuyện?… Hoặc chúng muốn làm nhục ta, muốn ta phẫn kích làm điều bậy bạ nào đó để khép ta vào tội tù đày?… Nhưng là ai, và vì sao nhỉ…

Anh vừa điên giận vừa băn khoăn mọi nhẽ, lục tìm mọi kẻ thù mà không tìm nổi. Chắp hai tay sau lưng, anh đi đi lại lại trong căn nhà bẩn, chật, nóng sừng sực vì lớp ngói không trần. Trời lại im gió và không gian càng bức sốt thêm. Anh đói. Anh căm giận mình. Anh căm giận đám người đã nhốt anh vào căn nhà kho tồi tàn này rồi cố tình quên đi như để đùa rỡn anh hoặc dùng anh làm vật thí nghiệm cho một mục đích bí mật nào đó mà anh không hiểu nổi. Và anh, kẻ ngu xuẩn xứng đáng hưởng sự trừng phạt đó vì tính sĩ diện không đúng lúc của gã công tử. Lẽ ra anh phải kêu, phải gào thét, phải làm cho tất cả mọi người rõ chuyện anh đã bị bắt đi trong đêm tối bởi bọn người không rõ mặt và cũng chẳng giấy tờ, anh đã bị trói bởi một tội danh tuyên bố bằng mồm và anh đã ngoan ngoãn đi theo…

Hoan đi đi lại lại suốt buổi trưa đói khát buồn bực. Nhiều lần anh muốn cất tiếng gọi, hoặc gào thét nhưng lần nào anh cũng không mở miệng nổi. Thuở nhỏ anh đã xem những đám cãi nhau những gã say thuyết lý hoặc ca hát giữa đường, những kẻ điên vừa đi vừa lẩm bẩm vừa múa may… Tất thảy những cử chỉ kéo theo một đám đông, làm trò tiêu khiển cho đám đông đều khiến anh khiếp sợ. Anh không thể hình dung anh, con trai ông giáo Huy, có thể hò hét để kêu gọi một đám đông, để trình bày với họ sự thật, phân trần vơi họ nỗi oan uổng của mình và cầu xin nơi họ lòng trắc ẩn hay sự giúp đỡ… Không… Anh không thể… Và lần này cũng vậy vừa đặt chân tới cửa, vừa quay mặt ra phía song sắt định kêu la anh lại vội vã trở vào. Sau rốt, anh nằm xuống đám lưới rách chờ đợi sự xuất hiện của cô gái làng chài lần này nhất quyết bám theo cô đi ra tìm gặp kẻ cầm đầu lũ người bắt anh đêm trước… Anh nằm như thế qua ngày đến tối, hai mắt díp lại nhưng chẳng ngủ được. Không thấy cô gái mặt tròn. Cỡ tám, chín giờ tối, anh đoán chừng như vậy, có tiếng mở khóa cửa. Một người đàn ông bước vào. Một giọng nói xa lạ cất lên, hoàn toàn không giống với những giọng anh đã nghe trong bọn người đêm trước:

– Anh đói lắm hả? Anh ta hỏi.

Hoan không trả lời. Người lạ chẳng để ý tới thái độ của Hoan, nói tiếp:

– Từ đây anh đi chừng hai trăm thước tới gần bến đò có quán cháo ngon lắm. Trước quán đặt cây đèn phòng không, cháo bán ở phía trong. Anh đi đi.

Hoan hỏi:

– Tại sao các anh bắt tôi?

Người đàn ông đáp:

– Tôi không bắt anh nhưng tôi biết anh bị bắt.

Vì anh ta đứng đối diện nên Hoan thấy tóc anh húi móng lừa và quai hàm rất vuông. Một người tầm thước, hơi to ngang, thấp hơn anh nửa cái đầu. Hoan chưa kịp hỏi gì thêm anh ta đã nói tiếp:

– Anh hãy quay về thành phố. Gia đình anh, vợ con anh ở bên ấy, một mình anh ở đây người ta dễ sinh ngờ.

– Ngờ cái gì?… Tôi có hành vi gì để ngờ vực?

– Ðất nước sắp chiến tranh… Chiến tranh là cái cớ khiến người ta dễ buộc tội nhau. Ðã là tội trong chiến tranh thì khó bề gỡ nổi… Anh hãy nghe tôi, quay về thành phố.

Hoan đứng lên, nhìn cái đầu móng lừa in trong khoảng sáng lờ mờ của khuôn cửa:

– Nhưng anh là ai chứ?

Người đàn ông thở dài:

– Tôi là một trong số những học sinh của thầy Huy, cha anh… Tôi nói như vậy, anh đủ tin rồi chứ… Thôi, hay rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt…

Hoan không nói gì thêm, đi khỏi căn nhà tối om trong đó người đàn ông kia còn đứng lại. Khi tới ngả rẽ, anh quay đầu nhìn, tất cả chỉ còn là một khối đen. Ðêm ấy không trăng. Anh đi tới gần bến đò, mò vào quán cháo ăn liền ba bát cháo đoạn trở lại chòi. Quần áo đồ đạc của anh vẫn nguyên không suy suyển. Sáng hôm sau anh trở về thành phố trong chuyến đò thứ nhất. Anh không muốn dân làng Bảo biết anh đi. Anh đã đến một cách lặng lẽ, anh cũng đi lặng lẽ. Về đến nhà, anh bước thẳng vào buồng riêng. Cô Kim Liên đã ăn mặc chải chuốt chỉnh tề ngồi trên giường nhìn anh với đôi mắt sáng rực. Và tức khắc, anh hiểu ra mọi chuyện. Không nói một lời anh ra chợ mua một chiếc võng một tấm chiếu cói. Anh mắc võng vào hai cây cột hàng hiên sau nhà, nơi mọi người qua lại cả ngày lẫn đêm vì không ai tránh được lối vào nhà tắm lẫn nhà vệ sinh. Rồi anh căng mấy sợi dây, phủ tấm chiếu làm mái che sương, mắc thêm bóng đèn một trăm nến. Từ hôm ấy, cả ngày lẫn đêm anh không rời chiếc võng trừ những lúc đi dạo phố hoặc tắm biển. Anh đọc sách, anh ngủ, anh ngắm mây trời hoặc cây vườn. Ông giáo Huy chẳng nói nhưng anh biết cha ngầm ủng hộ mình. Mẹ anh thở dài sườn sượt nhưng vì yêu và nể con, bà không dám can ngăn đành cắm mặt chịu những lời rỉa rói móc mách của mụ cửa hàng trưởng. Bữa cơm, chị Nền dọn riêng cho Hoan một suất vào chiếc khay nhỏ để anh ăn trước hoặc sau mọi người. Anh ăn suất cơm của mình một cách chậm rãi vừa ăn vừa nhâm nhi đọc sách hoặc ngẫm nghĩ sự đời với vẻ ung dung của vị gia trưởng. Từ chàng trai hồn hậu dễ thương anh đã trở thành người đàn ông băng giá. Dường như anh tự cho phép mình đứng lên vị trí người đàn ông số một trong gia đình. Cha anh cùng tất cả mọi người tuân phục ý muốn ấy một cách tình nguyện và câm nín. Cả ngày Hoan không nói với ai một lời, trừ những lúc chị Nền bưng khay cơm vào cho anh hoặc khi anh hứng chí bảo chị nấu cho anh món ăn ưa thích. Không bao giờ anh đưa mắt nhìn mẹ con cô Kim Liên. Một lần nào đó, người đàn bà mặt dạn mày dày bồng đứa bé đến trước Hoan, vẻ như vừa bắt vạ vừa cầu xin:

– Nào, dù sao anh cũng bế con một lần cho nó khỏi tủi… Nó mang dòng họ Trần của anh đấy…

Hoan im lặng không trả lời. Cô Kim Liên sượng sùng quay đi. Lúc đó bà giáo bước tới, năn nỉ. Anh nhìn mẹ lễ phép trả lời:


– Con không thể… Xin mẹ để cho con yên…

Cuộc gặp nào cũng kèm theo những bữa ăn thịnh soạn. Nguồn sinh lực dồn tích không lối thoát thường xuyên dẫn đến những cơn đau đầu dữ dội, hoặc những khoảng khắc đột ngột choáng váng và mất trí nhớ. Ðêm đêm, anh như kẻ ra đấu trường đơn lẻ, đơn lẻ chiến đấu với sự hành hạ của chính thân xác mình. Ðêm đêm, anh gọi tên vợ thức dậy với manh quần bẩn, với thân xác mỏi nhừ và trạng thái tinh thần u ám như kẻ bị ma đè. Hoan biết giới tu hành có một thứ thuốc bột hiệu nghiệm uống lẫn với nước lá rau dăm. Anh muốn nhờ chị Nền đi tìm cho thứ thuốc diệt dục ấy nhưng không dám. Hai bà chị đều thầm mong cho anh tìm được người đàn bà mới, có hạnh phúc mới. Bởi, họ biết Hoan nặng lòng với Miên nên chẳng ai dám nói ra lời. Nhưng lúc này hoặc lúc khác, anh thấy xuất hiện các cô gái đã chín tuổi lấy chồng, hoặc những người đàn bà tuy dở dang nhưng còn son trẻ. Và những người ấy, như đám chim mồi, lượn lờ không mệt mỏi trước cửa hàng nhà anh chuyện trò thân tình với hai bà chị, tất cả đều chờ đợi một cơ may khi anh quên được người đàn bà xóm Núi. Hoan thấy họ tội nghiệp. Anh không còn là gã khờ năm xưa để sa chân lần nữa.
Nhưng những cơn sốt dục tình không ngừng tra tấn anh. Rồi dịp nào đó, bỗng dưng người ta giới thiệu anh tới bà chủ quán Cổ Truyền. Ðó là một quán ăn lạ kỳ, cửa hàng không nằm ngoài mặt phố mà ở trong ngõ kín. Khi tới đấy, Hoan đã phải để xe lại để thả bộ vào trong con hẻm nhỏ, lối cong queo, có rất nhiều cây cột điện thời cũ được vá víu dựng lại, nhà cửa nhỏ bé lộn xộn, cái tường ghép gỗ, cái xây gạch cao thấp chen nhau nhưng nhà nào cũng trồng một giàn hoa giấy phía trước nên khắp ngõ xác hoa giấy như rải thảm.
Quán nằm ở cuối ngõ. Một tấm bảng gỗ mộc sơn hai chữ CỔ TRUYỀN bằng hắc ín. Nhà thấp lợp ngói, bàn ghế trong quán đóng theo kiểu cổ, thuần bằng gỗ mộc, ám khói và nhẵn bóng mồ hôi. Tường không tranh, không hoa giả, không đèn điện trang trí... Tóm lại không một chi tiết nhỏ nhặt nào của đời sống hiện đại lọt vào đây và bởi thế, quán ăn này hoàn toàn như một quán ăn từ vài trăm năm trước phục chế lại. Chủ quán là một bà lão sáu mươi lăm nhưng tinh tường, khỏe mạnh, vừa oai vệ vừa ranh ma. Tóc trắng phơ cuốn lên bằng một cây trâm đồi mồi, quần áo lụa đen kiểu cổ nhưng tay lại đeo đồng hồ hãng Quac, trông bà nửa như tiên nửa là phù thủy. Quán Cổ Truyền nổi tiếng với các món ăn cầu kỳ tốn kém thời gian dẫu là món bình dân: Lươn om, ốc om, cá nướng lá chuối, cá trê nấu mẻ, xôi trắng ăn với ruốc cá rô... Nhưng bà chủ còn nổi tiếng hơn các món ăn của bà vì bà biết bắt mạch Thái Tổ, chỉ cần xem mạch đủ biết vận mệnh, hung cát. Và biết chế tác những phương thuốc bí truyền nhằm kích dục hay diệt dục, bà có thể chữa bệnh vô sinh cho kẻ này hoặc trục thai cho người khác. Cả những ông chồng bất lực đứng đắn và đau khổ lẫn bọn Sở Khanh ma cô đều phải tới cậy cục trước cửa nhà bà. Ông chồng đã quá cố của bà vốn người Tàu, một thầy thuốc lừng danh nhưng không chống lại được vận mạng đã chết trước bà hơn một thập kỷ. Chính ông đã truyền cho bà các ngón nghề bí hiểm. Hơn nữa ông còn truyền cho bà sự ngoan cường và lòng kiêu hãnh ít ai bì. Bởi thế, tuy bà chỉ là một bà già bình thường nhưng đám người có quyền chức trong thành phố cũng phải kiêng nể.
Khi Hoan gặp bà, bà đang ngồi chơi bài một mình trong phòng riêng. Bà rót cho anh một chén chè tí xíu rồi nói:
- Người ta sống thuận theo lẽ trời là tốt nhất. Cậu có chữ chắc hiểu, khi âm dương giao hòa khí huyết ắt lưu thông, mọi tương năng tương hỗ khác nhờ theo đó mà thịnh... Nếu đã cài then sập cửa, ắt ngôi nhà phải tối tăm, ngột ngạt, không nơi này thì ngã kia tù đọng, hôn ám...
Hoan im lặng. Anh không thể và không có thói quen giãi bày tình cảnh trước người thứ hai. Anh chỉ nói:
- Cảm ơn bà. Nhưng cháu cần thứ thuốc ấy.
Bà nhìn anh với cái nhìn ngao ngán lẫn chút tò mò rồi đưa cho anh thứ thuốc bột màu nâu. Anh đã uống thứ thuốc tiết dục đó, ngày ba lần sau bữa ăn, mỗi lần một thìa cà-phê đầy. Sau ba tuần mọi nhu cầu sinh lý hoàn toàn biến mất... Nhưng anh cảm thấy anh trở thành một kẻ khác. Anh rất thích ngủ, mỗi ngày ngủ đến mười hai giờ. Tay chân anh không còn ấm nóng mà lạnh đi, da anh xanh và anh đi đứng chậm rãi như kẻ chán chường. Ðôi khi, chính anh cũng sợ anh khi thấy anh trống rỗng, không muốn suy nghĩ, không muốn quan sát mọi vật, nửa như sống nửa như vất vưởng đâu đó bên ngoài cõi đời. Hai bà chị hoảng sợ hoảng sợ tìm thầy thuốc. Nhưng Hoan gạt phắt đi. Giờ, anh đã hiểu lời bà lão. Anh biết anh phải lựa chọn giữa hai trạng thái bệnh hoạn. Và anh lựa khả năng thứ hai. Bởi anh còn muốn sống như một người đàn ông khỏe mạnh, tỉnh táo. Anh còn phải làm việc cho con trai anh, cho những người thân của anh, cho người đàn bà anh chưa ngớt yêu dấu...
Uống liền mấy cốc bột sắn, Hoan ngồi bóp thái dương lẫn đỉnh đầu một lúc lâu cơn đau mới dịu. Anh tới nhà Căng. Ở đó, qua buổi trưa anh không dám uống rượu chỉ ăn hai bát cơm với đậu phụ luộc chấm tương. Gã bạn buôn cười hô hố:
- Sao anh khốn khổ thế?... Một thằng gốc gác dân cày như tôi cũng chẳng cam lòng chịu đói như anh.
Vốn tính kín đáo, Hoan không có thói chuyện trò bả lả với ai. Bị người khác dò đúng căn bệnh, anh đâm lúng túng, mặt đỏ bừng.
Căng chăm chú nhìn anh, vẻ tò mò hớn hở, dường như gã vừa bắt được món tiền lớn:
- Chết nỗi, sao anh lại đỏ mặt tía tai lên như vậy?... Thật không ngờ, tới hôm nay tôi mới trông thấy gáy nhà buôn lớn nhất sáu tỉnh miền Trung.
Hoa đáp:
- Ai cũng có phần ngờ nghệch. Tôi không phải người quen thuộc chốn ăn chơi.
- Thế anh tưởng tôi là kẻ ăn chơi à?...
Căng cao giọng vặn lại. Rồi không chờ Hoan trả lời, hắn tiếp:
- Bốn đời nhà tôi cơ cực nên tôi chẳng dại dột ném tiền vào chốn cờ bạc gái trai... Anh biết rõ tôi đấy: Tiêu một hào tôi cũng cân nhắc bảy lần. Một bữa tiệc chốn thị thành nuôi được cả gia đình dân cày trong vài tháng mà họ hàng chú bác bên nội bên ngoại của tôi còn ở tất tật chốn bùn lầy. Tôi vẫn phải cưu mang họ... Nhưng vấn đề chính tôi nói với anh chẳng phải chuyện chơi bời mà là phép vệ sinh. Anh bỏ qua cho tôi, thật ra cái... việc đó cũng giống như việc vào hố xí. Người ta có ăn thì có ỉa, uống bia vào thì sớm muộn hai ba tiếng sau cũng phải đái ra. Ðố ai giữ nổi các thứ bã thải trong thân xác.
Hoan đáp:
- Tôi không quan niệm như thế.
Căng giương mắt nhìn anh chằm chằm:
- Trước khi tôi sống độc thân ở thành phố này tôi cũng đã có vợ. Trước khi có vợ tôi cũng đã yêu. Và tôi cũng nghĩ như anh rằng người ta chỉ có thể ngủ được với người đàn bà họ yêu thôi... Nhưng sự đời chẳng thế.

Hoan im lặng. Và bất chợt buông tiếng thở dài. Gã bạn buôn kia nói đúng. Cha anh dạy anh rằng người đàn ông chỉ hạnh phúc với người đàn bà họ yêu. Và anh hoàn toàn tin vào điều đó. Nhưng cuộc làm tình đầu tiên của anh với cô Kim Liên cũng đem cho anh sự thỏa mãn, dù anh chẳng biết cô ta là ai và cuộc làm tình đó diễn ra trong trạng thái mơ ảo... Và rồi nữa, những cuộc làm tình với người đàn bà xóm Hà trong cây chòi cất rớ ven sông Lệ Nhật... Những đêm ấy anh cũng đã leo tới đỉnh ngọn triều khoái lạc, dù chẳng là thứ khoái lạc vẹn toàn của hạnh phúc như anh từng nếm trải với Miên... Có lẽ, những điều Căng nói là sự thật. Có lẽ người đàn ông cần tìm một nguồn mạch giải tỏa cơn khát dục tình giống kẻ lữ hành trên con đường xuyên núi khô khan phải làm nguôi cơn khát bằng vũng nước bất kì bắt gặp... Và anh chợt nhớ tới Miên, chị vẫn phải chung đụng với một người đàn ông chị không còn yêu nữa. Vậy những cuộc làm tình đó cũng ở bên ngoài hạnh phúc, bên ngoài cái chuẩn mực tình yêu mà cha anh đã dạy anh...
Căng vẫn không rời mắt nhìn Hoan, lúc đó tiếp lời:
- Hoàn cảnh anh khác tôi. Vợ anh không hư hỏng do hoàn cảnh bắt buộc phải xa anh... Anh vẫn có thể thương yêu chị ấy, nhớ nhung chị ấy và vẫn có quyền tìm một người đàn bà nào khác để xả những thứ rác rưởi tồn đọng trong thân xác.
Hoan vẫn biết có cái nghề cổ xưa như trái đất. Và nghề đó thời nào cũng tồn tại dù công khai hay lén lút. Hẳn nó là thứ nghề phục vụ cho những gã đàn ông rơi vào cảnh khốn khó như anh hoặc những kẻ thiếu hụt tiền tài hay khiếm khuyết nhân dạng chẳng thể tìm nổi một người đàn bà thương yêu mình...
... Phải, mọi thứ đều cũ mèm như trái đất. Trước ta cũng đã có hàng triệu người đàn ông và sau ta cũng sẽ có hàng triệu người nữa rơi vào cảnh ê chệ này...
Anh nghĩ. Nhưng anh vẫn cảm thấy hổ thẹn và lẫn chút trắc ẩn khi nghĩ tới việc tới lầu xanh để tìm một cô gái lầu xanh.
Chừng như đoán rõ những ngại ngần trong anh, Căng lên tiếng:
- Thôi đi, hàng hóa nào cũng cần kiểm nghiệm. Tối nay theo tôi. Anh sẽ thấy chẳng cần tư lự nhiều như thế. Sự đời đơn giản. Ta mua một món hàng và trả đúng giá, như các cụ đã nói từ xưa: Ăn bánh trả tiền.
Rồi Căng liếc đồng hồ. Anh ta có cái hẹn khác vào lúc một giờ rưỡi. Gã đàn ông này là cái máy kinh doanh, là con bệnh khát tiền, làm việc không kể đến thân mình bất kể loại công việc nào dù thượng vàng hạ cám. Hoan biết thứ kinh doanh khốn khổ như thế thường chẳng đem lại bao nhiêu lợi lộc cũng giống những người buôn từ nước mắm tới bấc dầu đèn dù xoay sở quần quật như trâu cũng khó kiếm nổi một số hời cho ra tấm ra món và khó có cơ ngoi lên được:
... Vậy mà gã nhà que đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành này lại là kẻ khai tâm cho ta ngày hôm nay. Ðời quả nhiều bàn cờ nhiều ván cờ, anh thắng bàn này sẽ thua bàn khác...
Hoan thầm nghĩ. Anh chào gã, ra về. Tới nhà, anh lao vào buồng ngủ một giấc tới tận ba giờ chiều mới phóng xe ra tắm biển. Khi trở lại, Căng đã đứng trước quầy thu tiền tán gẫu với chị Châu.
- Tôi chờ anh đã ba mươi lăm phút.
- Xin lỗi, tôi tưởng anh tới muộn hơn.
- Anh chưa ăn bữa chiều ngoài bãi biển đấy chứ?...
Căng hỏi, nháy mắt một cách bợm bãi:
- Nghe nói ngoài bãi biển có món tôm tươi luộc ngon lắm?...
Hoan không đáp. Hai bà chị anh đang đứng ở đó. Những người đàn bà của thời cũ không bao giờ dám nghĩ đến loại chuyện suồng sã như vậy. Hoan đi thẳng vào nhà tắm cất quần áo, thay bộ đồ mới rồi quay ra.
- Nào đi...
Anh quay lại dặn:
- Tối nay em không ăn cơm nhà.
Họ cùng lên xe, nổ máy phóng đi. Hoan hỏi:
- Ði đâu?
- Ðến tiệm ăn Tàu.
- Tiệm nào?
- Cao lâu đường Trần-Phú.
Ngừng lại vài giây, Căng nói tiếp:
- Trước khi tìm thú thanh lâu nên ăn món ăn của người Tàu. Ấy là bài học dân Chợ Lớn thứ thiệt đã dạy tôi.
Khi họ dựng xe, vào quán ăn, Căng lại bảo:
- Anh trả tiền chầu ăn. Tôi trả tiền chơi. Như thế công bằng.
Hoan đáp:
- Tôi sẽ trả cả hai chầu, yên tâm.
Căng cười hơ hớ:
- Hôm nay tôi gặp may.
Lúc hai người ngồi xuống bàn ăn, anh ta nói thêm:
- Nhưng kẻ may mắn không chỉ là riêng tôi... Rồi anh sẽ thấy ...
Ðoạn quay vào phía trong, anh ta lớn tiếng gọi:
- Cho thực đơn ra đây...
Ðám người hầu bàn Dạ ran trong bếp. Tiếng dạ đặc biệt chỉ có ở các quán ăn Tàu, nó vừa như thứ tín hiệu đáp lời vừa như giọng nhại phía sau cánh gà sân khấu, thuần có ý nghĩa hình thức. Bởi năm sáu tiếng Dạ cùng nhất loạt cất lên nhưng phải chờ hai mươi phút sau mới có một gã trai cao lêu đêu chạy tới. Gã chìa cuốn thực đơn dày cộp, nói:
- Dạ, hai ông kêu trước đồ uống gì?
- Rượu, rượu bổ... Cho loại thượng thặng ấy...
- Dạ...
Gã cò hương quay lưng chạy đi và chừng mươi phút sau gã trở lại với chiếc khay nhỏ bày chai rượu thuốc, hai chiếc ly thủy tinh với vài đĩa đồ nhắm chơi cho vui miệng. Ðặt khay rượu lên bàn, gã lại rút cuốn thực đơn ra, cất tiếng:
- Giờ, xin hai ông gọi món chính.
Căng đặt món chim hầm bát bảo và cá hấp thịt lợn nấm hương. Anh ta gọi cho Hoan bát súp bào ngư với tô gà tần cung đình, loại già đen nhỏ chỉ độ ba bốn lạng tần với các vị thuốc bổ nhằm bồi dưỡng tinh lực vua chúa hoặc các hoàng thân đế thích xưa ưa dùng. Khi gã bồi chạy đi, Căng hỏi:
- Anh biết thứ rượu: Thang vua Minh Mạng này chưa?
- Chưa.
- Ðó là thứ rượu được sáng chế thời Minh Mạng. Vua dùng thứ rượu này và có tới một trăm mười tám người con. Nó nổi tiếng đến nỗi trong xứ ngoài xứ đều biết và được đặt tên là: Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử.

Hoan có biết chút tiếng Hán Việt nên anh kinh ngạc hỏi lại:
- Nghĩa là một đêm gặp sáu người đàn bà và thụ thai năm đứa con? Anh không nghe nhầm đấy chứ?
- Nhầm thế quái nào được?... Tôi chẳng biết tí tiếng Hán nào nên kẻ cho tôi uống thứ rượu này lần đầu đã phải giảng tường tận cái tên đó... Và chẳng giấu gì anh, tôi cũng đã thử khá nhiều lần. Nào, ta thử đi... Rồi đêm nay anh sẽ thấy...
Gã cất tiếng cười rất lớn, đầy tự tin trước khi mở nút rót. Hoan nhìn chất nước màu mận chín trong chiếc ly thủy tinh, vừa nghi hoặc vừa háo hức. Anh thấy mình như thằng bé con bị dẫn dụ bởi một tên ma cô hay một gã cò mồi:
... Chẳng sao hết, cuối cùng thì tất cả mọi người đều phải trả giá cho sự hiểu biết, cũng như ta...
Anh tự an ủi và dốc cạn ly rượu đầu tiên. Sau ly rượu đó, anh tự rót tiếp ly thứ hai, thứ ba, tự thấy phấn chấn, nói nhiều hơn, cười to hơn, và khi kín đáo liếc mình trong tấm gương ám khói treo tường anh kinh ngạc thấy một gã đàn ông khác, khác hoàn toàn cái tôi của mọi ngày, gã nhìn anh với cái nhìn đầy khiêu khích. Không hiểu thứ rượu thần kỳ kia hay những món ăn cung đình khiến anh rơi vào trạng thái hưng phấn lạ lùng ấy. Rồi, trong cái quán ăn ngào ngạt mùi xào nấu, ngột ngạt khói thuốc, ầm ĩ tiếng người bỗng vang lên một khúc hát anh yêu thích và anh vô tình khe khẽ hát theo:
... Ta đã từng rơi vào bẫy sau những chén rượu đỏ ở nhà mụ Kim Lan. Bây giờ, ta sẽ tự tìm đến một cái bẫy khác sau những ly rượu màu mận chín, những ly rượu thuốc của ông vua cường dâm. Ngày xưa, ta là thằng bé con lớ ngớ. Giờ, ta là gã đàn ông đói dục tình. Ta có quyền làm mọi điều ta ưa thích...
Ý nghĩ ấy vang lên trong anh như một câu hát, vui vẻ, sỗ sàng, cợt nhả. Một thứ màu sắc anh chưa từng thấy trong đời, sẽ làm quen với một cuộc đời khác hay với hương vị khác của cuộc đời?... Thây kệ...
Căng nhìn anh với cặp mắt ranh mãnh. Mặt gã đỏ phừng phừng.
- Ði chưa?
- Ði.
Hoan vẫy hầu bàn, thanh toán tiền rồi họ rời quán ăn. Hai người lên xe phóng tới nhà Căng, cất xe máy ở đó thả bộ theo phố. Hoan không nhớ những dãy phố anh đã qua, bao nhiêu ngã tư và bao nhiêu lần rẽ. Anh đi theo Căng, chẳng nghĩ ngợi gì, miệng lẩm nhẩm hát những câu hát cũ và đôi lúc cười tủm một mình. Sau cùng, họ tới dãy phố nhỏ có nhiều cây bàng còi cọc. Căng bước tới một quầy thuốc lá lẻ:
- Có thuốc sẵn đấy chứ?
Sau quầy nhô lên một gương mặt đàn ông, một gương mặt đầy phè thịt và dù ánh đèn đường tù mù, cũng thấy lần xần những mụn. Gã bán thuốc há miệng cười:
- Lúc nào cũng có, nhưng phải sơ tán xa.
Căng gật:
- Cũng được.
Gã hỏi tiếp:
- Nhảy dù hay qua đêm?
Căng bảo:
- Qua đêm.
- Một mình ông hay cả hai?
- Cả hai.
- Ði riêng hay đi bè?
- Riêng.
- Tôi hiểu rồi.
- Giá cả ra sao?
- Như cũ.
- Ðược. Ði thôi.
- Khoan đã. Giờ này cá lạ đứng đường. Các ông phải chờ nửa giờ nữa tới phiên gác mới.
- Thì chờ. Lại ra quán cóc vậy.
- Phải. Thu Cúc vẫn ngồi chỗ cũ.
Căng kéo Hoan đi. Họ tiếp tục đi một đoạn nữa tới quãng tối, ngồi xuống vỉa hè uống nước chè bình dân. Ðó là thứ quán lưu động thường gọi là quán cóc. Cóc nhảy. Người bán quán cóc vác đồ đạc và xách ấm nước chè chạy từ xó này qua xó khác trước cây dùi cui của cảnh sát. Nhưng các quán cóc vẫn tồn tại nguyên xi. Khi là món tiền lót tay luồn vào túi nhà chấp pháp, khi là sự kiên nhẫn chờ đợi phút nản lòng của luật lệ, người ta lại đặt chiếc thúng tre lên vỉa hè, quăng vài ba chiếc ghế đòn cho khách xung quanh. Trên thúng đặt chiếc mẹt tre và trên mẹt là tất thảy hàng hóa có thể có: Dăm túi mực nướng, dăm túi kẹo lạc hay kẹo bột, dăm gói lạc rang, mấy chiếc chén cáu để uống chè và vài ba ly thủy tinh nội địa để uống rượu. Ấm chè ủ trong giỏ, còn chai rượu giấu dưới thúng. Lúc hai người bước tới, trên mẹt của chủ hàng thắp cây đèn dầu. Người đàn bà bán hàng có gương mặt tăm tối ngồi như tượng phía sau. Căng hỏi:
- Nước nguội ngắt rồi chứ?
Người đàn bà không trả lời. Căng kéo Hoan ngồi xuống:
- Anh cao to ngồi thứ ghế đòn này hơi khó chịu... Nhưng phải chấp nhận thôi... Anh đã khát chưa?
- Chưa.
Căng quay lại bảo người bán hàng:
- Chúng tôi không uống nước... Này cầm tiền cho thuê chỗ ngồi.
Ðoạn dúi vào tay chị ta tờ bạc. Thiếu phụ trạc ngoài bốn mươi cầm tờ bạc đút vào túi áo với vẻ thờ ơ, như chẳng thèm để tâm tới. Mặc dù gương mặt u ám, chị ta có một vẻ kiêu kỳ lạnh lẽo kín đáo và huyền hoặc. Tấm khăn chị trùm đầu in hoa rất rực rỡ, cũng rực rỡ như tấm áo chị đang mặc. Anh hình dung dưới ánh mặt trời, hẳn những màu sắc đó sẽ hân hoan như tuổi trẻ và đẹp một vẻ đẹp chọn lựa.
Những người bán quán cóc thường tìm cách trò chuyện với khách và nói chung họ là những kẻ nhiều lời nhưng người đàn bà này lại câm lặng như pho tượng, vẻ dửng dưng của chị ta khiến Hoan kinh ngạc. Sau khi nhét tiền vào túi, chị ta rút một miếng mực nướng, xé từng sợi nhỏ bỏ vào miệng bộ dạng giống như đứa bé ăn quà. Thấy anh ngồi yên lặng, Căng rút thuốc mời:
- Anh có hiểu gì về thế giới của những người đàn bà ăn sương không?
- Không.
- Ðây là lần đầu anh đi thông cống?
- Phải.
- Vậy tôi giải thích đôi điều. Gái làng chơi ưa dùng tiếng lóng. Thứ tiếng đó nghe vui tai hơn tiếng của đám đông. Ví dụ, nếu anh chỉ ngủ với họ một lần người ta gọi là anh nhảy dù. Nếu thuê trọn đêm anh có thể làm tình một, hai, ba, bốn lần như lũ đàn ông động đực bình thường hoặc bảy, tám lần như đứa vua Minh Mạng, tám chín lần nếu anh còn đủ sức... Như thế gọi là đi tàu suốt...

Tới đó, người đàn bà bán hàng bỗng đập vào cánh tay Căng:
- Họ kêu ông kìa.
Cử chỉ của chị ta có một vẻ thân tình và sỗ sàng rất bất ngờ.
Hoan kinh ngạc nhưng Căng tỉnh bơ quay sang nhìn quầy bán thuốc lá lẻ đầu phố. Chiếc đèn dầu hỏa đặt trên tủ kính đang trượt đi trượt lại mấy lượt liền. Căng vụt đứng dậy:
- Ði thôi.
Trước khi đi, anh ta còn quay lại nhoẻn miệng cười với thiếu phụ:
- Sao tối nay dịu dàng nết na thế?
Người đàn bà không đáp, cúi xuống thu dọn ghế đòn bỏ vào thúng cùng những thứ hàng hóa khác rồi cắp thúng đi theo họ. Gã bán thuốc đang đi đi lại lại bồn chồn phía sau tủ:
- Cá quen đến rồi, các ông đi đi.
- Ai dẫn đường đêm nay? Căng hỏi.
Gã bán thuốc hất hàm chỉ người đàn bà bán quán cóc:
- Ðó.
Ðoạn gã bảo chị ta:
- Ngõ số ba, nhớ chưa Thu Cúc...
- Nhớ.
Chị ta cất lời, giọng trầm khàn như giọng đàn ông. Hoan lần nữa tò mò nhìn người thiếu phụ tàn úa có cái tên mỹ miều kia. Ánh đèn đường quá mờ nên anh không thể thấy gì hơn ngoài một gương mặt võ vàng dưới tấm khăn hoa sặc sỡ quấn kiểu dân Chàm. Người đàn bà đi trước, Căng dẫn Hoan theo sau. Họ vào một ngõ nhỏ, đi lòng vòng qua những ngôi nhà thấp bé, vá víu, kiến trúc nửa quê nửa tỉnh bằng tất thảy những thứ phế liệu nhặt nhạnh được. Những căn nhà lồng ghép, chồng chất chằng chịt tựa cuộc đời đám dân tứ xứ tụ bạ về đây sau chiến tranh, chúng giống đám ốc bươu con nọ bám lưng con kia, cụm này kề cụm khác... Chỉ mới vài năm sao cuộc sống nơi đây đã kịp sinh sôi nẩy nở và cũ kỹ đi nhanh làm vậy. Hai người chui qua những hàng dây thép phơi quần áo, vượt qua những mảnh sân méo mó dị hình, bước qua các đống rác tú hụ chưa kịp hốt và sau rốt leo lên một cây cầu thang ghép bởi những mảnh ván cốp-pha chưa kịp bào nhẵn xấu xí thô lậu. Hoan chưa đặt chân tới khu vực này lần nào, thậm chí anh cũng không tưởng tượng có một khu dân cư tăm tối thế trong thành phố quê hương anh. Trước chiến tranh, khu nhà này chưa hề có. Ðây là đám bèo dạt sau những năm tháng đạn bom. Hoan bảo Căng:
- Nói chị ta đi chậm chậm một chút...
Anh không muốn nói thêm rằng anh chưa quen đi trong những lối lắt lẻo, bẩn thỉu và dưới thứ ánh sáng nhập nhoạng này. Căng gọi với lên:
- Thu Cúc, đợi với...
Nhưng người đàn bà vẫn bước vùn vụt, như không nghe thấy hoặc giả bộ không nghe thấy. Căng buộc phải đuổi theo chị ta. Và Hoan buộc phải đuổi theo gã. Vì to lớn kềnh càng nên anh thật khổ sở mới theo kịp hai kẻ đi trước. Sau cùng, họ dừng lại trước một cánh cửa lớn, gỗ sơn nâu. Người đàn bà đập thình thình vào cánh cửa đoạn kéo sợi dây chuông. Tiếng leng keng rất nhỏ vang lên phía sau bức tường. Cửa mở hé. Người đàn bà dẫn đường quay ngoắt đi và nhanh như mèo chị ta biến mất. Khuôn cửa hé mở ló ra màu đỏ của một tấm màn, một thứ ánh sáng vàng vọt dơ dáy chiếu xuống. Khung cảnh khiến Hoan bất giác chùn chân lại. Chừng như đoán được sự ngại ngần của Hoan, Căng túm cánh tay anh lôi đi theo:
- Nhảy xuống nước đi, như lần đầu tập bơi vậy... Anh không còn ở tuổi ấu nhi...
Hai người bước vào khoảng không gian vàng khè hình chữ nhật. Tấm màn đỏ giăng trước mặt họ từ bức tường bên trái qua bức tường bên phải. Chính giữa treo một bóng đèn ám khói, không chao. Không để Hoan có thời giờ suy nghĩ, Căng hỏi:
- Sau tấm màn kia là hai gian buồng đi khách. Anh lấy gian bên trái hay bên phải?
Hoan đưa mắt nhìn tấm màn đỏ lem luốt những vết son phấn, vết dầu mỡ vết nhọ nồi và hàng đám những vết bẩn khác không thể đoán được lai lịch. Căng không đợi anh trả lời, nói tiếp:
- Sau tấm màn đỏ này căn phòng ngăn làm đôi, chúng ta sẽ được hưởng cái thú nghe lẫn nhau, coi như ăn một món hai lần. Tôi chọn cho anh gian buồng bên phải. Với người tập sự, hướng đó thuận tiện hơn.
Nói rồi Căng dắt tay Hoan tới bức tường bên phải, vén tấm màn đỏ đẩy anh vào trong và quay lưng đi ngay. Hoan nghe tiếng chân gã bước sang gian buồng bên kia và giọng nhẹ nhàng của một người đàn bà cất lên:
- Lâu lắm mới thấy mặt anh...
Tới đó, hai bàn tay của một người đàn bà khác từ phía sau lưng Hoan vươn qua vai anh, lướt trên cổ trên cằm xiên qua hai má và dừng lại mơn trớn nơi trái tai anh:
- Lần đầu hả anh?...
Giọng người đàn bà này trầm hơn người ở buồng bên kia. Hoan không đáp. Anh không biết mình nên trả lời ra sao. Anh đứng im như tượng. Hai bàn tay đó tiếp tục ve vuốt, những chiếc móng khẽ cào qua vành tai anh, hai ngón út từ từ ngoáy vào lỗ tai anh và giọng chị ta lại cất lên, lần này rõ rành hơn, mơn trớn hơn:
- Ðừng sợ... Ðừng sợ...
Hoan rùng mình. Da thịt đàn bà đang áp sát vào lưng anh, hơi nóng xuyên qua lớp vải truyền sang da thịt anh, bắt đầu từ hai mông lan dần lên lưng tỏa xuống cặp đùi. Nhưng anh vẫn đứng im lặng. Anh vốn có thói quen im lặng khi ở những hoàn cảnh phức tạp hoặc vào những lúc anh chưa tự chế ngự được cảm xúc lẫn tinh thần. Anh ngửi thấy mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, dù thứ mùi đó đã trộn cùng mùi son phấn, mùi xà-phòng tắm và nhiều thứ mùi không rõ rệt. Hoan không hiểu vì sao nơi gái ăn sương kiếm sống lại có mùi thuốc khử trùng, và nỗi băn khoăn đó lởn vởn trong óc.
- Anh lại giường đi chớ?... Sao đứng mãi như trời trồng?... Giọng người đàn bà phía sau lưng lại cất lên và lần này làn hơi ấm phả qua mang tai Hoan. Hoan không biết anh sẽ đáp lời hoặc sẽ im lặng quay lại kéo cô ta xuống chiếc giường phủ tấm vải hoa tối màu kê cách anh vừa một sải chân. Những chiếc móng tay nhọn của người đàn bà rút từ vành tai anh xuống, nhè nhẹ kéo tấm áo sơ-mi gài trong lưng quần anh rồi chúng thò vào trong, lướt dọc theo sống lưng. Một cảm giác lạ lùng khiến anh sờ sững. Những chiếc móng tay kia chẳng dính líu gì đến anh, chúng chẳng là tài sản của anh, chẳng thể so sánh chúng với da thịt, hay môi mắt người đàn bà anh yêu, nhưng chúng gợi nên một thứ êm dịu anh chưa từng thụ hưởng. Cảm xúc này giống như thứ gió lạ, không phải gió quen thuộc hằng luân chuyển giữa trời cao, trên biển bờ đồng bãi núi đồi, mà là thứ gió âm u của hang động không rõ xuất xứ không dè lành độc nhưng nó du con người vào triền sóng khoái lạc, mơn trớn thân xác họ và khiến họ biết tự chiêm ngưỡng sự tồn sinh của bản thân. Hoan không còn nghĩ gì được nữa, hai mi mắt anh từ từ khép lại như để cảm nhận một cách thấm thía hơn cơn xúc cảm ngọt ngào kia. Lúc đó, người đàn bà lật hẳn tấm sơ-mi của anh lên, áp mặt chị ta vào lưng anh trong vài giây như để anh đủ thời gian nhận biết cử chỉ ấy, rồi trong lúc anh đang còn sững sờ chiếc lưỡi mềm mại của chị ta bắt đầu lướt dọc hai thớ lưng anh...

Hoan ậm ừ. Lúc đó, một cơn gió mạnh thốc vào khiến mùi nước đái bốc lên khai sặc. Hoan đưa mắt nhìn gian buồng, nhớ là đêm qua chính anh cũng đã tiểu tiện vài lần vào xó xỉnh nào đó. Giờ, anh đã phát hiện ra cái góc cỏn con phía sau chiếc chum đựng nước đêm qua người đàn bà ăn sương đưa anh tới. Chiếc chum sành lớn kê nơi góc phòng, dưới chân là một lỗ khoét thông ra ống cống phía sau. Trên miệng chum bập bềnh một chiếc gáo nhựa trắng, một tấm khăn bông nhớt nhát vắt bên. Bức tường vôi loang lổ, những vệt nước ngấm mọc thứ rêu quầng màu xanh xám xen các đám mốc trắng. Hẳn buồng bên kia cũng bần hàn trụy lạc như bên này, cũng một chum đựng nước nơi góc phòng với tấm khăn nhớt nhát và chiếc gáo nhựa cáu ghét, cũng ống cống thoát nước tiểu ngay dưới góc tường đêm đêm khách làng chơi xối tung tóe xung quanh...
Hoan thấy như cảnh buồn nôn này làm mặt anh nhem nhuốc. Anh kín đáo dúi mấy bạc lớn vào tay cô điếm rồi bảo Căng:
- Ta đi thôi...
Khi họ đã ra tới cửa, người đàn bà ăn sương còn nhào theo:
- Cảm ơn anh... Anh còn trở lại đây nữa chớ?
Hoan không đáp. Nhìn vẻ mặt nhớn nhác của người đàn bà anh đoán chắc rằng món tiền Lót dạ trên giường anh cho quá lớn so với lệ thường. Dường như Căng cũng đoán được điều đó. Gã quay lại bảo cô ta:
- Ðược rồi... Sẽ quay lại...
Nhưng khi hai người xuống cầu thang, gã nghiêm mặt nói với anh:
- Ðừng hào phóng rởm... Hang ổ nào cũng có luật chơi của nó.
Hoan không trả lời.
Khi họ ra khỏi ngõ, anh nói:
- Tôi có việc sáng nay.
- Tôi cũng vậy.
Căng đáp tức khắc. Rồi cả hai cắm đầu vùn vụt đi. Sau cùng, họ trở lại chiếc tủ kính bày hàng chồng thuốc lá. Gã chủ đang chờ. Vẫn bộ mặt to quá cỡ, sần sùi, các thớ thịt húc chọi nhau trên lăm cổ vậm vạp như cổ trâu mộng, vẫn đôi mắt hum húp vừa rình mò vừa hờ hững:
- Sao các ông ra muộn vậy?
Căng bảo:
- Mệt. Không bò dậy nổi.
Bộ mặt to phè kia lạnh như kem:
- Trả thêm mười lăm phần trăm phí tổn.
Căng kêu:
- Cái gì?
Hắn bảo:
- Ðúng luật chơi khách phải rời buồng trước còi báo thức thành phố. Giờ ấy cá đổi phiên và chúng tôi chuẩn bị sơ tán cho đám gái đi nghề. Qua giờ ấy khách phải trả thêm phí tổn rủi ro.
- Thôi được.
Căng làu nhàu nhẩm tính tiền đoạn bảo Hoan trả cho gã sáu tờ bạc lớn. Rồi họ xây lưng đi luôn không chào hỏi không ném ánh mắt lại. Gã chủ lầu xanh cũng nhìn họ với cặp mắt trống rỗng dửng dưng.
Hai người trở lại nhà Căng tắm rồi tới quán cà-phê ăn sáng.
Hoan hỏi:
- Anh có cảm giác gì khi rời khỏi nơi đó?
- Chạy càng nhanh càng tốt, tránh mặt được càng nhiều người càng hay. Lơ mơ chạm trán dân làm ăn thì hỏng chuyện.
- Chẳng lẽ bọn họ không ai lui tới đây?
- Có. Nhưng bố thằng nào dám thú nhận.
Hoan bảo:
- Người ta có gia thất đàng hoàng, ít ai đơn lẻ khổ sở như anh với tôi.
Căng cười hơ hớ:
- Chẳng đơn lẻ họ cũng thích nếm mùi vị mới. Hoặc giả vợ họ đã tới tuổi tắt kinh quanh năm tấp tểnh lễ chùa chẳng còn ham chuyện gối chăn nên họ phải mò mẫm tìm nơi giải thoát... Nhưng vì cớ gì, họ cũng sẽ tránh mặt người đời... Như bọn chúng ta đây...
- Con người giả dối thật.
- Ờ nghề buôn của chúng ta giả dối nhất hạng... Ðời đẹp là nhờ sự giả dối...
- Anh nghĩ thế à? Sao cũng có lúc anh thành thật với tôi?
- A... Anh muốn ám chỉ chuyện chơi gái? Phải, chuyện ấy tôi thành thực, thành thực trăm phần trăm. Anh là người tôi cũng là người, chúng ta đều có nhu cầu đại tiểu tiện. Vì thế khi cấp bách ta có thể rủ nhau vào một chuồng xí công cộng để tháo đống bã thải và sau đó quàng chân lên cổ mà chạy... Tôi đố anh đứng lâu trong một cái nhà xí công cộng bẩn thỉu như nhà xí của thành phố này.
- Vậy ra anh chẳng có chút tình cảm nào với người đàn bà đêm qua chia sẻ giường chiếu với anh? Tôi nghĩ hai người quen nhau đã lâu.
- Phải, ngót nghét hai năm... Nhưng tôi không có thừa tình cảm cho bọn đàn bà nằm ngửa lấy tiền...
Căng vừa đáp vừa nhìn xoáy vào mặt Hoan với vẻ tò mò riễu cợt không giấu giếm:
... Mày vờ đấy chứ? Gã lái buôn thành đạt nhất sáu tỉnh miền Trung, bọn có sỏi đầu ở Ðà Nẵng, Sài Gòn cũng phải gờm mặt... Không lẽ mày ngờ nghệch như vậy?
Hoan đọc thấu những ý nghĩ của gã nên đứng dậy trả tiền chủ quán:
- Tôi phải đi.
Căng gật đầu:
- Tôi cũng vậy...
Họ chia tay. Hoan trở về nhà tắm gội lại lần nữa rồi phóng xe ra bờ biển. Anh ngồi ở đó rất lâu, nhẹ nhàng và trống rỗng, chẳng nghĩ ngợi gì chỉ lắng nghe tiếng sóng ban mai nhìn thủy triều khoác tấm áo lam lộng lẫy dưới ánh trời. Trước mắt anh một con dã tràng loe ngoe khua những chiếc còng gày guộc. Bất chợt anh buông tiếng thở dài vì nhớ tới người đàn bà ăn sương gày nhom đôi mắt tô vẽ như mắt chó giấy:
... Dẫu sao ta cũng phải cảm ơn con người khốn khổ ấy... Dẫu sao ta cũng đã mắc nợ cô ta...
Mặc dù Căng bảo rằng đây là việc ăn bánh trả tiền, mặc dù anh đã cho cô ta món Lót dạ trên giường đặc biệt nhưng nỗi xót xa cho kiếp người vẫn ám ảnh. Anh nhớ tới khuôn ngực lép kẹp của người đàn bà, cặp vú dị hình và gương mặt nhem nhuốc phấn.
... Tội nghiệp, liệu khi lau hết son phấn, gương mặt ấy sẽ ra sao?


Chương 18

Mùa săn tới dải núi phía Tây mang dáng vẻ mơ màng kinh dị. Màu xanh ẩm ướt của rừng xuân điểm những lũng hoa sặc sỡ điểm ngàn cánh bướm sặc sỡ khiến đôi lúc người ta sững sờ ngột ngạt. Trên các lèn đá, những nhánh dương xỉ cực lớn cực mọng vươn lên, thân căng nhựa, rung rinh trong gió, nở to thêm tong mưa bụi, trổ những bông hoa đỏ rợn hồn. Bầu trời lúc xanh veo xanh vắt lúc phủ làn mưa bụi liên xiên trắng như bột vãi, chân trời tựa cặp mắt lúc khép lúc mở thi thoảng gợn lên một dải mây dài và mảnh như tấm lụa óng sắc ngọc trai. Ðột ngột, trong những ngày mưa bụi chưa ngừng, tiếng kèn săn rúc lên góc rừng xó núi, vang tới tận các xóm trại các nương tiêu nương sắn, các dải đồi trồng cà trồng ớt các thung lũng thả bò các dốc lóc cóc bầy dê... Tiếng kèn đó gọi người dân Xóm Núi và các vùng kề cận, khêu trong máu họ mùi vị hoan lạc cổ truyền, dóng lên thứ âm thanh xưa cũ làm rộn ràng máu huyết mời gọi bước chân và thú phiêu lưu. Những người đàn ông lôi cây súng săn cất ở xó kín, gỡ lớp giẻ tẩm dầu mỡ chống rỉ, chọn ngày nắng ấm ra sân lau chùi tra dầu mỡ, đếm lại số đạn dự phòng, tìm mua đạn mới. Rồi một ngày nào đó, họ sẽ vào rừng. Nơi ấy, họ cùng một lần tìm được thú phiêu lưu lẫn thứ thực phẩm thượng hạng, nếm lại mùi vị mê hoặc của huyền thoại mỗi năm chỉ được thụ hưởng một lần nếu thần may mắn chạm tay vào nòng súng. Nơi ấy, cũng có thể khiêng ra những kẻ rủi ro, đầm đìa máu, tay chân gãy cụt, mặt méo mó biến dạng vì gấu tát hổ vồ hoặc vì húc phải lợn độc thứ lợn lòi thành tinh biết đoán định đường đạn biết lẩn tránh hiểm nguy và thích tiêu diệt lọi kẻ thù đi bằng hai chân dưới...
Những người đàn bà trong vùng nhìn dải núi xanh rì, nơi mùa săn lên tiếng gọi chồng con họ mà không dám can ngăn. Họ biết ma lực của màu xanh kinh dị, họ hiểu ma lực của tiếng kèn âm vang quanh quất lúc khoan lúc nhặt, biết lì lẽ và kể cả những giọt nước mắt của họ cũng chẳng mùi mẽ gì trước sức mạnh thần bí của mùa săn. Họ đành lặng lẽ nhìn những người đàn ông vào rừng và âm thầm chờ họ trở về...
Ngay từ đầu mùa săn, Xá chột cùng mấy tay lính phục viên đã tới rủ Bôn nhập hội. Anh không có súng họ sẽ cho mượn súng, anh không sẵn tiền mua đạn họ sẽ cho anh vay tiền mua đạn, anh chưa từng mon men tới cửa phường săn họ cam kết sẽ giới thiệu anh nhập hội, tựu trung họ muốn đề cao thanh thế của cánh cựu chiến binh trong lãnh địa thiêng liêng này, và đó cũng là thứ tình cảm của những kẻ đã cùng xe chia thời cam khổ. Bôn khước từ tất thảy. Anh không muốn vào rừng, cũng chẳng muốn đi săn. Cuộc săn đuổi duy nhất anh dấn thân lúc này không phải cuộc thao diễn trong triền rừng mơ mộng và kinh dị, trong tiếng kèn run rẩy lúc vuốt dài như gió lúc vút cao như tia nước vọt tự mạch ngầm lúc lan tỏa âm u như sương trùm phủ kín núi rừng nương đồi, xóm trại. Anh ngồi trước sân nhìn chân trời phía tây, nghe tiếng kèn gọi bạn săn vọng về thấy tâm hồn anh đang tách khỏi thân xác anh bay lang thang vô định, tâm hồn anh như sợi bồ công anh gió cuốn không biết bay đi đâu, về đâu? Cuộc nỗ lực sinh cho được đứa con xem chừng càng ngày càng vô vọng. Miên đã công khai trở về nhà cũ. Buổi sớm chị đưa đứa con trai về đó, chăm sóc vườn tược, dạy con học vỡ lòng, bàn bạc công việc với người quản gia cho tới bữa cơm chiều mới quay lại với anh. Ðã nhiều lần rình mò, chưa lần nào Bôn bắt gặp người chồng trước trở về đó nhưng khoảng thời gian Miên đi vắng là khoảng thời gian tù đày, anh không thể làm một việc gì cho đến đầu đến đũa, kể cả việc lên núi hái lá Dâm dương hoắc hoặc ngồi nấu những món ăn bổ dưỡng. Anh lật đật làm mọi việc, lật đật đi theo chị vòng vèo quanh quẩn qua đường ngang lối tắt, lúc ghé nhà người quen vờ mượn cuốn họa báo hoặc xin nắm rau thơm, lúc ngồi lì nơi nhà Xá chột hoặc mấy người bạn đồng môn rình rập. Anh thấy mình khốn khổ hèn hạ, nhưng anh không thể không khốn khổ hèn hạ, không thể dập tắt lòng ghen, không thể quên đi hình ảnh chiếc quần đùi sang trọng lớn gần gấp đôi chiếc quần anh mặc, không thể gạt khỏi trí tưởng tượng những so sánh vụng lén và chua xót. Anh nghĩ tới ngôi nhà mênh mông của người đàn ông đó, nơi anh đã qua đêm đầu tiên khi trở về làng, đã trằn trọc trên tấm phản xà cừ nhễu đầy ánh trăng, đã nhìn người vợ ngày xưa của mình như nhìn một bà chủ cao sang và xa lạ... Vào khoảnh khắc đó, anh tưởng đã vĩnh viễn mất chị. Nhưng chị đã trở về cùng anh trong gian nhà lá tồi tàn, sẻ chia giường chiếu với anh. Anh đã tự nghĩ mình là kẻ may mắn nhất trên đời, giống gã ăn mày không những xin được phần xôi lại còn là xôi gấc. Trời cho anh cơ hội vàng và anh sẽ bơi được tới giải bờ hạnh phúc:
... Chiến tranh cũng như đời thường, thằng nào lì đòn thằng ấy thắng...
Anh nhắc thầm câu nói của tiểu đội trưởng mỗi sáng, mỗi chiều như kẻ sùng đạo đọc kinh. Anh lặp lại nó trăm lần như niệm chú trên con đường quen thuộc dẫn tới những dốc đá cheo leo mọc Dâm dương hoắc, anh thì thầm câu đó trong dạ mỗi lần tủi hổ ngửa tay cầm tiền của vợ, anh lập lại nó giữa hai hàm răng nghiến chặt giống kẻ buông lời thề độc sau mỗi cuộc làm tình hẫng hụt sau những nỗ lực không thành và anh đành đứng nhìn Miên tắm ngoài vườn mùi nước lá Thạch trinh hương xông ngút ngát... Nhưng cái điệp khúc ấy lần hồi cũng sờn mòn như thứ vải giặt nhiều lần bằng sút. Lần hồi, Bôn cảm thấy chúng rã ra từng mảnh, tựa những mảnh rêu nổi lều bều trên mặt nước. Anh biết anh không còn đủ can đảm dán dòng chữ đó như dán lá bùa trước ngực để che chắn ma tà để giữ được niềm tin vào bản thân. Một ngày, Miên nhìn thẳng vào anh và nói:
- Từ mai, em sẽ đưa cu Hạnh về nhà cũ, con em cần chơi đùa ở đó. Nó đã chán mảnh sân chật hẹp nhà dì Huyên.
Anh đứng lặng như bị ai đấm vào gáy một cú đau điếng. Mãi sau anh mới cất tiếng nổi:
- Em... Miên đừng làm thế... Xóm làng dị nghị.
Chị lạnh lùng đáp:
- Xóm làng nói gì mặc họ. Em muốn con em được sung sướng. Bố nó ở trên thành phố, chỉ về Xóm Núi ngày Chủ Nhật. Chủ Nhật em sẽ ở lại nhà anh.
Ngừng một lúc chị nói thêm:
- Ở đây, không thứ gì sinh nở ra tiền. Muốn sống phải làm việc. Ðằng kia, em có nương vườn đủ các nguồn thu. Ông già Lư giúp em coi sóc.

Tới đó, Bôn tắc họng. Nương của anh vẫn nguyên là mảnh đồi hoang rậm. Anh cuốc đất hai lần thử sức, cả hai lần đều đổ bệnh nằm dán xuống giường cả tuần lễ. Lần đầu, Xá chột nghe tin mang chục trứng tới thăm. Vào lúc Miên sang nhà dì Huyên chăm đứa con trai mọc răng hàm, Xá bảo:
- Cậu tưởng cuốc nương ngon như hồi mười tám hay sao? Lãng mạn bỏ mẹ...
Anh lặng im, và Xá tiếp:
- Cậu biết tay Hoan chồng cô Miên làm nương ra sao không?... Khởi đầu hai vợ chồng họ cũng tay cuốc tay cày như mọi người, nhưng sau đó Hoan đã phá một lúc ba nương tiêu và một nương cà-phê nhờ hoàn toàn vào sức dân Xóm Núi và hai làng phụ cận. Thời đó, hàng hóa cực hiếm, người ta phải phân phối từng chiếc quần đùi tới miếng xà-phòng giặt nhưng anh ta đã kiếm được hàng bao tải áo quần, các loại thực phẩm quý, các loại thuốc lá, rặt những thứ hàng cao cấp sĩ quan quân đội mới dám sờ tới. Hoan nhờ bà con khai nương, trả công bằng hiện vật. Chẳng cứ dân Xóm Núi mà ai ai cũng náo nức đến làm cho anh ta, vừa được tiếng vừa có thứ cần dùng. Bằng cách ấy Hoan khai nương mở rẫy nhanh hơn các nông trường quốc doanh trong tỉnh. Sau ngày hòa bình, hàng hóa không còn khan hiếm như trước, Hoan thuê người trả công sòng phẳng. Anh ta sắm được máy cày tay, máy bơm nước, máy phát điện sớm nhất vùng... Ðã lần nào cậu đến nương rẫy nhà họ chưa?...
- Chưa... Tôi chưa rảnh...
Bôn đáp, dù đã nhiều lần anh lượn lờ thầm vụng ngắm những vườn tiêu và cà-phê của kẻ địch tình.
Xá giương con mắt lành nhìn chòng chọc vào mắt Bôn. Và anh đành nói tiếp một câu vô vị:
- Mà tôi cũng chẳng liên quan gì tới vườn tược nhà họ...
Xá thở dài đánh khượt:
- Dù có rúc đầu vào cát như con đà điểu cậu cũng thua kém người ta đủ bề. Nói cậu đừng giận. Làm người phải có gan nhìn vào sự thật. Từ buổi đầu tôi đã bảo cậu nên tỉnh táo trước hoàn cảnh của mình. Làm sao cậu thắng nổi trong cuộc cạnh tranh?...
- Tôi chẳng cạnh tranh với ai hết... Tôi sống phần đời của tôi, tôi cày mảnh đất của tôi...
Anh nổi sùng, vặc lại Xá. Xá bỏ tay vào giỏ, lấy từng quả trứng đặt lên đĩa cho Bôn, những quả trứng tươi hồng mà Bôn biết rõ là cô vợ đảm đang và tốt bụng của Xá đã nhặt từ dãy ổ gà đặt phía sau chuồng lợn, dưới một túp tranh được gá mấy mảnh ván tạm làm chuồng. Xá hứa với vợ sẽ đóng cho cô chiếc chuồng gà thật oách, đủ nuôi một lần ba chục gà thịt và mười hai ổ trứng nhưng anh ta bận đi rừng, làm nương, đóng đồ mộc, xẻ gỗ và giúp đỡ xóm giềng, làm cái thứ công việc mà mọi người đều gọi là: Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng... Bởi thế cái chuồng gà vẫn còn là lời hứa và cô Xoan vẫn nuôi gà trong cái chái tuềnh toàng nhưng người đàn bà thảo lảo đó rất mát tay nên mấy bố con Xá quanh năm ăn trứng thỏa thuê:
... Tại sao Miên không chịu nuôi lấy vài lứa gà nhỉ?... Vườn nhà rộng và ta tuy yếu nhưng cũng thừa sức đóng được chiếc chuồng gà... Ta không thể lặn lội rừng sâu làm sơn tràng như Xá nhưng...
Anh nghĩ tới đó chợt dừng lại, bởi anh hiểu Miên không bao giờ nuôi một loại gia súc nào trong ngôi nhà này, nhà của anh. Chị đã thử gieo vài luống cải nhưng cải chưa kịp lớn đám con Tá đã nhổ sạch. Miên sống ở đây như khách trọ. Chẳng ai gieo cấy, nuôi trồng trong mảnh vườn lữ quán... Anh biết Xá có lý nhưng không dám thừa nhận.
Sau cùng, anh bảo bạn:
- Tôi đợi sức khỏe hồi phục, lúc đó tôi sẽ ra tay. Cậu thấy đấy, thời chúng ta đi học...
Xá lắc đầu:
- Liệu bao giờ sức khỏe cậu hồi phục?... Và liệu bao giờ cậu sẽ ra tay?... Tôi đéo tin những chữ sẽ trên đời. Một trăm thằng nói sẽ chín mươi chín thằng bịp.
- Thế anh muốn tôi phải làm gì?
- Cậu không thể sống mãi bằng tiền của cô Miên. Tôi đã nói rồi, ấy là tiền của người đàn ông kia để lại.
- Anh nói lạ... Nếu anh ốm, anh sẽ nhờ vợ anh hay ra đường ngửa tay ăn mày?
Xá bất đồ vung tay đứng dậy, con mắt lành của anh ta long lanh lửa giận và anh ta nói như hét vào mặt Bôn:
- Cậu không ví được với tôi... Nếu tôi ốm, tôi sẽ nằm thẳng cẳng ra giường. Con vợ tôi sẽ phải cơm bưng nước rót, sẽ phải nấu nước lá cho tôi tắm, kì lưng gội đầu cho tôi... Nếu tôi chẳng may bán thân bất toại nó sẽ phải bưng bô đổ cứt cho tôi... Và tôi cũng sẽ hầu hạ nó như vậy nếu chẳng may nó gặp tai nạn, giống như bất kì thằng đàn ông có lương tri nào khác... Nhưng cậu không thể ví với tôi...
Nói tới đó Xá chợt dừng lại đột ngột, cánh tay anh ta buông thõng và anh ta lại ngồi xuống ghế. Bôn biết rằng bạn đã ghìm lại câu nói sau chót, câu nói đó có thể là một đòn quá tàn nhẫn với anh. Hai người lặng im hồi lâu. Sau đó Xá lên tiếng:
- Tôi về đây.
- Phải, anh về.
Anh đáp lạnh lẽo.
Xá ra sân rồi lại quay vào:
- Này Bôn.
- Có chuyện gì vậy?
- Chúng ta là bạn từ thuở cởi truồng, lại cùng là lính giải ngủ, cậu hiểu điều đó chứ?
Bôn ân hận nên dịu giọng:
- Tôi biết anh là người tận tâm nhất với tôi trên cõi đời này.
- Thôi được, nếu cậu hiểu cho tâm địa tôi, tôi xin nói lại lần nữa. Cậu có thể có được một cuộc sống khác, hạnh phúc khác... Tôi nghĩ, có một thứ trong tầm tay cậu...
- Anh lại muốn nói tới cái nông trường với hai trăm cô thanh niên xung phong chứ gì?
- Phải, cậu bạn tôi vừa được bổ nhiệm từ trưởng phòng tổ chức lên thẳng giám đốc. Giám đốc cũ được triệu về Hà Nội. Cậu ấy có thể thu xếp được một chỗ yên ấm...
- Cảm ơn anh nhưng tôi không thể.
- Cậu nhất quyết ở lại đây?
- Ðúng.
- Cậu đã tính kỹ mọi bề?...
- Tôi yêu Miên. Tôi muốn có con với Miên. Ðứa con chúng tôi sẽ hòa trộn hai dòng máu và cô ấy không bao giờ có thể tách khỏi tôi.
Xá đứng ngây nhìn anh như nhìn người rơi từ sao Hỏa. Dường như anh ta định nói thêm điều gì nữa nhưng sau rốt yên lặng quay đi. Lần này, Xá đi thẳng.
Lượt Bôn cuốc nương lần thứ hai đổ bệnh Xá không đến. Anh ta cho thằng cu lớn đem cho Bôn một mái gà. Nhưng tịnh không lời thăm hỏi. Rồi mùa săn tới, Xá đột ngột cùng bọn cựu chiến binh đến rủ anh vào phường săn. Anh ta vẫn tinh ranh, xốc nổi như thế, con mắt lành vẫn long sòng sọc, tay chân vẫn khua khoắng hăm hở như gã trai tơ... Bôn từ chối, nhưng khi Xá cùng đám bạn săn ra đi anh nhìn theo họ, lắng nghe tiếng cười nói lao xao vui vẻ của họ, thấy tay chân rã rời, chân trời trước mặt anh nứt rạn từng mảng và tâm hồn anh tách khỏi thân xác phiêu du trong không gian vô định. Ðôi lúc, tiếng kêu của lũ bò hay đàn dê nhà ai về chuồng khiến anh bừng tỉnh giấc mê ngày, và anh mường tượng lại cuộc chuyện trò của anh với Xá, nhìn thấy ánh mắt tinh quái sắc nhọn đầy ngờ vực của gã thần hộ mệnh:
... Có lẽ Xá có lý. Ta không thể so sánh với anh ta. Cuộc sống lứa đôi của họ khác ta...
Những cuộc làm tình khốn khổ của anh nối tiếp không ngừng và cũng không ngừng trượt xuống rãnh sâu tuyệt vọng. Dường như càng ngày anh càng đắm đuối càng rồ dại càng quỵ lụy hèn mọn Miên càng lạnh lùng băng giá. Họ thường để đèn đêm và vì thế sau mỗi cuộc làm tình anh không thể không đưa mắt vụng lén quan sát gương mặt chị. Lần nào anh cũng thấy chị nhìn đâu đó với ánh mắt nhẫn nại với vẻ chịu đựng và sự nhờn tởm không che giấu. Rồi sau những giây phút đó, dù trời nóng hay lạnh dù non nửa đêm hay gần về sáng bao giờ chị cũng vùng dậy nấu nước lá Thạch trinh hương ra vườn tắm. Một đêm Tá rình mò, chờ đúng lúc Bôn đi tiểu vào chắn lối hỏi:
- Ðêm nào cô ấy cũng tắm như vịt thế hả?
Hai mắt Tá long lanh như hai hòn than hướng vào anh. Bôn gắt:
- Vợ tôi muốn tắm lúc nào là quyền của cô ấy, không dây dưa đến chị.
Tá thấp bé nhưng lúc đó làm điệu sừng sộ, chống hai tay lên hông.
- Tôi là chị cậu...
Bôn bảo:
- Chị đi ngủ đi.
Tá nói:
- Cha mẹ chết rồi, chỉ còn tôi... Tôi không muốn người ta khinh bỉ cậu.
- Nếu chị muốn người ta đừng khinh bỉ tôi trước hết hãy bảo lũ con thôi vác rá sang đây xin gạo, thôi vác bát sang đây xin thức ăn...
Nói tới đó, một cơn phẫn uất bỗng dưng xộc tới khiến cổ họng anh tắc nghẹn, sống mũi anh cay xè, anh phải cố ghìm nén để không giáng một đấm vào mặt người đàn bà anh phải gọi là chị:
- Ði đi... Vào buồng của chị. Và đừng để tôi nhìn thấy mặt...
Sau cùng, anh gằn từng lời một. Có lẽ điệu bộ dữ dằn của anh khiến Tá sợ. Chị ta làu bàu:
- Ðồ ngu... Người ta muốn tử tế thì lại sinh sự...
Ðoạn quay ngoắt vào buồng. Bôn đứng lại đó, biết Miên đã nghe hết cuộc đối thoại của họ nhưng chị vẫn tiếp tục tắm, tiếng nước xối không ngừng, thong thả và bình thản. Tiếng xối đó như dầu sôi tưới lên mặt anh, da thịt anh, tâm hồn anh:
... Mẹ cha ơi, sao con nhục nhã như vầy?... Uổng bao năm đèn sách?...
Lúc đó, trong anh tiếng hét vọt lên và anh cảm thấy anh cần phải chết, phải giết người hoặc làm điều gì đó để chấm dứt cuộc sinh tồn. Nhưng anh vẫn đứng chôn chân trước cửa gian buồng, trời đêm mát lạnh bên trên, ánh lửa bờ giếng ở ngay trước mặt soi mập mờ da thịt của người đàn bà đang tắm. Anh không biết vì sao, anh vẫn si mê chị. Một nỗi say mê tủi hổ, tuyệt vọng nhưng chẳng cách nào chấm dứt.
... Ta đã chọn con đường này, ta đã đánh hết đời ta vào canh bạc này. Cổ nhân đã dạy rồi: Bước chân đi cấm kì chạy lại. Bước chân lại chó dại cắn chân...
Ta không còn ngả rẽ...
Cứ cho những lời Xá có lý, giờ đây nếu anh tới nông trường kia tìm trong hai số cô thanh niên xung phong quá lứa một bạn tình, chắc gì anh đã hạnh phúc hơn những ngày sống ở Bản Kheo cùng nàng Thoọng?... Những năm lạc đơn vị, bạt rừng, mấp mé bờ cái chết, người đàn bà Lào câm điếc ấy đả ấp ủ anh, che chở anh, yêu thương anh với một tình yêu đắm đuối nồng nàn và đầy nhẫn nhục... Nhưng lúc ấy, anh cũng đã làm tình với chị với vẻ ban phát, lạnh lùng cao ngạo như Miên đối với anh bây giờ. Anh đã nếm đúng thứ quả đắng người đàn bà Lào yêu anh phải nếm. Cuộc đuổi bắt trớ trêu, thứ ái tình oan nghiệt Ông Tạo tròng vào cổ những kẻ rủi ro. Anh nhớ tới gương mặt nàng Thoọng, màu váy áo của nàng và những năm tháng anh gửi lại bên kia cách rừng biên giới...
Dạo đó, anh lạc đơn vị. Trong một cuộc hành quân bí mật mà các hạ sĩ quan và lính tráng chỉ đoán được lờ mờ qua các cuộc tập huấn ngắn ngày, vội vã nhưng vô cùng gay gắt. Ban ngày, tất cả mọi người đều ngủ, nguyên trong trang phục chiến đấu, không rời vũ khí, lá ngụy trang trên mũ và quần. Bắt đầu nhọ mặt người các cánh quân xuất phát không kèn trống, không quân lệnh rõ ràng mà các khẩu lệnh hẹp được truyền từ tiểu đội này sang tiểu đội kia, với một giọng thì thầm như sợ cây rừng là các mạng ra-đa giăng bẫy bắt tin cho địch. Như vậy, họ mò mẫm tiến lên trong bóng đêm, người nọ nối lưng người kia bước nhờ nghe hơi thở, nghe tiếng bước chân, ngửi mùi mồ hôi và thi thoảng, nhờ lân quang rọi chiếu từ những đám nấm lửa hoặc lá mục. Nửa đêm cuối tuần, bom đánh tan tác phân cắt đoàn quân thành các mảnh vụn. Bôn bị bom ném ngất xỉu. Lúc anh tỉnh dậy, xung quanh chẳng bóng người. Trời đã rạng sáng và anh nhận ra anh đang nằm chênh vênh trên đám bụi cây mọc lưng chừng vực. Trên đầu anh là vách đá gần như dựng đứng thả các chùm dây leo, dưới chân anh chừng hai mươi thước là dòng khe róc rách chảy. Có lẽ, chỉ nhờ phép lạ của thần Rừng hay quỷ Núi anh mới rơi trúng bụi cây kia và sống sót. Thứ dây leo mảnh dẻ trên đầu anh ngay đến loài khỉ bầy nặng vài ba cân cũng khó leo huống hồ anh, ít nhất cũng trên dưới nửa tạ. Con đường hành quân giờ chắc đã nát nhừ, và chẳng biết bao nhiêu người đã chết còn bao nhiêu kẻ may mắn sống sót như anh?... Bôn định hú gọi đồng đội nhưng anh ngờ tiếng gọi của anh có thể chỉ đường cho một nhóm thám báo hoặc biệt kích nào đó hơn là những người cùng hàng ngũ. Anh đành nín lặng tìm lối thoát thân.
Ðường leo lên không có, chỉ có thể bám sát vào vách đá bò dần xuống lòng vực rồi cứ thế men theo khe nước đi ngược lên. Ðá lởm chởm, thẳng đứng nhưng có những bụi rậm nhỏ hoặc những loài gai bụi từ các hốc đâm ra. Bôn níu lấy chúng, tụt từng bước xuống lòng khe. Phải gần một giờ sau anh mới chạm chân tới đáy vực. Nước cạn nhưng buốt lạnh. Anh lần theo dòng nước đi ngược lên. Năm ngày sau, ăn hết mẩu lương khô cuối cùng anh mới tới được đoạn vực nông lòng, vách đá có thể leo lên được. Tới bờ vực, Bôn nhằm hướng Ðông mà đi, hy vọng gặp đường biên giới nơi những toán giao liên dẫn quân ra vào. Nhưng sau ba tuần sống bằng củ mài với nước suối, anh đặt chân tới một bản Lào heo hút. Mảnh đất hoang vu ấy rất đẹp. Sau những ngày rúc ráy trong rừng anh được vươn thẳng lưng nhìn chân trời, thở hít không khí thoáng đãng giữa thung lũng tràn đầy nắng ấm. Ở đó, mọc thứ cỏ xanh dịu chưa từng thấy trên đất Việt. Men theo các thung, những rặng cây hoa vàng đứng như ngái ngủ. Hẳn chiến tranh không chạm tới đây. Có lẽ đó là sự vô tình hoặc một ngoại lệ hiếm hoi. Bôn nhớ anh đã đứng rất lâu trước thung lũng, nửa như mơ nửa như tỉnh, vừa đói khát rã rời vừa cảm thấy tâm hồn bình ổn lại. Sau một hồi lâu anh mới tiếp tục vượt qua thung lũng vào bản. Buổi trưa im lặng, tiếng chó sủa cũng lười biếng không buồn cất lên, mọi người mọi nhà đều chìm vào giấc ngủ chỉ riêng đám gà trống cất tiếng gáy để đánh thức những rặng cây hoa vàng trong thung lũng. Qua những bụi mía và rừng bí ngô, anh bước tới trước cầu thang ngôi nhà sàn đầu bản. Ðứng dưới dãy đu đủ trĩu trịt quả chín, anh cất tiếng gọi rất lâu nhưng không ai đáp lại. Khi đã hoàn toàn thất vọng, Bôn định lê sang ngôi nhà sàn thứ hai, bỗng có tiếng sột soạt sau lưng. Anh quay đầu lại và tức khắc đôi mắt tròn thô lố ngây dại của một người đàn bà hiện lên trước mặt anh. Cô ta vừa chui ra từ vườn mía ra, một tay cầm con dao đầy bụi phấn, tay kia lôi bó mía.
- Chào cô.
Bôn lên tiếng.
Người đàn bà gật gật đầu, cặp mắt tròn ngây dại vẫn nhìn như dán vào anh. Bôn đang khát. Và anh không cầm lòng đậu liếc nhìn bó mía. Người đàn bà kia hiểu ngay tức khắc. Cô đưa ngón tay trỏ chỉ vào miệng anh rồi nuốt nước bọt khan vài lượt, Bôn hiểu rằng cô bị câm, anh gật đầu, đưa ngón tay trỏ vào cổ họng mình. Người đàn bà Lào giơ tay chỉ về phía cầu thang, phác một cử chỉ cho anh bước theo rồi cô ta thoăn thoắt leo lên trước, vừa leo vừa kéo bó mía theo. Bôn bước theo cô, mùi hôi từ tấm váy người đàn bà thốc vào mũi anh nhưng cảm giác khó chịu ấy kéo dài không lâu khi anh đặt chân lên sàn, bóng râm mát của mái lá che cái đầu nóng bỏng của anh, không gian yên tĩnh mát mẻ vây phủ tấm thân mệt mỏi và tâm hồn rã rời khắc khoải của anh. Nhà sàn nơi đây rất rộng, không có thứ vật dụng gì ngoài những tấm thảm rải vải lanh thêu rực rỡ. Có hai đứa trẻ đang dang chân tay nằm ngủ. Ngủ rất say, chúng không hay biết sự hiện diện của kẻ lữ hành đói khát. Người đàn bà câm lấy bát rót nước từ chiếc ấm sành đặt trên bếp đưa cho Bôn. Anh uống một hơi cạn bát nước mà không kịp nhận biết mùi vị. Người đàn bà tiếp tục rót cho anh bát nước thứ hai đoạn lấy dao chặt mía thành từng khúc. Xong xuôi, chị ta bỏ tất cả mớ mía đã chặt vào chiếc thúng, đặt trước mặt Bôn. Rồi, ngồi xệp xuống bên anh theo kiểu ngồi thường thấy ở những người đàn bà vùng núi, chị cầm khúc mía tước vỏ ăn như để làm gương. Bôn không nói gì thêm, lẳng lặng xước mía ăn liền ba tấm. Gian nhà chỉ vang lên tiếng họ róc vỏ và hít nước. Một thứ âm nhạc câm lặng có đôi phần dung tục, nhưng lúc đó, anh như được hồi sinh. Anh thở. Và chừng vài phút nữa, cơn đói gào réo. Lúc đó Bôn mới biết rằng anh vừa uống hai bát nước chè già, thứ chè dại mọc rất nhiều ở phía Tây dải Trường Sơn, uống thứ chè đó không ngon nhưng rất tỉnh và điều tệ hại hơn, rất đói. Cơn đói trường kỳ của ba tuần lễ dồn vào lúc ấy, khiến Bôn bất giác ôm bụng. Người đàn bà hiểu ngay. Cô đứng lên, lấy trên gác bếp chõ xôi, vét trong đó được hơn một bát đem lại cho Bôn, rồi đưa cho anh một chiếc bát nhỏ hơn đựng muối vừng đen giã lẫn củ sả. Anh đã ăn bát xôi ấy, ngon hơn thảy những bữa ăn ngon lành nhất anh từng được hưởng... Người đàn bà Lào ngồi đối diện với anh , hai bàn tay ấp lên đùi, tấm váy thêu xòa ra trên sàn gỗ. Bôn nhìn những hình hoa văn trên tấm váy, thấy chúng đẹp lạ thường, chúng đã cứu anh khỏi vực thẳm, rừng sâu, sợ hãi đói khát và cô quạnh, lũ cừu thù vây rượt anh gần một tuần trăng:
... Ta còn sống... Dù chẳng tìm được đơn vị nhưng đã may mắn thoát khỏi bọn thám báo lẫn vuốt hổ. Người đàn bà này là thần hộ mạng của ta...
Anh đã nghĩ vậy, tràn ngập lòng biết ơn với cô, hướng về cô ánh nhìn trìu mến và nói:
- Cảm ơn cô.
Người đàn bà chừng như cảm nhận được điều anh nói. Ðôi mắt cô cụp xuống trong một thoáng sung sướng e lệ. Rồi cô chạy vào một trong số ba gian buồng thưng gỗ trên ngôi nhà sàn thênh thang. Lát sau, cô mang ra cho anh một đĩa mứt gừng. Bôn nhấm nháp thứ mức cay sặc, bốc mùi mật mía, toàn thân anh ấm nóng lên mau lẹ và khi anh ăn hết đĩa gừng, mồ hôi anh thoát ra đầy cổ đầy lưng. Người đàn bà đem tới một tấm khăn bông lớn cho anh lau mặt, lau cổ rồi cô tiếp tục đưa tới cho anh một tấm gối. Bôn nằm xuống, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ. Anh ngủ như thế cho đến tận sáng hôm sau, một giấc ngủ thần tiên không mê hoảng, không sợ hãi, không phải giỏng tai lên nghe ngóng dè chừng thù địch hay muông thú. Khi Bôn ngồi dậy, ngôi nhà đã đầy người. Tất cả đều ngồi quanh bếp lửa. Và tất cả đều hướng về anh cái nhìn hân hoan, chờ đợi. Trước hết, là một người đàn ông cỡ ngoài ba mươi tuổi, anh đoan chắc là anh ruột của người đàn bà câm vì anh ta có vóc dáng và gương mặt y hệt như cô em nhưng tất thảy các đường nét đều đẹp hơn, tinh tế hơn nhất là đôi mắt xếch sắc lẻm sáng quắc như mắt những kẻ nhập đồng. Vợ anh ta ngồi bên, nhỏ nhắn mũm mĩm như một con búp-bê lớn với cặp má hồng tươi tốt và dù đã có hai con trông chị ta vô cùng trẻ. Ngồi đối diện với cặp vợ chồng người anh và hai đứa con trai họ là một cặp vợ chồng già, rất già... Có lẽ họ phải ngót trăm tuổi nhưng vẻ rất tinh tường, cả hai đều mặc quần áo đẹp. Anh trai người đàn bà câm đứng dậy trước tiên, tiến lại phía Bôn chìa bàn tay cho anh với mối thiện tình không cần lý giải. Bôn cũng đưa bàn tay của anh ra như sự đáp lời. Hai người đàn ông nắm tay nhau. Và đó là thứ ngôn ngữ duy nhất để họ trao đổi. Sau thủ tục ấy, tất cả mọi người đều thở dài khoan khoái, dường như một thứ giao kèo đã được ký nhận, đặc biệt sung sướng là người đàn bà câm.
Cô ngồi phía sau chị dâu, hai chân gập lại, tấm váy mới xòe quanh khoe trọn vẹn những đường hoa văn rực rỡ. Anh trai cô nắm tay Bôn dẫn tới trước cặp vợ chồng già. Theo các cử chỉ và vẻ mặt của anh ra, Bôn biết đó là những bậc trưởng thượng trong làng bản, những người có uy quyền cao nhất trong dòng tộc và có thể thay thế sứ mạng của những bậc phụ huynh đã chết. Cặp vợ chồng già lần lượt lên tiếng, vợ nói trước, chồng nói sau, chậm rãi và trang trọng, một thứ ngôn ngữ anh không hiểu nhưng anh đoán được nội dung và sự thô mộc giản đơn của chúng. Anh im lặng, tỏ ý tuân phục, dù cho đến lúc ấy, anh cũng chưa kịp hiểu họ yêu cầu điều gì nơi anh và anh tuân phục những gì?... Ông già nói xong, vẫy người đàn bà câm tới trước mặt Bôn, ông cầm tay Bôn và cầm tay cô, đặt vào nhau. Bôn để mặc cho họ hành động. Anh hoàn toàn như con rối dưới sợi dây số mệnh. Cuộc đời anh trôi dạt đến thế, làm sao còn dám toan tính theo mình?... Bàn tay anh nắm bàn tay người đàn bà Lào xa lạ và sau cái nắm tay ấy hẳn cuộc đời anh sẽ phụ thuộc vào cô, anh lờ mờ hiểu điều đó nhưng chẳng đo đếm, suy tính nhiều hơn. Bởi lúc đó, bàn tay người đàn bà là cây cầu nối anh với đời sống. Bên kia cây cầu là bóng đêm rừng thẳm, là ngọn lửa thiêu trên cao điểm 327, là những cánh rừng bịt bùng ngộp hơi, là xác chết và những bầy chim kền kền độc địa rượt mồi...
Những ngày sau đó tuần tự trôi. Người anh dựng cho cô em hẩm phận một căn nhà sàn, cách ngôi nhà mình không bao xa, chỉ hai nương mía, một vườn bí ngô và một nương bắp. Chính anh ta chứ không ai khác đã kéo từ rừng về những cây gỗ thân tròn, thẳng tắp được đục sẵn đã lâu. Cũng chính anh ta và đám bạn nghề bào đẽo các thân gỗ, đục con xỏ, tính toán ráp nối các vì kèo. Sau đó, anh đánh xe trâu vào rừng lấy lá lợp. Hẳn người đàn ông này đã lãnh trách nhiệm trước những người quá cố rằng anh sẽ thay mặt họ chở che và lo toan cho cô em tật nguyền suốt cuộc đời. Tất cả những gì anh tu tạo cho đứa em gái kia hoàn toàn mang phong thái của bậc cha mẹ. Trong suốt thời gian dựng nhà, Bôn được chỉ định ở lại ngôi nhà sàn của vợ chồng người anh để nghỉ ngơi, bồi dưỡng cho lại sức và tập cách chuyện trò với cô vợ tương lai bằng ngôn ngữ câm điếc. Anh hiểu rằng anh sẽ phải sống với cô một cuộc sống lâu dài nếu không nói là mãn kiếp. Anh không có bản đồ, không địa bàn, không xe ngựa, không có đến cả lòng can đảm để vượt khỏi vùng đất này tìm đường về tổ quốc. Sau bấy nhiêu thăng trầm vật vã một cuộc sống an bình và an toàn đã là tất cả những gì anh ao ước. Ngày lại ngày, nàng Thoọng đun nước lá thơm cho anh tắm, đồ xôi với gà cho anh ăn, nàng nấu thêm một thẩu mứt gừng lớn cho anh uống trà buổi sớm và làm thứ bánh rán mật của người Lào vùng núi cho anh ăn sau bữa xôi chiều. Bỗng dưng anh trở thành nhân vật số một trong gia đình họ. Không khí Bản Kheo êm ả lạ thường, những trận bom sấm sét trên đường Trường Sơn thi thoảng vọng tới những âm vọng mơ hồ hư ảo như thứ tiếng động hậu trường sân khấu ở rất xa. Bầu trời Bản Kheo trong vắt không hạt bụi. Tiếng gà gáy là thứ âm nhạc duy nhất điểm nhịp thời gian. Buổi sáng ong bay rù rì tìm mật, buổi chiều tiếng chim gọi nhau về tổ chiu chít trước mái sàn. Ðêm sương lạnh, bọt củi lách tách nổ khiến không gian càng êm ả, an bình hơn. Trong cái không gian ngái ngủ ấy, anh thả mình trong dòng sống an nhiên lười lĩnh, thân xác được hồi phục, máu chảy dạt dào trong huyết quản và đêm đêm làm tình với người đàn bà bằng xương bằng thịt dù chẳng yêu mê nhưng cô cũng cùng anh cập tới ngọn triều khoái lạc bù lại những năm tháng đói khát dục tình...
Ngày người anh trai đã chuẩn bị đầy đủ vật liệu, dân toàn Bản Kheo xúm tới dựng nhà cho cặp vợ chồng mới, một kẻ lạc rừng ngoại xứ và một người đàn bà hẩm phận chờ đợi hạnh phúc đã ba mươi năm. Nhà dựng trong năm ngày đã xong. Sáng ngày thứ sáu cặp vợ chồng trưởng tộc làm lễ kết hôn cho họ. Cuộc tế lễ ở đây thật đơn giản không hương khói, không pháo nổ, không khăn áo đưa dâu đón dâu. Chỉ lời khấn nguyện của hai bậc trưởng thượng ở giữa trời, cầu chúc thần linh che chở và hạnh phúc được bền vững. Dân bản đứng thành vòng tròn xung quanh chứng giám cuộc nguyện cầu. Sau khi khấn nguyện, các bậc trưởng lão buộc chỉ vào cổ tay cô dâu chú rể. Một đội hát chừng năm bảy bà già cất lên khúc ca ngắn, trong lúc các đứa bé gái ném vào váy cô dâu nắm gạo sống và một nắm hoa. Như thế, lễ kết thúc. Dân bản ngồi xuống ăn cỗ cưới, gồm xôi trắng, thịt nướng và một thứ bánh tựa bánh mật, gói lá chuối được hông trong những chiếc thống hông xôi cao ngang đầu người. Cỗ cưới liên miên suốt ngày, từ sáng tới chiều.
Khi mặt trời xuống núi , ai trở về nhà nấy. Hai chuyến xe trâu chở tới rương quần áo của cô dâu, những tấm nệm mới, một chum muối, những vật dụng làm nương và để hai người ở lại với nhau.
Ðêm hôm đó, vào lúc tiếng xe trâu đã thôi nghiến trên đường, màn đêm buông phủ trong ngôi nhà rộng rênh chỉ còn anh ngồi đối diện với người vợ Lào, Bôn bắt đầu sợ. Anh đã buộc trở thành chủ nhân mái nhà này, đức ông chồng của người đàn bà câm điếc và cuộc sống của anh sẽ được vĩnh định ở nơi đây, mảnh đất hai tuần trước anh còn tưởng như thiên đường nhưng giờ này hứa hẹn buồn tẻ và sầu não. Ngôi nhà sàn riêng biệt là cái cũi nhốt chung anh với người đàn bà câm điếc, không còn những đứa trẻ xinh xắn vui vẻ, không thấy người đàn bà búp-bê có nụ cười tươi tắn, không có những bữa cơn đông đảo dù không có ngôn ngữ chung nhưng mối thiện tâm cũng gắn bó được con người. Giờ đây chỉ trần trụi anh và cô, cô và anh. Lứa đôi. Ðôi lứa. Một cuộc sống thu hẹp tới mức này chỉ tương hợp khi hai người cùng yêu nhau say đắm. Nhưng anh không yêu cô, anh không thể yêu cô. Cơn nguy nan đã lùi lại phía sau. Nỗi đói khát dục tình đã được lấp đầy. Giờ, cô không còn là vị thần hộ mệnh của anh. Cô chỉ còn là chủ nợ, và anh phải trả cô món tiền ân nghĩa. Bôn lén đưa mắt nhìn cô, ánh lửa hắt lên gương mặt thô lậu của cô soi rõ những đường nét lệch lạc, khuyết hãm. Lạ kỳ thay, cùng một vóc dáng, nhưng nét dao lượn của ông Trời chỉ đi xa một ly hay đi gần một ly là đủ biến chàng Tú Ngọc thành quỷ dạ xoa. Những đường nét trên gương mặt người anh trai trông trượng phu và cuốn hút bao nhiêu thì trên gương mặt cô chúng lạc lõng và phản cảm bấy nhiêu. Bất chợt, không nén được anh buông tiếng thở dài. Những tấm váy thêu rực rỡ không cứu nổi cô nữa. Cả đám vòng bạc lóng lánh trên cổ tay cô cũng không còn khiến anh quên đi những chiếc răng lớn như răng ngựa thường nhe ra một cách đờ đẫn mỗi khi cô cười. Cô sẽ không còn đem lại cho anh thứ gì khác hơn vẻ đờ đẫn và những cơn ham muốn dục tình. Ðó là toàn bộ màu sắc cuộc đời lứa đôi phía trước.
... Ta không được nghĩ thêm... Bởi cách đây hai tuần ta đã sung sướng đến lịm người khi gối đầu lên chiếc gối của nàng mà ngủ. Ta đã đón bát xôi trên tay nàng như đón tặng vật của thần cứu mạng... Nàng Thoọng thật nặng tình với ta...
Anh nghĩ như thế, tự trấn áp nỗi buồn nản, tự trách mắng mình là kẻ vong ân bất nhẫn, và vươn người, anh đặt bàn tay lên đùi vợ. Nàng Thoọng đờ đẫn vì cảm động, hiểu ngay cử chỉ đó là lời kêu gọi ái ân. Nàng đứng lên tức khắc, kéo anh vào buồng. Ðêm hôm đó, anh đã làm tinh như gã dân cày bước sau lưng trâu ngày hạ. Rồi khi nàng Thoọng ngủ, anh mò ra bếp lửa ngồi, cảm thấy ngôi nhà sàn xứ lạ rộng như bãi tha ma. Gương mặt Miên bắt đầu chập chờn trên những ngọn lửa. Anh bắt đầu nhục nhã, hối tiếc. Anh hối tiếc đã nhai ba tấm mía ngấu nghiến không kịp thở, đã ăn bát xôi vét chõ như một gã ăn mày, đã im lặng ngả bàn tay để cặp vợ chồng trưởng tộc đặt nó vào tay người đàn bà câm điếc như cam kết trả món nợ vĩnh viễn trong phút giây khốn quẫn:
... Ta thật khốn nạn. Ðã sống ba tuần liền trong rừng bằng củ mài và nước suối. Lẽ ra ta cũng có thể sống như vậy thêm vài tuần nữa trước khi ta tìm được chỗ trú thân. Nhưng ta đã buông xuôi cuộc đời một cách ngu xuẩn và hèn hạ... Nếu Miên biết được, chẳng bao giờ cô ấy tha thứ cho ta...
Ý nghĩ đó khởi lên và bắt đầu từ giây phút ấy, nó tái hiện mỗi ngày, cắn rứt anh. Tuần trăng đầu nơi ngôi nhà sàn mới, anh bất chợt thấy vầng trăng vào giây phút nó ngự trị giữa hai cánh núi vút nhọn như cánh chim nhạn và ngay tức khắc anh thấy đó là gương mặt của Miên, người vợ nhan sắc nơi quê nhà. Cô là tình yêu của anh thuở trước, là mối ngưỡng vọng của anh bây giờ, là sức mạnh thiêng liêng nhất và mãnh liệt nhất gắn bó anh với cuộc sống. Anh phải quay về. Anh không thể đánh mất cô... Nhưng cuộc sống cuốn trôi như dòng nước, dù mộng mơ dù hối tiếc sớm sớm Bôn vẫn phải đi nương với nàng Thoọng. Mùa hái bắp đã tới, họ lo hái bắp đem về, thứ tẽ hạt phơi ăn, thứ treo lên gác bếp làm giống. Anh nàng Thoọng xẻ cho cô em nửa đàn bò mười sáu con, qua tuần trăng thành mười tám, một gia sản anh nằm mơ cũng không thấy ở Xóm Núi. Bôn học cách vắt sữa bò, cô sữa đặc kiểu thủ công để làm thứ bánh sữa vuông như những thỏi đường mía. Thoạt đầu anh sợ mùi sữa bò nhưng ăn lâu đâm nghiện, nhất là những cháy sữa bén chảo vàng suộm như cơm cháy bốc lên một thứ mùi thơm thật quyến rũ. Thứ bánh sữa đó ăn với nước chè già nóng bỏng, vào những buổi sáng mát lạnh hơi sương thật thú vị. Nàng Thoọng trỉa mấy nương nếp cách nhà họ chẳng bao xa nhưng mùa tới Bôn vẫn phải ra chòi canh khỉ. Anh trai nàng dạy anh cách bẫy khỉ đem về bản nấu cao. Cuộc sống miền sơn dã êm đềm như mặt hồ ngày lặng gió. Sau một năm Bôn nặng thêm ngót mười cân, da dẻ săn lại đỏ hồng. Chính anh cũng tự thấy mình thay đổi. Ðôi lần, anh tặc lưỡi:
... Thời binh đao này, một cuộc sống an bình là quá đủ. Ta cần biết chấp nhận những gì số phận đã cho mình...
Nhiều đêm ngồi bó gối bên bếp lửa, nghe tiếng bom ì ầm xa vọng từ giải Trường Sơn, anh hình dung lại những tháng năm dãi dầu cơ cực, tuần lễ kéo xác tiểu đội trưởng trong rừng khộp, vật lộn với các bóng ma lẫn bầy kên kên, rồi tới đận bị bom đánh lạc ngày lại ngàu hì hục moi đất tìm củ nướng, đêm lại đêm treo mình trên cành cây bằng sợi dây dù, ngủ giấc ngủ sợ hãi của loài muông thú... Những hồi ức đó an ủi anh, khích lệ anh chấp nhận cuộc sống hiện tại. Căn nhà sàn sạch sẽ, thoáng đãng, những sọt bí ngô lẫn đường mía xếp thành dãy, dưới những tràn đựng thịt muối, bánh sữa và măng khô. Những chùm ngô giống treo vàng rực trên gác bếp và bên đó là những giỏ mây đựng cỏ thơm đun nước tắm cho anh... Anh mơ màng mãn nguyện...
Nhưng những khoảnh khắc đó càng ngày càng ít tái hiện. Và những ngày dài trống rỗng buồn bực kéo tới thường xuyên. Những tuần lễ mưa phùn vây bọc, ngôi nhà sàn chìm vào đáy im lặng của nước lẫn sương mù. Không mặt trời và mặt trăng. Ngọn lửa cháy trên bếp suốt ngày đêm không xua nổi cơn lạnh triền miên. Bôn trở nên bực dọc vô cớ. Bữa bữa, khi ngồi nắm vắt xôi chấm muối sả hoặc ăn với thịt lợn muối mặn chát, anh chợt nhớ mùi cơm tẻ, nhớ vị đắng ngọt của măng luộc chấm với mắm tép giằm ớt cay xé lưỡi vừa ăn vừa hít hà, nhớ vị cá kho giềng những con cá suối tươi còn nhảy toanh toác đem đánh vảy ướp tương giềng kho cho tới khi chúng khô cứng ngỏng những cái đuôi lên. Anh nhớ màu xanh những vườn cải quê nhà, màu hoa cải vàng trổ lúc sang xuân, nhớ âm điệu những câu hát cũ những câu hát anh chẳng nhớ nhưng âm điệu của chúng vờn lượn trong óc não anh như mây khói phiêu bồng. Anh nhớ ráng đỏ hoàng hôn vạch lên chân trời quê hương thứ ánh đỏ diệu kì thứ ánh sáng nhuộm tất thảy các gương mặt một màu hồng như phủ phấn... Sao cũng trời đất, cũng núi rừng mà anh chưa từng thấy ở Bản Kheo một lần thứ ánh sáng huyền nhiệm ấy?...
Khi trí nhớ dày vò, cuộc sống hiện tại bỗng nhàm chán không chịu nổi. Vị cơm nếp chấm muối thật khó nuốt. Gương mặt nàng Thoọng không còn là gương mặt đàn bà mà chỉ như thứ vật vô tri một bức vách, một hòn đá, một tấm lanh may nệm... Cảm giác đó đeo đuổi anh qua nhiều đêm. Trong những đêm đó, người vợ câm điếc vẫn chồm tới dầy vò ngửi hít anh, như lợn rừng. Chị làm đủ thứ trò nhưng anh chẳng mảy may hứng tình. Lòng nhân đạo của anh đã cạn kiệt và cảm giác ăn năn không còn khiến anh cố gắng hoàn thành được sứ mạng kẻ làm chồng. Hoặc anh nằm thẳng đưỡn như khúc gỗ, hoặc anh hất tay chị ra một cách thô bạo rồi quay mặt vào bức vách giả đò ngủ. Nàng Thoọng thút thít khóc. Ðôi lúc cơn động lòng khiến anh hồi tâm quay lại vỗ về người đàn bà. Nhưng những cơn hồi tâm ít dần đi. Bởi anh không thể... Anh ghê sợ da thịt mốc méo của nàng Thoọng, màu da đó gợi cho anh loài trăn loài rắn hay giống kỳ đà. Gương mặt nàng Thoọng to và vuông như mặt gã đàn ông thứ thiệt, quai hàm lớn bạnh ra hai bên những chiếc răng dài và vuông như răng ngựa khiến anh vừa ngán vừa ghê sợ... Sau những phút giây khốn khổ ấy, anh chợt hiểu rằng nguồn cơn nỗi sầu thương dày vò trái tim anh là Miên, là da thịt trắng ngần của chị, mái tóc đen óng ả như suối chảy và làn môi hồng tươi thắm của chị. Ðó là một đền đài không thời gian hay sự xa cách nào làm tan lở. Chính Miên. Phía sau mùi vị những món ăn quen thuộc, sau những vườn cải hoa vàng những giải mây huyền nhiệm, những âm điệu xa vời là người đàn bà anh không ngừng tơ tưởng, người vợ xinh đẹp nơi quê nhà...
Những đêm dằn vặt, những ngày khắc khoải. Nhưng thời gian cứ trôi. Hết mưa tới nắng. Cuộc sống cuốn đi, anh vẫn cùng người vợ Lào lên nương trỉa bắp, cắt lúa, vẫn cùng anh trai cô vào rừng kiếm mật ong, săn thú, bẫy khỉ, vẫn tham dự những ngày lễ hội với dân Bản Kheo nói với họ thứ ngôn ngữ anh vừa học được chút đỉnh và rồi vào những đêm đen, khi hơi rượu ngấm, khi bóng tối mịt mùng thả sương lạnh vào mắt anh, nỗi buồn hoang hoải khiến tim anh như rạn nứt, anh đành tiếp tục uống cho tới khi toàn thân nóng hực và đầu óc quay cuồng lảo đảo, anh bò lên bụng nàng Thoọng, làm tình như một con vật đực phủ con vật cái, không ve vuốt, không nụ hôn... Năm tháng cứ thế trôi. Trong khoảng thời gian ấy vầng trăng bạc vẫn hiện lên nơi hai cánh núi đan chéo nhau, hình ảnh đó vẫy gọi anh. Tuần trăng nào anh cũng ra ngồi đầu sàn từ lúc trăng mọc tới khi gà gáy canh như kẻ bị bùa. Vào những đêm ấy nàng Thoọng cô lẻ. Dần dà chị ý thức được kẻ địch tình của mình chính là cái khuôn bạc tròn dãi sáng lên núi rừng, nương bản. Chị uống rượu một mình, đi ngủ sớm. Như loài gấu trú đông, người vợ câm điếc ngủ trốn tuần trăng để chờ đợi những đêm tối trời, chờ đợi khoảnh khắc may mắn người chồng dị xứ tìm đến với chị chia sẻ thân xác trong mùi rượu nồng nặc và trong những tiếng nói rời rạc phát ra mà chị chẳng bao giờ nghe được và hiểu được. Chị chấp nhận tình cảnh của mình, chịu đựng những cơn cáu bẳn bất thường của anh và bắt đầu mơ tới một đứa con. Nhiều lần chị kéo tay anh đặt lên bụng, làm dấu hiệu để anh biết rằng chị đang chờ ngày cái bụng nở to ra, phồng như một trái bí đỏ...
... Tội nghiệp cô ấy... Chẳng biết khi ra đi, ta đã để lại cho cô ấy được một hạt giống hay chưa?...
Bởi cuộc ra đi của anh thực sự là cuộc chạy trốn. Vào một ngày bất chợt, Bôn bắt gặp đơn vị trực thuộc quân đoàn cũ khi đơn vị này đang trên đường hành quân. Bôn không giấu nổi niềm vui. Anh chuẩn bị cho cuộc ra đi tức khắc nhưng không dè nàng Thoọng biết. Chị báo tin cho gia đình người anh và dân bản. Chị khóc lóc, gào thét, phủ phục trước mặt anh và bằng tất cả thứ ngôn ngữ của kẻ câm điếc chị bày tỏ tình yêu của chị, sự cầu xin của chị. Chị bấu chặt lấy anh bất kể lúc nào, canh chừng anh ngày này qua ngày khác và chỉ ngủ gục đi khi gia đình người anh hoặc dân bản tới luân phiên. Gia đình người anh cũng rối loạn, bỏ bê công việc, nấu nướng vội vã, ăn uống vội vã thay phiên nhau canh gác Bôn. Dân Bản Kheo cũng cắt gác lần lượt để canh giữ niềm hạnh phúc chính họ đã vun vén tạo dựng. Cho dù vậy, cuối cùng anh cũng trốn thoát. Anh lẻn đi một đêm tối trời, khi người vợ Lào xuống vườn đi tiểu. Lúc đó, hẳn chị tưởng anh đã ngủ say. Nhưng anh đi ngay sau lưng chị, êm nhẹ như mèo, và khi chị ngồi xuống anh lần ra cổng. Anh đi suốt đêm ấy, ngày hôm sau và đêm sau nữa, không dám ngưng nghỉ, tai dỏng lên chờ nghe tiếng chân rượt đuổi phía sau. Nhưng trời giúp anh tìm được đường về: Giờ đây, nhớ lại đoạn đường ấy, Bôn không khỏi chua chát:
... Giá như ngày ấy ta không trốn thoát khỏi Bản Kheo, tiếp tục sống với nàng Thoọng, tiếp tục trỉa bắp, gieo nếp, vắt sữa kiếm mật ong và đêm đêm làm tình với người vợ Lào, cuộc sống sẽ ra sao nhỉ?... Chắc gì nó thua kém cuộc sống giờ đây?...
Phải, ngày ấy nếu không rời Bản Kheo anh sẽ tiếp tục sống cuộc sống êm ả như con hồ lặng gió. Người vợ Lào si mê anh, nấu nước cỏ thơm cho anh tắm, nài khẩn anh làm tình, cọ lưng cho anh cắt tóc cho anh... Anh là ông hoàng của chị.
Nhưng trái tim đau đáu của anh đã không ngừng nhỏ máu. Tâm hồn anh không ngừng khắc khoải và đêm đêm nhìn vầng trăng hiện lên giữa hai cánh núi anh cảm thấy không thể nào không quay về xứ cũ. Vầng trăng long lanh ấy là Miên. Tình yêu cho anh đủ can đảm để chịu tiếp một hành trình gian nan hơn hết thảy những gian nan anh đã chịu. Khi Bôn tìm được tới nơi đơn vị tạm trú, họ đã lên đường đi Khơ-me được ba tuần. Anh chẳng còn cách nào hơn là cắm đầu đuổi theo. Một cuộc đuổi bắt hú họa như tìm ma, điên rồ hơn mọi sự điên rồ. Trong ba tuần lễ, nào ai biết được một đội quân đi được bao nhiêu đường đất, chuyển hướng rẽ bao nhiêu lần?... Trong túi anh chẳng một vật phòng thân ngoài chiếc bật lửa và con dao rừng, hai bộ quần áo mặc đụp trên người, ban ngày quá nóng ban đêm lại quá rét. Rừng chờ đợi anh với màu xanh u mê ngạo nghễ, màu xanh hiểm độc khiến anh khiếp hãi. Chẳng có gì đảm bảo rằng anh sẽ không chết đói chết khát, chết vì lính Khờ-me, sẽ làm mồi cho thú dữ hoặc những con kền kền. Nhưng vầng trăng trên khoảng trời tím biếc kia như lời kêu gọi thầm lặng, huyền bí, vọng những âm vọng mãnh liệt khiến anh không chùn bước. Ðứng trước cửa rừng, anh nhổ một bãi nước bọt thề với chính anh rằng sẽ đuổi cho kỳ được đơn vị và tìm lối trở về đất nước. Một lần nữa, anh lại quăng thân vào rừng xanh. Bôn đã đi ba tháng liền theo lối đi bò của dân miền núi, vừa đi vừa kiếm miếng độ nhật, vừa đi vừa dò hỏi. Những năm ở Bản Kheo anh đã học được cách sở hữu rừng và anh đã có một sức khỏe khá vững để đối phó với đói khát, muỗi vắt lẫn những gian nan bộ hành. Cuộc đuổi bắt điên rồ ấy, sau chót cũng thành công. Anh đã tìm được đơn vị anh hùng, cùng phiên hiệu nhưng toàn lính mới sĩ quan mới. Họ giúp anh trở về ban tham mưu quân đoàn, làm các thủ tục điều tra để xác nhận quân nhân mất tích. Anh phải đi vòng vèo nhiều đợt nữa, chờ đợi, luân chuyển từ nơi này qua nơi khác, chầu chực ở các phòng giấy, ngồi mòn đũng quần ở các hành lang và trong suốt khoảng thời gian đó, sống bằng những bữa cơm trợ cấp cho lính lạc, thèm một điếu thuốc cũng chẳng bới được tiền mua. Sau cùng, anh cũng hoàn tất được mọi thủ tục và trở về Xóm Núi, tìm được vầng trăng ước mộng của anh:
... Giá như ngày ấy ta yên tâm với cuộc sống an nhàn nơi Bản Kheo có lẽ giờ đây ta vẫn có một người đàn bà si mê thờ phụng... Chưa biết chừng ta còn có con với nàng Thoọng dù cô ta câm điếc. Ðó là một người khỏe mạnh chất phác... Giá như...
Bôn cay đắng nghĩ, dù anh biết chữ Giá như kia chẳng bao giờ có được.

No comments:

Post a Comment