Monday, December 21, 2015

Chốn Vắng (Chương 10 - 12)

Chương 10 

Ngày hôm ấy với Bôn dài hơn thế kỷ. Bữa cơm thứ nhất đã qua trời mới đứng bóng, mặt trời bỏng rẫy hắt thứ ánh sáng hừng hực chói chang như thù hận nhân gian. Nhà vừa lợp lại, mái lá dày nên không đến nỗi quá nồng nực nhưng cửa sổ nhỏ lại không đúng hướng gió nên gian buồng ngột ngạt. Vả chăng, dù không gian chẳng ngột ngạt Miên cũng sẽ kiếm cớ để không nằm chung giường với anh. Bôn nghĩ vậy nên anh im lặng khi sau bữa cơm, chị ra ngồi dưới gốc ổi ngoài vườn, phe phẩy chiếc quạt nan. Miên đã nhổ sạch các đám rau chua me dại với đám cỏ ấu. Chị cũng đã vun luống hương nhu anh trồng. Chẳng còn việc gì để làm trên mảnh đất hẹp xiên xẹo mấy cây ổi già và mấy cây khế. Tất thảy đều cằn cỗi còi cọc, cây nào cây nấy không thể đâm lá trổ nhành vì hàng mấy thập kỷ chẳng được bón phân, thêm nữa đất quanh gốc cây nhẵn lì vì lũ trẻ chạy nhảy. Miên nhớ hồi chị tới đây, vườn còn khá tươi tốt. Còn có rặng chanh hương, thứ chanh nhỏ quả nhưng thơm nức, có một gốc mít xum xuê và xung quanh rào giậu vẫn kín. Dọc theo bờ dậu, dây mồng tơi leo nặng trĩu tha sức hái nấu canh. Giờ, mảnh vườn tàn lụi đi, tàn lụi đến mức ngao ngán…
Nằm thượt trên giường, Bôn vừa thở vừa nhìn Miên đang tựa vào gốc cây, gà gật ngủ, chiếc quạt nan rời khỏi tay chị rơi xuống: Cô nàng tự thân làm tội đời. Ðàn bà đúng là giống lừa ưa nặng. Họ thích nhiễu sự, thích rắc rối, thích quanh co… nhưng muốn hay không cũng vẫn là đàn bà, đái không qua ngọn cỏ…
Ý nghĩ ấy khiến cơn tức giận của anh vơi nhẹ đi. Anh nhíu mắt nhìn mặt trời, thấy nó mất dạng chỉ còn lại một khối lửa trắng chói chang trên vòm trời xa tắp. Khối lửa đó dường như rất nặng và rất có thể ngày nào đó nó sẽ rơi vỡ, nó sẽ tan thành muôn mảnh, trái đất sẽ tối tăm như cõi u tì. Tưởng tượng đến cảnh ấy, anh bỗng thấy lòng khoan khoái: Không còn ánh sáng, nhà ngói nhà tranh cũng như nhau, lâu đài của vua chúa cũng giống lều thằng chăn vịt. Trong bóng tối ấy, hẳn con người sẽ sống với những kỷ niệm thời thơ ấu, và như thế, Miên sẽ hoàn toàn thuộc về ta…
Anh nhớ những cuộc hẹn hò cũ. Tiếng cười của cô bé gầy gò nhút nhát có tên là Miên. Anh nhớ màu phượng đỏ lộng lẫy tung hắt lên bầu trời nỗi hoan hỉ và niềm say đắm không nguôi dịu của tuổi trẻ. Anh nhớ… và anh nhớ… những hình ảnh êm dịu dẫn anh vào giấc ngủ.
Lúc ấy, ở ngoài vườn Miên cũng lơ mơ ngủ. Nhưng ngay trong giấc ngủ chập chờn ấy, những ý nghĩ vẫn liên tục diễu hành:
Có lẽ ta phải thuê người làm nương, có bỏ công sức vào mảnh vườn này cũng vô ích. Hình như nó đã tới hồi mạt vận, đất không đâm bông đơm trái nổi… và có lẽ ta cũng phải bỏ tiền xây một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, không thể sống dưới cùng một mái tranh nhà Tá…
Nhưng vì sao ta lại tự nguyện gánh vác công việc nặng nề đó. Dù làm nương hay xây nhà ta cũng sẽ tiêu những đồng tiền Hoan đưa. Và không lẽ ta yêu Bôn đến độ phải làm những điều ngu xuẩn ấy?
Ta không yêu Bôn, cuộc trở về này là một phận sự, cái phận sự đã được quy ước từ thời xửa thời xưa dù chẳng ghi rõ trên giấy trắng mực đen nhưng đã thành luật lệ. Nếu ta chống lại luật lệ ấy dù bỏ làng ra đi cũng chẳng được sống bình yên…
Nhưng sống chỉ vì phận sự còn khổ hơn kẻ tu hành. Làm sao chịu nổi?
Người ta có thể quen với mọi sự. Ta phải chấp nhận… cu Hạnh còn quá nhỏ dại, và ta không thể để nó bơ vơ trên đời… nhưng cớ sao ta phải chịu duyên nghiệp oan trái này. Phải chăng vì mối tình từ mười bốn năm trước? Hồi ấy, ta có yêu Bôn thật sự hay không, ta chẳng còn nhớ nổi. Ðã có một lần Bôn chìa tay cho ta trên dòng suối… sau đó, là những cuộc hẹn và một đám cưới gấp gáp trước lúc Bôn tòng quân… hình như ta cũng đã từng yêu Bôn nhưng sao mọi kỷ niệm nhạt nhòa như mây khói. Chỉ biết chắc chắn rằng hồi ấy mọi sự đều khác… mắt Bôn không tối tăm như bây giờ, môi không thâm sì và hơi thở Bôn không đáng sợ như bây giờ. Tuy không đẹp nhưng Bôn tươi cười vui vẻ… và còn có tài gảy đàn bầu. Có bận, ta đã nghe Bôn gảy đàn, đám trẻ làng túm tụm xung quanh…
Bất giác, chị buông tiếng thở dài rồi vì mặt trời quá chói chị nhặt chiết quạt rơi lên che mắt. Tựa đầu vào gốc cây chị cố lục tìm trong trí nhớ một tiếng đàn, một âm vang nào đó khả dĩ gợi được trong tim chị niềm yêu dấu ngày xưa. Nhưng hồi ức chỉ là đám tinh vân nhừ nhòa với các chấm sáng tối hòa trộn. Sau cùng, lờ mờ hiện lên một con đường viền cỏ rậm, đồi dứa chạy hai bên. Một rặng hoa phượng vĩ. Bên trên rặng hoa ấy, những đám mây mùa hè trôi nổi, quay tròn và vòm trời lơ giống như chiếc dù lớn. Và rồi, những hình ảnh ấy tan biến trong khoảnh khắc và Miên không còn thấy gì hết. Chị cảm thấy mình đang ngủ…
Tiếng chim hót trong bụi cây nào đó vẳng tới khiến người đàn bà bừng tỉnh. Chị mở mắt. Tức khắc, ánh sáng ngũ sắc xuyên qua những nan quạt rọi vào chói nhức.
Miên vội nhắm mắt lại rồi xoay lưng sang hướng khác. Khi tỉnh ngủ hoàn toàn chị nhìn thấy Bôn đang nằm sống sượt trên giường. Căn buồng mở toang, yên tĩnh. Hẳn anh cũng đã ngủ, người đàn ông tội nghiệp đó. Anh đã phải kiên tâm chờ đợi, không dám xấn xổ, không dám để chị phật lòng, Nhưng ánh mắt thèm khát của anh dán vào da thịt chị, rình mò từng cử chỉ vợ anh. Ðêm nay, chắc không thoát khỏi phận sự xẻ chia chăn gối. Nhưng mới chỉ nghĩ tới điều ấy, chị đã rùng mình. Lạy trời, xin đừng bao giờ xuống núi…
Rồi mặt trời ngả về phía Tây đúng thời khắc quy định, mặc cho người chồng cầu xin mặc cho người vợ nguyền rủa. Bữa cơm chiều qua rất mau, dường như họ chẳng nói với nhau lời nào. Ðêm nay không có trăng.
– Miên để tôi rửa bát cho.
– Thôi.
– Ðã qua đời lính ai cũng phải rửa bát. Ðể mâm cơm đấy cho tôi.
– Miên cứ đi tắm đi. Tôi múc nước đầy ang rồi đấy.
– Anh cứ mặc em.
– Tôi có bánh xà-phòng của Mỹ dành cho Miên… Tôi nhặt được trong lúc đánh đồn…
Bôn dừng lại vài giây rồi mắt nhìn chị và nói thêm:
– Ðể dành đã gần chín năm nay rồi đấy…
Trong ánh mắt yêu đương và quy lụy của anh, có một nỗi thiết tha rồ dại khiến chị mủi lòng. Chị lúng túng:
– Sao anh cầu kì thế… em tắm gì mà chẳng được.
Nói rồi không dám nhìn anh, chị lấy quần áo ra nhà tắm ngay. Gọi là nhà tắm, thực ra chỉ là một khoảng đất vườn rộng chừng hai thước vuông được lát bằng những viên gạch đầu thừa đuôi thẹo, xung quanh quây liếp. Nhóm thanh niên tình nguyện đã làm giúp trong dịp sửa nhà. Cái ang đã được cọ rửa sạch, kê trong góc, đầy nước. Một đoạn dây dù chăng ngang cành cây làm nơi vắt quần áo. Bánh xà-phòng thơm Bôn đặt trên chạc ba cây ổi. Miên cầm lên xem. Nó là loại xà-phòng tắm đề chữ Camay, giấy gói trắng đã ố vàng rách sờn các mép gấp. Ở nhà Miên, Hoan thường mua từng tá xà-phòng tắm loại này. Vậy mà Bôn đã giữ nó suốt chín năm trong ba-lô để mang về cho chị. Món quà duy nhất của anh sau một cuộc chiến tranh. Chị bỗng ứa nước mắt.
Ngoài bờ giếng, Bôn đang rửa bát. Tiếng nước xối và tiếng lách cách của bát đĩa chạm nhau nghe rõ mồn một. Miên ngồi thừ người trong nhà tắm, nghe tiếng Bôn bưng mâm bát đĩa vừa rửa vào nhà, nghe tiếng dép anh đi lại trên sân trong lúc ánh le lói chiều tà tắt dần. Chị ngửa mặt nhìn trời, những rạn mây đang sẫm dần và bầu trời như được ghép bằng những mảnh vỏ trứng vỡ nhuộm màu. Mồ hôi chị đã khô trong lưng áo. Gió lướt qua lang thang mang mùi vị đêm. Óc não rỗng không Miên chẳng nghĩ được điều gì rành mạch, nói cho đúng hơn chị chẳng còn nghĩ, chẳng còn lo âu hồi hộp cũng chẳng hoang mang chờ đợi, tâm hồn chị như đám da bị tiêm thuốc tê mất mọi cảm giác. Chị vục mặt xuống thau nước lạnh và bắt đầu xối nước không ngừng tay.
Trong lúc đó Bôn đã vào nhà, đang loay hoay tìm mảnh các-tông che cây đèn. Anh đã cặm cụi cả ngày trời để đóng hộp, vừa tránh gió vừa che bớt ánh sáng, nhưng mấy mảnh gỗ bị hụt nên cái hộp đèn cũn cỡn như kẻ mặc quần đùi. Mấy đứa con Tá chẳng học hành gì nên không thể kiếm nổi tờ bìa hoặc cuốn vở cũ. Sau cùng, Bôn chợt nhớ tới mấy tờ báo anh đã mua trên tàu, còn nhét trong ba-lô. Anh lôi ra cuộn thành hình loa kèn, chụp lên hộp đèn.
Vậy là anh đã tạo được cây đèn ngủ vừa ý Miên. Hồi họ cưới nhau, chỉ vì chuyện dầu đèn mà Tá to tiếng với anh. Những hôm sau, chị ta còn chì chiết, bóng gió dai như đỉa khiến Miên giận dỗi. Giờ anh đã sắm cây đèn mới, mua dầu riêng cất trong buồng. Không gì có thể ngăn cản hoặc làm rầy những cuộc ái ân của họ.
Xong việc, Bôn khoanh tay ngồi nhìn ra sân. Dẫu là mùa hè nhưng đêm miền sơn cước đã tối rất mau, bóng đêm mỗi lúc dày, đen như mực Tàu. Tim anh đập náo nức trong lồng ngực, cổ họng anh nghẹn thắt. Anh đã chờ đợi, chờ đợi và đây là khoảnh khắc con thuyền cập bến. Trong gang tấc, chỉ giơ tay sẽ với tới bờ…
Miên đột ngột bước vào. Chị đã tắm xong, toàn thân toát ra mùi nước và mùi của sự quyến rũ. Bôn nhắm mắt hít thở cái không khí tẩm liễm mùi người đàn bà anh yêu. Chị lặng lẽ tới góc buồng, thu dọn gì đó trên chiếc bàn nhỏ. Chị thu dọn rất lâu, lâu đến mức anh không còn kiên nhẫn được. Anh đứng lên:
– Miên còn ra ngoài nữa không?
– Không.
Anh đi ra chốt cánh cửa buồng rồi quay lưng lại. Khoảnh khắc ấy, có ai đó hét trong đầu anh:
Ðây là nhà của tôi, rộng hay hẹp cũng vẫn là lãnh địa của tôi. Và kia là vợ tôi, người đàn bà của tôi…
Của tôi… của tôi… của tôi…
Tiếng hét đó lặp đi lặp lại nhiều lần cứ như ai đó đứng nơi lèn đá hét vọng vào. Bất chợt, anh nghi hoặc sự thật. Anh quay ra rờ lên con chốt cửa, đẩy đi đẩy lại mấy lần cho tới khi con chốt gỗ kêu khục một tiếng khô khan anh mới hoàn toàn yên tâm. Anh đi về phía Miên. Chị vẫn cắm cúi thu dọn gì đó quay lưng lại ánh đèn.
– Miên…
Anh bộc phát gừ lên một tiếng rồi xông tới bế thốc vợ lên giường. Búi tóc Miên xổ ra, tung một suối đêm, vướng vào tay ghế. Chị kêu:
– Ái ái…

Nhưng anh không còn tỉnh trí để nghe rõ tiếng kêu ấy. Anh đặt chị lên giường, chụp xuống thân thể chị những trận hôn như giông như gió vừa hôn vừa rít lên những tiếng kêu ai oán:
– Tôi yêu em… Tôi yêu Miên… tôi yêu Miên…
– Tôi yêu… tôi yêu em… tôi yêu…
Miên lặng lẽ kéo mái tóc lên, cuộn lại sau gáy để tránh anh co kéo. Mái tóc quá dày nên xòa khỏi lòng tay chị và chị buộc phải giữ chặt lấy nó. Ánh đèn hắt lên gương mặt trắng hồng của chị, gương mặt mà mỗi đường nét đều khiến anh điên đảo. Sao Miên cứ lặng im hoài như vậy… mười bốn năm trước chị đâu có câm nín như khúc gỗ… chị cười, hoặc chị giơ ngón tay chọc khẽ vào má anh, điệu bộ vừa rụt rè vừa nghịch ngợm.
– Tôi yêu Miên… Miên biết không… lúc nào tôi cũng nhớ Miên, dù là…
Chút nữa anh đã buột miệng nói ra: Dù là lúc nằm trên bụng người đàn bà khác. Nhưng anh đã kịp ghìm giữ. Và rồi sợ chị đoán ra sự thất thố của mình anh cúi xuống cởi những chiếc khuy trên tấm áo màu xanh dương của chị.
Miên không để tâm tới điều gì. Chị nằm như pho tượng, hoặc bằng thạch cao hoặc bằng cao-su, kiều diễm như tạc bởi bàn tay nghệ nhân tài tình bậc nhất, lạnh lùng như khí núi mùa đông. Cặp mắt chị không nhắm nghiền cũng không mở rộng. Chúng hé mở vừa đủ cho chị đăm đăm nhìn vào một điểm nào đó trên mái nhà. Anh cúi xuống hôn bụng vợ quanh cái rốn nhỏ mà anh nhớ có mụn ruồi đỏ bằng hạt vừng ở chếch bên trái trong lúc tiếng thét điên cuồng lại vang lên:
Tôi yêu em và em phải yêu tôi… chúng ta sẽ như ngày xưa. Như ngày xưa làm tình thâu đêm suốt sáng, như ngày xưa em ôm chặt cổ tôi mà ngủ, như ngày xưa em sẽ phải mỉm cười với tôi sau mỗi lượt. Như ngày xưa xác lũ thiêu thân sẽ rải trắng quanh hộp đèn cho tới rạng sáng, khi chúng ta tàn cuộc… như ngày xưa…
Tiếng thét cuối cùng dội vút lên, thúc vào tim anh và lóe lên ánh chớp. Dưới ánh chớp lóa ấy, anh nhìn thấy những con đường vùn vụt chạy, cây số này tiếp cây số khác, dải đồi nọ tiếp dải đồi kia, cánh rừng sau lưng cận kề cánh rừng trước mặt, thảy thảy những vùng anh đã đi qua, thảy thảy những đêm dài mong nhớ, quằn quại trên võng vì cơn đói dục tình, quằn quại trong hang sâu vì sốt rét, người lả đi như tàu lá úa mà nhìn mấy cô giao liên đi qua con giống vẫn dựng ngược lên như mãnh hổ chực vồ mồi… Và sau tất thảy những đói khát, nhọc nhằn ấy vẫn chỉ nhớ duy nhất người anh yêu, gương mặt ấy, làn da ấy… Và giờ đây, hạnh phúc đã nằm giữa lòng bàn tay:
… Chúng ta sẽ yêu nhau cho lấp đầy những năm dài xa vắng. Chúng ta sẽ yêu nhau như ngày xưa, tôi mười bảy và em mười bảy. Sau mỗi cuộc ái ân tôi chỉ ngủ nửa giờ rồi lại dựng em thức dậy vào cuộc mới, nguồn suối sinh lực dâng lên không vơi cạn, ánh mắt ngái ngủ của em càng khiến em xinh đẹp hơn lên…
Chiếc quần lụa của Miên mỏng tang, mặt lụa mát lạnh, Bôn vo tròn chiếc quần lại vừa trong chét tay, và bằng cử chỉ ấy anh có cảm giác thâu tóm được người đàn bà anh yêu một cách dễ dàng. Sau khi đã bóp chặt chiếc quần đó vài ba lần một cách khoan khoái anh ném nó sang một bên và đặt tay lên chiếc quần lót trắng:
… Trắng như bông và mềm hơn cả lông mèo. Sao mọi thứ ở nơi Miên đều đẹp đến thế?…
Có tiếng rên rỉ thầm thì kèm theo tiếng thở dài đâu đó… Trái tim đau của anh mơ hồ e ngại cái nhan sắc lộng lẫy của Miên sẽ là vực sâu vô đáy và anh sa chân xuống đó không có đường lên:… Ta còn trẻ. Ta còn trẻ và ta còn dư thừa sức mạnh…
Một giọng nói khác cất lên át tiếng thở dài lo âu của con tim, Bôn tự nhủ:… Ta sẽ yêu Miên và sẽ sinh con. Ta sẽ có cả đàn cả đống con như câu chuyện về vị tướng già tiểu đội trưởng đã kể… Tình yêu sẽ hồi sinh và sẽ lớn dần theo năm tháng, trong sự gắn bó với những đứa con… Nhất định ta phải có con đàn con đống… Cơn thúc hối làm Bôn mờ mắt. Anh chỉ còn thấy tấm thân trắng nhễ nhại của Miên, một động tác cánh tay chị vừa phác… Rồi anh chìm sâu vào chị.
Những con sóng khoái lạc nối nhau dồn lên bờ cát. Anh như muốn tan biến dưới ngọn triều. Biết ái ân sau mười bốn năm xa cách vừa như cuộn trở lại vừa như tới lần đầu. Hăm hở, ngỡ ngàng, mê man, cuồng dại… Một đại dương dào dạt cuộn lên, những con sóng phôi sinh không ngơi nghỉ, không mệt mỏi sẽ xô thuyền đắm say ra tít khơi xa, nơi muôn trùng sóng…
…Ta yêu Miên, yêu Miên… Người đàn bà ta yêu đang cùng ta, da thịt trong da thịt… Chúng ta sẽ ái ân như ngày xưa ân ái… Trong khoảng ngắt giữa hai hơi thở, lời rên rỉ buột khỏi môi anh. Anh nhắm mắt lại để nhìn cho thấu đại dương say đắm trong mình, thấy mênh mông chân trời khoáng đãng thấy thuyền anh nô giỡn trên những con sóng dục tình, thấy lại diện mạo tuổi trẻ của anh…
Nhưng bỗng nhiên một luồng khí bị dồn nén chạy dọc sống lưng, xuyên suốt thân xác anh như mũi tên, khoái lạc và mộng mơ cùng lúc vọt ra rồi tắt ngấm. Con thuyền đắm say rơi từ đỉnh sóng xuống bờ cát, nằm vật vờ như mảnh ván mục. Biển yêu đương rút cạn, chỉ còn trơ đáy bùn lồi lõm, ngập ngụa xác loài thủy quái và rải rác những tàu đắm cùng rong rêu…
Anh dốc một cơn thở dài không thể ghìm nén:
… Sao lại thế nhỉ?… Có lẽ vì ta hồi hộp quá… Hoặc có lẽ vì ta đã chờ đợi quá nhiều ngày…
Rồi bỗng dưng bộ phận truyền giống của anh đi vắng, nó chẳng còn là của anh, mà như một thứ đồ vật ngoài thân thể ngoài ý muốn và sự điều khiển của anh. Nỗi sợ hãi cùng hổ thẹn cùng lúc khiến sống lưng anh lạnh toát trong khi hai thái dương và đầu anh nóng phừng phừng như lửa đốt. Anh lặng lẽ tụt xuống dưới chân Miên, không dám nhìn vào mặt chị, cười gượng gạo:
– Có lẽ ta chưa quen, có lẽ vì… Tôi xa Miên lâu quá…
Miên không nói gì. Chị chẳng nhìn anh. Chị dửng dưng như ở ngoài mọi sự.
Anh vơ chiếc quần đùi mặc vội để che đi cái phần héo rũ trên cơ thể:
– Lát nữa chúng ta sẽ… Miên ngủ một giấc đi cho khỏe. Ðêm còn dài… Lát nữa chúng ta lại…
Chị vẫn không nói gì lẳng lặng mặc quần. Mái tóc đổ xuống che kín lưng khiến chị như nữ thần rừng.
– Miên.
Anh cất tiếng gọi rồi không biết nói gì thêm. Anh cũng biết anh chẳng nói được điều gì vào lúc này. Anh mặc áo rồi nằm xuống rụt rè đưa tay vuốt tóc chị.
… Tóc Miên đẹp quá. Người đàn bà tôi yêu có mái tóc đẹp nhất thế gian. Lát nữa, ta sẽ lật mái tóc ấy lên để hôn vào gáy em, trước khi ân ái. Và ta sẽ… Ý nghĩa chưa dứt, anh đã ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ của anh giống con tàu bị đánh đắm, từ từ chìm xuống đáy nước. Cho tới lúc gà gáy canh ba Bôn mới tỉnh dậy. Thoạt tiên anh lơ mơ tưởng mình ngủ võng nên đưa tay quơ gốc cây trên đầu. Tay anh đụng vào ngăn hộc đồ vặt và anh nhớ lại tất cả. Ngọn đèn dầu vẫn cháy trong hộp với chiếc chao làm bằng tờ báo quấn hình loa kèn. Tấm chăn ở cuối giường in những bông thược dược. Anh nhớ những kỳ vọng khi mua nó bằng số tiền già lính rồi mang về, giặt sạch phơi trên cành ổi”… Những bông thược dược sẽ vãn hồi tuổi trẻ. Hơi ấm sẽ mang trả tình yêu, và mùa đông trong tưởng tượng nồng nàn hơi lửa ân ái…”
Tiếng gà gáy lan khắp các xóm, đồng vọng. Mùa đông chưa tới. Giờ vẫn đang hè và cuộc làm tình thất bại. Anh khép cặp đùi, len lén lùa bàn tay xuống dưới thám thính. Cửa hé mở, Miên đã ra sân và chắc chị không quay lại tức thì, nhưng anh vẫn sợ. Nỗi sợ không biết từ đâu tới, cũng không tường diện mạo. Nhưng anh vẫn sợ. Và anh len lén luồn tay xuống dưới háng như một thằng ăn cắp. Chẳng còn gì nữa để hồ nghi. Nó đã rũ xuống như tàu cải héo, một nhúm da vặt vẹo giữa hai bẹn. Anh biết ngay bây giờ, giá như Miên thay đổi thái độ, bỗng nhiên vuốt ve hôn hít anh bỗng nhiên tự lột bỏ quần áo và chủ động bế thốc anh lên bụng chị… Giá như thế, anh cũng không thể nào đánh thức được cái nhúm da chẳng gân cốt kia.
… Sao lại thế nhỉ?… Khốn nạn thật… Ta chẳng ngờ đến nông nỗi này… Anh muốn khóc nhưng cố nghiến hai hàm răng. Khóc thì hèn quá. Anh đâu phải đồ hèn?… Trước khi bị lạc nhiều trận đánh anh được khen ngợi hoặc nêu tên làm gương. Con đường binh nghiệp nếu chẳng gặp rủi ro hẳn sẽ đem cho anh vinh hạnh. Nhưng đây không phải
trận mạc. Ðây là cái giường đôi:
… Ta chẳng còn mười bảy tuổi. Không như xưa, chẳng thể như xưa… Lời thú nhận câm nín ấy nảy ra từng mũi kim vô hình, mũi nọ nối tiếp mũi kia lần lượt cắm vào gan ruột anh. Bôn ngồi dậy, nhìn hình vẽ trên tấm chiếu trân trân. Anh không hiểu ý nghĩa cái vòng tròn ghép bằng những nét chữ Tàu mô phỏng. Nó tượng trưng cho cái gì trong kiếp nhân sinh mà họ in lên mặt chiếu thế kia?… Anh không hiểu. Ðó là mê cung, và càng nhìn anh càng thấy đầu óc u mê, tâm hồn tan nát. Vào phút nỗi thất vọng sắp sửa dìm anh xuống vũng bùn oan nghiệt một cái tên bỗng bật lên:
– Cụ Phiều…
Lập tức, anh nhớ lại câu chuyện về ông lão bảy mươi sinh quý tử phương thuốc tinh hoàn dê chưng thuốc Bắc và rượu huyết dê. Mê cung tối tăm kia chợt lóe sáng:
… Ta sẽ đến cụ Phiều… Ta sẽ học hỏi những kiến thức trong chuyện dưỡng sinh và chuyện gối chăn… Một cõi khác, một mảnh đất khác phải cày xới…
Bôn sờ nắn lại lần nữa cặp bìu thõng thẹo rồi rút tay ra và đứng lên. Máu anh dần dần ấm lại. Anh đẩy cánh cửa, bước ra ngoài. Ðêm mát lạnh. Mấy cành củi nhỏ đang cháy cạnh bờ giếng rọi sáng khoảng sân, mái nhà lẫn đám cành ổi. Mùi thạch trinh hương tỏa đầy không gian. Bôn dừng lại giữa sân, chết lặng: Miên đun nước tẩy trần để tắm sau lần chung đụng với anh. Từ nhỏ, Bôn cũng đã dăm lượt theo bạn lên núi cắt thạch trinh hương đem bán cho nhà chùa dưới huyện lỵ. Ðó là thứ nước để rửa trôi những dơ bẩn trong kiếp người trần tục, trước khi họ muốn bước vào cửa tam quan:
… Cô ta đã dành cái nghi thức này để đối đãi với riêng ta. Với người đàn ông kia mọi sự sẽ khác… Với người kia chắc là…
Hình ảnh chiếc quần đùi thun sọc đỏ treo trong phòng tắm của Miên lại hiện lên rõ mồn một. Rõ mồn một hơn nữa, sắc xói hơn nữa là những gì anh tưởng tượng phía sau mảnh quần lót ấy, và anh bỗng muốn giết Miên, muốn giết người đàn bà đang tắm sau tấm liếp kia, nơi ánh lửa rọi vào:
… Một lưỡi lê xọc từ phía trước ra sau lưng, trên vú trái nửa đốt tay. Hoặc một lưỡi dao rừng phang từ sau gáy…
Anh như nhìn thấy máu chị phun từng vòi dài đỏ thắm, và cảnh chém giết ghê rợn đó khiến những hơi thở tức tối của anh như hổ đói vừa phút trước nhe nanh múa vuốt, phút này đã mỏi mệt quy hàng. Và một ý nghĩa khác từ từ chảy tới như nước trong con lạch cạn:
… Cô ấy có lý để làm thế… Ta chẳng làm ăn được gì. Chính ta là kẻ vô tích sự khiến người đàn bà chẳng nhận được mảy may hạnh phúc. Lỗi tại ta. Cần phải có những phương thuốc phục hồi sinh lực và tuổi trẻ. Phải nhẫn nhục, ấy là con đường duy nhất đưa hạnh phúc trở về…
Anh không dám đi mạnh chân e rằng Miên biết anh đã thức. Rón rén như một tên ăn trộm, anh vòng ra đầu hè đi tiểu rồi lại rón rén quay vào buồng.


CHƯƠNG 11

Xá đang chuẩn bị đồ lề cùng đám thợ sơn tràng lên rú. Anh ta mặc mỗi chiếc quần đùi lại săn hai ống lên tận bẹn ngồi rửa cưa. Tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi vắt chiếc khăn mặt bông nhọ nhem. Lúc Bôn đứng trước ngõ Xá vẫn cắm cúi miết con giũa, tiếng thép cọ vào thép nghe ghê tai. Anh phải gọi bốn năm tiếng liền Xá mới dừng tay lại:
– Chờ tôi ra mở cổng.
Ðặt chiếc giũa vào hộp dụng cụ, Xá rút khăn lau ngực lau lưng rồi mới ra mở cổng cho Bôn:
– Cô Soan này lạ thật… Ðã bảo sáng nay người ta ở nhà, đừng khóa cổng, vậy mà nhót một cái đã bấm luôn ổ khóa vào… Rõ đúng là cái giống đàn bà đái không qua ngọn cỏ, nghĩ không dài hơn sợi tóc…
– Sinh ra cái khóa là để đi khóa về mở, anh nói gì lạ thế?
– Nhưng sáng nay đứng lên ngồi xuống cả thảy năm lần rồi, hết mẹ nó thời gian. Ðầu tiên thằng cu lớn quay về lấy cuốn vở bỏ quên. Lần thứ hai ông tướng lại quay về xin tiền góp cho nhà trường tổ chức đi tham quan thành phố. Lần thứ ba thứ tư hai ông hàng xóm sang xin đinh với xin vịt dầu thắp. Lần thứ năm là Bình kều…
– Bình kều hả?… Ðã mấy lần tôi định sang cậu ta chơi mà chưa đi nổi… Bình khỏe không?
– Vẫn nhì nhằng.
– Nghe đâu cậu ta làm ăn khấm khá lắm…
– Cũng khá hơn tôi đôi chút. Nhưng từ Tết đến giờ toàn gặp rủi ro, tích được đồng nào cũng tẩu tán hết rồi. Trước hết ông bố vợ bỗng dưng lăn đùng ra chết. Cô Lãm là con một, Bình lại ở rể nên phải cõng toàn bộ chi phí đám tang. Họ nhà ấy to nhất làng, nên cậu ta phải làm trên một trăm hai mươi mâm mới đủ. Rồi bây giờ cô vợ lại sưng lách. Vừa sưng lách vừa mang thai tháng thứ năm. Bình lo méo mặt. Sáng nay nó mò đến đây, tôi cạn tiền phải bảo cô Soan cho nó mượn cái nhẫn cưới đem bán đưa cô Lãm xuống viện thành phố…
Bôn tái tê. Con tàu hy vọng của anh chìm xuống. Ðêm qua anh dự tính vay một mớ tiền của Bình. Tuy lâu ngày không gặp nhau nhưng Bôn biết tình bạn của họ không lay chuyển. Hai người cùng học một lớp suốt sáu năm trung học, cùng là vần B, họ được xếp chung một bàn và hầu như ở bên nhau trong mọi công việc của nhà trường. Nếu đi cắm trại, họ cùng ở ban tổ chức. Có sinh hoạt ngoại khóa, hai người cùng ở tổ Vật Lý và tổ hướng dẫn sinh trong phòng thí nghiệm. Những đêm liên hoan văn nghệ, cả hai cùng ở nhóm ngâm thơ, Bình có giọng ngâm ngọt ngào, còn anh đệm đàn bầu hoặc thổi sáo theo… Vào cái thời mộng mơ ấy, cả hai đều quyết chí thi cho được tấm bằng đại học và làm cuộc đổi đời dời chốn sơn dã về thành phố. Với họ, điều ấy cũng không quá xa vời, hai người cùng là học sinh loại giỏi. Bình chỉ kém riêng môn Văn, thường nhờ anh chữa bài giúp. Biết bao kỷ niệm se sắt đã gắn bó tuổi thiếu niên của họ. Bình thường chia cho anh nắm xôi buổi sáng, hoặc những đùm khoai dẻo mà chị ruột gói ghém cho. Bôn không quên vị khoai ngọt bùi ấy, vào những năm niên thiếu khốn khó của anh, không có Bình chưa chắc anh đã theo nổi ngần ấy năm ăn học. Tiền của anh
kiếm được chỉ đủ mua giấy bút và những món chi dùng tối thiểu.
Anh không đủ gạo nấu ăn sáng, cũng không đủ sức mua cá mắm hoặc các thức ăn khác cho bữa cơm học trò nghèo… Tất thảy những thứ đó do Bình bù đắp. Cái gã cao kều ấy là kẻ hảo tâm bẩm sinh, cậu ta giúp tất cả những ai có thể giúp được với vẻ an nhiên không tính toán dường như đó là phận sự của kẻ làm người. Ðám học trò giàu sang trong huyện do đó phải nể vì. Hai kẻ mơ mộng ấy đã bỏ giấc mơ dở dang cùng một ngày, cùng một ngày tòng quân nhưng lại phiên chế về hai đơn vị. Bình ở cùng đơn vị với Xá. Dạo anh về, Bình nhắn Xá nói với anh rằng cậu ta đang bấn bíu, ngày nào đó rảnh rỗi sẽ sang thăm và sắm bữa tiệc mừng… Anh những tưởng Bình mắc công việc dở dang, ai dè cậu ta đang lâm vào cơn khốn khó:
… Ta vẫn ngỡ có thể níu lấy áo trang nghĩa hiệp thuở xưa. Ai ngờ cậu ta cũng sảy chân vào cảnh đắm tầu… Ðây mới chính là ngõ cụt…
Bôn thấy cơn gió lạnh chạy dọc sống lưng anh, dù trời đang nóng.
Trên tấm ngực trần của Xá, những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đỗ đen đầy quanh hai núm vú. Có một cái tên nảy lên: Già Ðọt… Nhưng anh nhìn thấy trước cái quả hy vọng cuối cùng kia cũng thối.
Người đàn bà xuân sắc từ hơn năm mươi năm trước chẳng thể nào có một kho vàng để cất giấu đến giờ. Bà cưu mang mẹ con Tá, những người có liên quan huyết mạch vì đám trẻ ấy chỉ cần miếng ăn cho qua ngày, hạt cơm cõng củ khoai, gắp rau kèm lát sắn. Vậy mà anh đã mơ tưởng gây dựng cơ đồ nhờ những đồng tiền của bà lão gần đất
xa trời…
… Ta là kẻ mơ mộng hão huyền vô tích sự…
Xá chột ngẩng mặt lên, con mắt lành xoi mói:
– Ngồi xuống đi… Làm gì mà đứng đần thối ra như vậy?…
Bôn giật thót, nhưng tâm trí vẫn còn tê dại. Anh vơ chiếc ghế đẩu ở góc sân ngồi. Nhà Xá có đến hàng chục chiếc ghế đẩu các cỡ và các kiểu. Ðúng như người ta bảo: Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ. Kẻ làm nghề sơn tràng và nghề mộc chỉ lãi ở những mảnh gỗ thừa thẹo.
– Ngồi đấy…
Xá nói tiếp, giọng to như quát vào tai anh:
– Ngồi đấy… Tôi phải rửa nốt con cưa mẹ…
Bôn chưa kịp nói gì Xá bỗng dừng tay nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Lần này cái nhìn đó kéo dài, khoan xoáy vào một điểm nào đó trên mặt Bôn khiến anh bỗng dưng nóng bừng hai tai. Con mắt lành của Xá hấp háy, hấp háy rồi đột nhiên Xá hạ giọng thì thào:
– Sao?.. Ấy rồi phải không?
Bôn hiểu ý Xá, nhưng chưa biết trả lời ra sao. Hai thái dương anh cũng nóng rực lên.
Xá lại hỏi tiếp:
– Có làm ăn được không?
– Cũng tàm tạm.
– Tàm tạm là thế nào. Tôi với cậu là chỗ mặn tình, tôi mới hỏi.
– Nó có lên được không?
– Ðược vừa phải.
– Kim trỏ số 3 à?…
– Không hẳn thế.
– Thì sao?
– Tôi cũng chẳng hiểu.
Xá trợn mắt, không còn thì thầm mà quát toang toác lên:
– Vớ vẩn… Ðừng ú ớ con mẹ… Trông điệu bộ của cậu tôi biết là hỏng rồi.
Ðôi mày anh ta cau lại. Rồi cũng chẳng rửa nốt con cưa mẹ, Xá quẳng chiếc dũa vào hòm dụng cụ, đứng lên:
– Này, chuyện nghiêm chỉnh đấy, không đùa được đâu… Tôi nói vậy cậu có hiểu không đấy?
Nói xong, không chờ Bôn trả lời, Xá đi tới góc nhà, móc túi áo lấy hộp thuốc lá sợi đem vấn. Anh tìm một chiếc ghế khác, ngồi đối diện với Bôn:
– Cậu có hút không?
– Có.
Xá đưa hộp thuốc cho Bôn rồi cúi xuống, lăn điếu thuốc của mình:
– Tôi đã nói với cậu rồi… Cái nghề đàn ông đàn bà, phải mê nhau mới ăn ở được với nhau.
– Tôi yêu Miên… Tôi không yêu ai ngoài người đàn bà ấy.
– Phải. Nhưng còn cô Miên… Vấn đề là ở chỗ ấy. Có tình yêu hai phía mới thành vợ thành chồng. Tôi nói thế này cậu đừng giận. Ngủ với con đàn bà chẳng yêu mình thì thà cứ tìm lỗ né cáy còn hơn.
– Chúng tôi đã từng là vợ chồng. Mối tình đầu của tôi cũng là tình đầu của Miên… Cần phải có thời gian để tìm lại…
Xá rít mấy hơi thuốc liền, rồi hỏi:
– Cậu đã gặp tay Hoan chưa?
– Chưa. Anh ta xuống thành phố. Chủ Nhật mới lên nhà bà Huyên thăm con chốc lát rồi lại đi…
– Cậu không đến nhà bà dì Miên hay sao?
– Trừ phi Miên có việc bảo tôi phải đến.
– Thế thì cũng phải… Bà ta chẳng ưa cậu… Mà cậu cũng chẳng mến chuộng gì bà lão đỏng đảnh ấy… Nhưng theo tôi, ít nhất cũng một lần cậu nên gặp tay Hoan.
– Tại sao tôi phải gặp anh ta? Chẳng để làm gì hết… Anh ta có phần anh ta và tôi có phần tôi.
Trán Xá nhăn lại. Anh ta ném đầu mẩu thuốc ra vườn rồi lại vớ hộp thuốc cuốn luôn điếu khác.
– Này Bôn, lời nói thẳng vốn khó nghe nhưng hôm nay cậu hãy gắng mà nghe cho đến đầu đến đũa. Tôi với cậu chẳng phải anh em họ mạc nhưng chúng ta có cái tình gắn bó còn mặn mà hơn thế. Bởi vậy tôi thấy có trách nhiệm phải nói cho cậu biết rõ mọi ngả nông sâu của cuộc đời. Ngày xưa đi học, cậu vẫn thường giải toán cho tôi, sao
bây giờ cậu không biết cách giải bài toán chính của số phận?
Hiện tình, cậu đang cưỡi trên lưng cọp. Trèo lên lưng cọp không hẳn dễ, nhưng xuống đất còn khó gấp vạn lần… Thông minh như cậu hẳn biết vì lẽ gì cô Miên từ bỏ tòa ngang dãy dọc của cô ấy để về rúc trong gian buồng lợp gianh của cậu. Người đàn bà trọng danh dự lắm mới làm nổi cái sự ép mình như vậy. Gặp kẻ khác tôi đoan chắc cậu chỉ có nước xách bị rời khỏi cửa nhà cô ta… Nhưng mọi sự trên đời đều có giới hạn. Cô ta không thể vì nghĩa cử mà sống với cậu cho đến lúc tóc bạc răng long. Tôi nói rồi, chuyện gối chăn phải yêu mê nhau mới nên hồn… Muốn đánh trận phải nhìn rõ mặt đối thủ… Tại sao cậu không thử tìm cách gặp Hoan, dù chỉ một lần?
Mặt Bôn nóng bừng bừng, và anh nghe trong tai mình có tiếng ù ù như ai xay lúa:
– Tôi chẳng hoài hơi làm cái điều ngu ngốc ấy… Tôi không định đấu gươm với anh ta và bây giờ không còn là thế kỉ mười lăm, mười sáu…
– Vậy, cậu cứ nhắm mắt nhảy ào xuống sông, không lường nông sâu, chẳng dò nước ấm hay lạnh?
Bôn không trả lời.
Xá cũng không gặng thêm nữa. Hai người ngồi phun khói trong im lặng. Những mẩu đầu thuốc tiếp nối nhau quẳng ra vườn. Trời mỗi lúc càng thêm nóng và thi thoảng Xá lại vớ tấm khăn bông lau bộ ngực vạm vỡ lẫn tấm lưng trần của anh ta. Bôn không nhìn nhưng anh biết anh thèm muốn những bắp thịt nổi vồng trên khuôn ngực gã sơn tràng, thèm muốn gương mặt cười cợt chung thân như mặt thằng hề nhưng lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của thiện tâm và hạnh phúc. Tiếng chim vườn chốc lát lại rót vào không gian, khiến vòm trời như cao hơn và màu lơ kia trong veo trong vắt. Bao nhiêu giây phút trôi qua, Bôn không nhớ. Nhưng sau đó rất lâu Xá cất tiếng thở dài và hỏi:
– Này Bôn, cậu biết tỉnh ta vừa thành lập nông trường chứ?
– Không, tôi không đọc báo.
– Nông trường đó ở cách đây ngót một trăm cây, tên gọi Bình Minh.
Nó được lập ra để hứng đám con gái phục vụ chiến tranh giờ đã quá lứa không còn tuổi lấy chồng, trở lại quê hương cũng bẽ bàng mà tìm công việc nơi thành phố càng khó khăn. Ở đó, họ trồng dứa và trồng tiêu như quê ta… Tay Liệu bạn hẩu của tôi chuyên ngành về làm trưởng phòng hành chính. Cậu có thể đến đó, sinh sống sẽ dễ dàng hơn tự kiếm vốn vỡ khu đồi xã chia cho cậu ở đây. Nông trường này vẫn còn được nhà nước bao cấp và đám cán bộ quản trị hưởng lương theo thang lương quy định… Ðất ấy chắc hợp với cảnh neo đơn của cậu. Ðiều chủ yếu là ở Bình Minh cậu có thể chọn trong số hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa một người vừa ý về làm vợ.
– Anh nói lạ lùng… Gia đình tôi ở đây… Quê hương tôi ở đây…
Xá cười khẩy, lắc đầu:
– Quê hương chỉ có ý nghĩa khi tìm được một mái ấm… Thế nên ở nơi nào ta tìm được một mái ấm, nơi ấy là quê hương… Còn gia đình cậu là bà Tá hay cô Miên?
Bôn không trả lời, Xá nói tiếp:
– Gia đình cậu nghĩa là cô Miên, tôi nói thế cậu không phản đối chứ? Hãy nghĩ cho cạn lẽ, đã chắc gì cô Miên yêu cậu, cảm thông với cậu hơn một cô thanh niên xung phong quá lứa lỡ thì đang ngong ngóng chờ một thằng đàn ông nào rờ mó tới? Chỉ những kẻ cùng cảnh ngộ mới có thể thương nhau đến đầu đến đũa. Chúng ta đã từng là lính. Tất thảy những thằng lính ra khỏi cuộc chiến tranh đều phải nộp thuế, đều phải để lại vật gì đó làm lễ tế thần… Như tôi chẳng hạn, mảnh bom nhỏ bằng mảy trấu cũng móc ra một con mắt. Như thế, tôi đã nộp xong xuất thuế của mình… Còn cậu…
– Tôi cũng ngần ấy năm lưu lạc, anh xem…
Xá lại lắc đầu:
– Chưa đủ đâu, người anh hùng ạ… Tôi thấy như là chưa đủ xuất…
– Dạo này anh ăn nói lạ lùng…
– Ờ… Cũng có thể tôi trở thành thằng gàn trước tuổi…
Lúc đó, Soan từ ngoài cổng đon đả bước vào. Chị cắp một thúng đầy những na lẫn ổi. Người đàn bà trẻ tuy không đẹp nhưng tươi tắn, mặn mà. Cũng như chồng gương mặt chị lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của sự mãn nguyện lẫn thiện tâm:
– A, chào chú rể mới… Sao, anh đón nàng về dinh có vui không?
Bôn chưa kịp đáp Xá đã nạt nộ:
– Cái cô này đa sự… Ðã bảo đừng khóa cổng mà cứ quen tay. Làm người ta đứng lên ngồi xuống gãy cả gối đây này…
– Ðấy, anh Bôn xem… Ra trận là lính mà về với vợ con là tướng, hách chẳng ai bằng.
Nói xong chị cười. Chiếc răng khểnh làm nụ cười rạng rỡ hẳn lên. Chị ngước mắt nhìn chồng vừa thần phục vừa riễu cợt:
– Hung hăng thế mà hồi lên cái nhọt ở mông, em nặn cho kêu rống lên như con bò bị chọc tiết, quá đứa trẻ lên ba…
Xá bảo:
– Da thịt người chứ có phải sẹo gỗ đâu mà không đau?… Thử rơi vào cô xem… Cô không khóc hu hu tôi cứ bé bằng con kiến.
Soan chọn mấy quả na chín cây và vài quả ổi bỏ vào đĩa:
– Thôi thôi, em chẳng hơi sức đâu mà đấu khẩu với anh. Từ thuở lọt lòng đến giờ anh có chịu thua ai nhời nào đâu? Chẳng cứ bạn hữu, xóm giềng mà ngay cả cô dì chú bác, những bậc bề trên trong họ… Nào, anh Bôn ăn đi. Xem ổi vườn nhà em có ngọt bằng ổi bên vườn nhà anh không?…
Bôn cắn trái ổi, lưỡi ngọt dạ chẳng ngọt. Ổi nhà anh còi cọc không được trái chín nào. Quả mới ương ương lũ con Tá đã hái ăn sạch. Những đứa trẻ thả rông như loài thú hoang, không tới lớp mẫu giáo, cũng chẳng học vỡ lòng tha lôi nhau hết vườn nọ tới đồi kia, lăn lê từ lối mòn này sang ngả đường khác… Bao năm khu vườn bỏ mặc cho kiến bọ, các loài sâu và các loài chim. Từ khi anh về, anh đã trồng ở đó một luống cây hương nhu và vài khóm hoa riềng dại. Vì chúng là thứ cây không ăn được nên lũ con Tá để yên. Nhưng đất cằn, ngay những hương nhu cũng không lớn được, mấy khóm riềng dại không trổ hoa còn người đàn bà anh yêu lạnh lùng như khí núi… Phải, Xá nói đúng, cái giống đàn ông đàn bà phải mê nhau mới ăn ở được. Cứ nhìn cảnh nhà Xá đủ biết, vợ anh ta mê anh ta đến thế nào. Mặc dù đã được nghe kể nhiều lần về cuộc tình
giữa Xá chột với cô Soan, Bôn vẫn không hình dung nổi người đàn bà hiền lành đon đả vừa lựa những trái ổi chín mời anh lại có thể táo tợn đến nhường ấy…
Dạo Xá phục viên, chẳng có trong tay thứ gì ngoài vài bộ quân phục và món tiền còm đủ làm vài mâm cơm rau dưa mừng ngày đoàn tụ. Cha mẹ Xá đã chết từ lâu những năm anh còn ở chiến trường ngôi nhà hương hỏa ông anh chiếm, thêm bà chị dâu mặt lúc nào cũng nặng như chì nên Xá ở nhờ nhà ông chú ruột, và bữa cơm đoàn tụ được làm tại nơi đó. Vài ngày sau, gã trai đã vác đồ nghề sơn tràng lên rú, bắt đầu lại cuộc sống sơn dân. Bất đồ, Xá gặp Soan hái củi. Họ yêu nhau tức khắc, theo đúng kiểu người đời vẫn gọi: Ái tình sét đánh. Thời con gái, Soan cũng không đẹp nhưng duyên
dáng, mặn mà, khối người để ý. Trong số đó, có gã anh trai họ đằng mẹ của cô. Anh ta không thật giàu nhưng cũng có ngôi nhà ba tầng dưới thành phố, dẫu một tầng chỉ rộng mười sáu thước vuông nhưng cũng đàng hoàng mở được cửa hàng đại lý ngũ cốc và nhờ đó lúc nào cũng rủng rỉnh tiền. Anh ta hơn Xá hai tuổi nhưng khôn ngoan từng trải, lại có cả một chiến thuật mua chuộc đám họ hàng, xóm giềng nên cầm chắc phần thắng trong tay. Cưỡi chiếc xe mới dán nguyên tem về làng, nhưng bất kỳ gặp ông già bà cả nào anh ta cũng xuống xe, cúi chào lễ độ. Sau đó anh ta tới hỏi thăm từng nhà, bắt đầu từ ông trưởng tộc xuống đến các ông trưởng chi, nội lẫn ngoại, không quên đem theo quà bánh để đặt lên bàn thờ, thắp nén hương khấn vái tổ tiên. Ông trưởng tộc được một gói trà ướp sen với hộp bánh nướng hảo hạng, ông trưởng chi được gói trà ướp nhài với phong bánh quy, rồi các bà láng giềng được khăn len quàng cổ, trẻ con được kẹo hồng và kẹo cam… Thứ nào cũng gói bọc tinh tươm bằng giấy bóng màu rực rỡ… Tiếng khen râm ran không ngớt từ trong nhà ra ngoài ngõ:
– Cô Soan vớ được tấm chồng, đáng công trang điểm má hồng răng đen… Sau này tha hồ nhờ cậy…
– Trai thời nay chẳng thấy ai thông thái như anh Khiền. Còn trẻ thế mà thuộc làu làu lịch sử… Bữa trước lại chơi, anh ta đọc vanh vách cụ tổ nhà tôi đỗ bảng nhỡn năm nào, tháng nào, cùng thời với ai… Mình bạc trắng đầu cũng không biết rõ tổ tiên mình
đến thế…
– Anh ta có chữ, lại sẵn tiền, hào hiệp với xóm giềng làng nước, con cái Soan lấy được tấm chồng như thế ngang lên cõi tiên…
Bố mẹ cô Soan, khỏi phải nói, sướng lăn lóc. Họ hớn hở chờ ngày “đám cưới to nhất làng nhì xứ” được thực hiện:
– Con xem xem, trong làng ngoài nước không ai không ca ngợi anh Khiền… Người đức hạnh như thế, nhất nhất sau này sẽ thủy chung. Con lấy anh ta sẽ được đổi đời, sau này ăn trắng mặc trơn chẳng đầu tắt mặt tối như dân xóm Núi…
Soan lắc đầu nguây nguẩy:
– Con không lấy ai cả, con không lấy ai hết… Con ở nhà với bố mẹ…
Nhưng không ngày nào cô không gặp Xá. Hai người chết mê chết mệt với nhau. Bố Soan bắt được họ ngồi tự tình ven đồi liền tát cho cô hai cái nảy đom đóm mắt rồi dẫn về, trói ở cột chuồng trâu một đêm một ngày liền cho biết phép nhà… Ðám bạn Xá chạy tới, vừa an ủi vừa khuyên:
– Ðối phương mạnh quá Xá ơi, cậu lấm lưng mất. Tính trước đi là vừa…
– Nếu quả tình không cứu vãn được, hãy ra tay trước. Cậu phải tuyên bố bỏ cô ta để khỏi mang tiếng là kẻ bị đá đít… Khiền tuy giàu sang, lắm tiền của lại nguyên vẹn cả hai con mắt nhưng hắn sẽ bị đo ván một khi cậu tuyên bố bỏ cô Soan. Như thế, trước mắt thiên hạ, hắn là kẻ hứng của thừa…
Xá bối rối. Anh chưa biết tính cách nào. Anh yêu Soan, nhưng xem ra đó là mối tình vô vọng. Cuộc so đo không ngang sức. Anh, gã lính về vườn, không cắc bạc trong tay, cửa nhà không, nương vườn chưa có. Xã cũng đã chia cho anh khu đồi nhưng chưa có tiền mướn thợ vỡ đất trồng cọc và mua giống tiêu. Anh dự tính phải sau hai
mùa sơn tràng mới lo nổi số tiền ấy…
Vào lúc anh bấn loạn Soan chạy đến, mặt mày sưng đỏ muỗi cắn, nước mắt lấm lem. Cô bảo anh rằng cô phải rống lên đến nỗi bố mẹ xấu hổ với láng giềng đành cởi trói. Rồi cô giục:
– Anh phải cưới em ngay… Phải cưới ngay tắp lự.
Xá gặng hỏi:
– Vậy… ra Soan không yêu anh ta chút nào chứ?
– Không… không…
Soan gào thật to đến nỗi ông chú ở trong nhà phải ló đầu ra nhìn.
Lúc ấy, hai người ngồi nói chuyện bên rặng dâm bụt trước ngõ.
Soan gào lên rồi quắc mắt nhìn Xá:
– Em đối với anh mặn tình như thế mà anh dám hỏi câu ấy… Vậy anh coi em là kẻ ăn ở hai lòng?
Xá sợ, vội thanh minh:
– Không, tôi không dám… Chẳng qua là vì…
Anh không dám nói với Soan một cách thành thật những ý nghĩa của mình, càng không dám nói tới những lời khuyên của đám bạn. Soan bảo:
– Em không bao giờ yêu cái lão hói đầu ấy, không bao giờ em ngủ với lão hói đầu ấy, dù nó giàu vô thiên lủng.
Xá hỏi:
– Nhưng anh biết làm sao bây giờ? Anh yêu em nhưng anh không dám cãi lộn hoặc đánh nhau với bố em vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành những đứa con bất hiếu.
Soan đáp, không chút chần chừ:
– Chúng mình phải ngủ với nhau ngay, ngay tức khắc… Em mà chửa ra, bố mẹ mới hết ép gả cho lão Khiền. Thằng cha ấy đã chuẩn bị mười tám mâm ăn hỏi vào tháng sau…
Lúc đó, anh đang ở nhờ nhà ông chú ruột. Nhà rộng nhưng không có buồng riêng. Hai đứa con trai ông chú tuy trẻ đều đã cưới vợ, chiếm giữ hai căn buồng đầu hồi. Ông chú với anh ở ba gian nhà giữa. Gian chính đặt bàn thờ, ông và Xá mỗi người ngủ mỗi gian
bên. Ba gian đều rộng rênh nhưng nhìn thông thống sang nhau. Và họ chẳng thể làm ăn được trong cái không gian ấy:
– Khó quá…
Anh than thở:
– Anh định kiếm mớ tiền rồi mới dựng nhà… Ðất xã đã chia nhưng phải có tiền mua gỗ mua gạch mới có thể tính chuyện…
Soan giãy nảy:
– Chờ đến lúc ấy thì hỏng hết chuyện… Mình phải ngủ với nhau ngay đêm nay, đêm mai, đêm ngày kia… Em nhất định phải có thai mới nên được duyên kiếp…
Hai người nghĩ ngợi một giây rồi Soan quyết định:
– Anh vào lấy vải nhựa ra đây.
Xá vào nhà và sau đó quay ra với chiếc ca-pốt của lính Mỹ, chiến lợi phẩm anh thường dùng những lúc lên rừng. Họ cùng nhau qua thung lũng, qua mấy dải đồi trồng dứa lên tới những con dốc mọc đầy cây dâm dương hoắc. Ở đó, họ ngồi chờ mặt trời lặn, chờ
khoảnh khắc thiêng liêng để bóng tối bao phủ rừng núi đồi nương làng xóm, thả thứ sương mù đen như mực cho ánh mắt tò mò tọc mạch của thế gian không thể rọi tới…
– Thế nào, ăn được chứ hả?
Xá cất tiếng.
Bôn giật mình vội đáp:
– Ngọt… Ngọt thật.
Xá bảo:
– Vườn của cậu phải cải tạo. Phải cải tạo hoàn toàn. Tôi nói vậy nghĩa là cậu phải đốn hết cây, đào hết gốc, đem làm củi tất tật. Rồi xới xáo lại, ủ phân trộn nhuyễn với đất và trong một thời gian dài cho đất nghỉ ngơi, bổ dưỡng mới được tính đến chuyện trồng cây khác.
– Tôi hiểu.
Bôn đáp. Trong lúc tim anh rên rỉ:
… Gã đàn ông kia sung sướng thật… Gã tính mọi chuyện dễ ợt như vẽ lên lòng tay. Bởi gã có được một người đàn bà yêu gã đến thế, tận tình đến thế, hy sinh vì gã đến thế… Có được tình yêu, người đàn ông sẽ có cả thế gian…
Bôn biết rằng khởi đầu Xá cũng là kẻ trắng tay. Ngay đám cưới Soan anh ta cũng không làm nổi. Chính là Soan, người đàn bà táo tợn kia lo toan chuyện đó. Soan có thai, cô ra ngay trạm xá khám và tuyên bố với gia đình. Cô bảo bố mẹ rằng chính cô ta nhẹ dạ nên bây giờ họ phải đứng ra gánh vác chuyện cưới xin nếu không muốn mất mặt với láng giềng. Nếu ông bà đứng ra tác tạo cho đôi lứa, sẽ được thêm một đứa con. Xá là gã trai siêng năng tốt bụng, ăn ở hậu hĩ với anh cũng chẳng sợ thiệt thòi. Bằng không, cô vác bụng theo anh ta, ông bà sẽ mất đi chính đứa con ruột thịt, mất công mang nặng đẻ đau… Sau rốt, lời lẽ của đứa con gái táo tợn đã đánh ngã hai bậc phụ mẫu. Chính bố mẹ Soan đứng lên dựng rạp, lo hơn một trăm mâm cỗ cưới cho hai người. Soan đẻ con trai. Xá làm ăn khấm khá hẳn lên, số anh ta như diều gặp gió và rồi đúng như Soan dự đoán, anh ta trở thành đứa con rể hiếu thuận nhất làng…
– Thế nào, cậu vẫn giữ ý định làm nương tiêu chứ?
Xá lại hỏi.
– Phải, tôi muốn trồng tiêu, vì chẳng có nghề sơn tràng như anh.
Bôn trả lời.
– Không ít vốn đâu.
Xá bảo. Bôn im lặng. Anh lại thấy con tầu đang chìm xuống biển bùn và nỗi ê chề tràn ngập.
Xá gặng hỏi:
– Cậu nhất quyết ở lại Xóm Núi.
– Tôi ở lại.
Bôn đáp. Sau khi ngập ngừng vài giây, anh nói thêm:
– Tôi yêu Miên…
Anh biết rằng lẽ ra anh phải nói:
… Tôi yêu người đàn bà đó dẫu cô ta không còn yêu tôi nữa.
Nhưng tôi đã đặt hết cuộc đời tôi vào mối duyên này giống con bạc khát nước cuộc toàn bộ gia sản vào ván bài sau chót… Tôi không thể ra đi. Tôi không còn hơi sức để ra đi. Người đàn bà đó hút hồn tôi. Chẳng ai thay thế được Miên. Chẳng da thịt nào trắng như da thịt ấy, chẳng đôi mắt nào long lanh hơn đôi mắt ấy, chẳng mái tóc nào óng ả hơn mái tóc ấy… Cô ta đã từng là của tôi… Rồi một ngày tôi sẽ tìm lại được hạnh phúc, miễn là tôi kiên nhẫn…
Nhưng anh không đủ can đảm nói thật, dù là đối với Xá, người bạn tận tụy, kẻ bảo trợ tự nguyện cho anh. Xá nín thinh. Anh ta vớ một quả na chín, bửa đôi, ăn hết sạch, đoạn buông tiếng thở dài:
– Thôi được… Nếu cậu đã quyết… Nhưng muốn thế, trước hết cậu phải đi chữa bệnh. Mồm cậu thối bỏ mẹ, tôi ngồi xa thế này còn không chịu được huống chi đàn bà?…
Soan lườm chồng:
– Cái lão dở hơi này, ăn nói lỗ mãng thế hả?
Ðoạn chị quay sang nói với Bôn:
– Anh đừng chấp… Chồng em lắm lúc y hệt thằng khùng… Chẳng cứ với anh, ngay với bố mẹ em nhiều khi ăn nói cũng láo liên như thế…
Nói xong, chị liền vội vã đi vào bếp, bỏ lại thúng na lẫn ổi chọn dở dang. Chờ Soan vào hẳn trong bếp, Xá nói tiếp:
– Nếu cậu quyết sống lâu dài với cô Miên, phải chữa bằng được bệnh hôi mồm, còn những việc khác sẽ tính sau. Mai, tôi đưa cậu xuống viện thành phố. Dưới đó, tôi cũng có ông bác làm nghề bốc thuốc bắc. Ta sẽ đến cả hai nơi xem sao… Có bệnh phải vái tứ phương. Giờ cậu về xoay lấy ít tiền, tôi chỉ còn hai ngày nữa thôi. Sáng sớm ngày mốt, đám sơn tràng chúng tôi làm lễ và ngược rú.

CHƯƠNG 12

Thành phố không có trăng, hoặc nói đúng hơn, trăng thành phố bẽ bàng nhợt nhạt. Chìm lấp dưới các loại đèn mầu trăng biến thành xác ướp của chị Hằng treo lửng lơ giữa bầu trời đầy bụi và khói.
Nhưng ở đây, trên bãi biển vắng tanh vắng ngắt này, trăng ngự trị với vẻ đẹp vẹn toàn, kiêu hãnh. Không vời gọi, không huyền bí như trăng miền sơn dã nhưng lộng lẫy hơn, uy nghi hơn, hùng mạnh hơn.
Biển bờ, sóng nước, những vàng lưới giăng mắc trên bãi cát, đám thuyền nằm chờ đợi… tất thảy đều tôn vinh quyền uy vô song của nó. Không gợn mây vương. Gió chạy ù ù qua rừng phi lao, reo trên sóng nước. Mùi biển đẫm không gian như từng thớ gỗ thuyền, từng hạt cát, từng bông cỏ mặt trời, từng tế bào trên da thịt con người đều thấm đầy vị muối cùng mùi sóng, thứ mùi vị tẩm liệm tâm hồn bất cứ kẻ nào sinh ra và lớn lên ven biển.
Hoan rít liên tục hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác. Những đọt lọc thuốc ném rải rác trên mô cát trước mặt anh dưới ánh trăng vẫn nhìn rõ:
… Một bao rưỡi, từ lúc ra đây mình đã hút hết bao rưỡi…
Anh thoáng nghĩ rồi tiếp tục châm nữa, hút mà không còn nhận ra mùi thơm, không còn ngửi thấy vị khói, rít liên hồi như thợ muối đẩy bàn trang trên mặt ruộng. Từ nơi anh ngồi tới mép sóng chừng dăm thước, nhìn rõ đường lươn dập dờn của làn nước, đám bọt mờ nơi đỉnh sóng lẫn những gợn cát khi chúng rút ra xa. Anh nghe rõ tiếng đổ ập của con sóng vào, nặng nề hối hả như nỗi cồn cào của kẻ đói yêu và lặng lờ khi sóng lui xa, bồng bềnh như tiếng thở dài vừa mãn nguyện vừa nuối tiếc. Biển tuổi thơ của anh giờ đổi khác: Nó là biển của kẻ đã từng trải và thôi không còn sung sướng… Ðã một tháng. Trăng đêm nay không tròn hẳn mà ngả sang hạ tuần, giống như đêm trăng Xóm Núi.
Từ đêm anh dắt Miên lên sân thượng tới nay đã tròn một tháng.
Thời gian chẳng tiếc thương ai. Ngày lại đêm, trăng tròn rồi khuyết, Hoan không hiểu anh đã sống vật vờ qua ba mươi ngày ấy ra sao? Một hình nộm hay một bóng ma câm lặng? Không, có lẽ anh vẫn giữ được dáng vẻ đường hoàng chững chạc bên ngoài. Giữ tư thế của một người đàn ông đứng đắn, chừng mực, con nhà có cốt cách. Những quy chế đạo đức nghiêm nhặt của ông giáo Huy vẫn kiểm soát từng hành vi, từng lời ăn tiếng nói của anh. Anh vẫn làm việc một cách bình tĩnh sáng suốt, tính toán rạch ròi đâu ra đấy, thiết kế lại cửa hàng, thuê người thi công, chọn nhân viên mới, thay đổi mặt hàng tìm mối manh để kiếm thêm những mặt hàng ưu thế rồi thuê người áp tải từ Sàigòn và Ðà Nẵng ra. Cửa hàng của anh giờ không còn bán tạp hóa mà chuyển sang các vật liệu nội thất, đồ điện đồ gỗ và một ít đồ trang trí loại đắt tiền. Công việc tiến triển như có phép tiên. Mới một tháng tròn mà sự thay đổi khiến cả thành phố trầm trồ.
Chị Châu bảo:
– Hóa ra chính cậu mới có tay buôn. Cậu làm một tháng bằng chị cầy cục mấy năm ròng. Lẽ ra cậu phải về thành phố từ ngày hòa bình mới phải.
Hoan không đáp.
Chị anh chợt nhận ra sự im lặng của đứa em trai, chị lúng túng nói:
– Ấy, là chị nói thế… Chị xin lỗi…
Và chị lẩn ngay đi nơi khác.
Giữa những quãng thời gian tính toán hoặc kiểm soát hàng hóa, Hoan thường ngồi nhìn đường phố. Dòng đời diễu qua như con nước chảy. Trước đây vài năm có ai ngờ phố xá sầm uất đến thế này.
Cũng chẳng ai tưởng tượng nổi ngôi nhà của ông bà nội anh bị trưng thu được trả lại đột ngột không kèn không trống. Lúc đó, Hoan còn ở Xóm Núi. Chị Châu, chị Nền cùng gia đình về thành phố.
Sau khi mẹ anh chết, chị Châu thế chân bà bán hàng trong cửa hành bách hóa tổng hợp thành phố, vẫn dưới quyền lãnh đạo của bà Kim Lan. Chị anh đã phải chịu mọi sự trả thù hèn hạ của người đàn bà đỏng đảnh lăng loàn sau khi cuộc hôn nhân giữa anh và cô Kim Liên tan vỡ. Bất ngờ một buổi, có chiếc xe hơi xịch đỗ trước cửa. Trên xe bước xuống hai người đàn ông. Một trong hai người ngó nghiêng cửa hàng bách hóa và hỏi:
– Ðây có phải nhà anh giáo Huy không nhỉ?
Chị Châu bước ra đáp:
– Dạ thưa ông ba tôi đã mất. Nhà này trước đây của ông bà tôi.
Người khách đứng ngẩn ra nhìn chị hồi lâu rồi nói như quát:
– Con cái Châu hả? Mày lại dám xưng tôi với chú mày a? Mày biết tao là ai không?
Chị Châu hoảng hồn không biết ăn nói ra sao, ông khách lạ lùng kia đã kéo người bạn vào nhà:
– Vào trong này, tôi phải thắp hương cho ông anh tôi đã.
Ðoạn ông quay sang bảo chị Châu:
– Tao là chú Huyến hiểu chưa? Tao bỏ quê đi mấy chục năm trời.
Ba mày có nhắc đến tao không đấy?
– Dạ, ba mẹ cháu có nhắc tên chú luôn.
– Phải, ngày xưa ba đứa chúng tao vẫn chơi tam cúc ăn tiền… Mẹ mày ra sao?
– Ba cháu mất năm trước mẹ cháu mất năm sau, vừa hết giỗ đầu ông cụ…
– Cũng phải vậy thôi… Cái đời này yêu nhau lắm, người dương kẻ âm sao được?
Nói xong ông cười sằng sặc nhưng nước mắt ràn rụa. Rút khăn lau mặt, ông bảo người đi cùng:
– Bây giờ già rồi, đâm ra hay khóc… Tôi xa quê lâu quá… Xa quê gần hết cuộc đời…
Nói rồi ông lại khóc. Vị khách đi cùng lẫn mọi người đều đứng yên chờ ông khóc cho hết cơn. Chị Châu đưa ông qua cửa hàng vào gian nhà trong, nơi đặt bàn thờ ông bà giáo. Ông khách thắp ba nén nhang cắm vào bát, gọi hồn người chết cũng ngỗ ngược, suồng sã như ông nói với người sống. Khấn vái, than thở xong ông rút ví đưa cho chị Châu nắm tiền:
– Ngày mai mua đồ lễ cúng ba mẹ mày.
– Thưa chú, mai chưa phải ngày kị…
– Tao đã khấn bất cứ ngày nào bố mẹ mày cũng phải đội mồ đi lên.
Ngày xưa, tao còn đưa thư tình cho anh chị ấy rồi mới bỏ nhà theo cách mạng… Trưa mai, họp xong chú sẽ về thắp hương cho ba mẹ cháu…
Nói đoạn ông Huyến kéo tay người đồng hành:
– Ði cậu.
Ra tới hè, khi lái xe đã mở cửa bỗng nhiên ông lôi ông ta quay lại:
– Cái nhà này là thế nào hở?
Vị khách ngượng ngùng đáp:
– Trưng dụng làm cửa hàng bách hóa từ năm 56… Thời đó, các anh ấy đã quyết định…
Ông Huyến trợn mắt lên:
– Trưng dụng… Nhà anh giáo Huy mà còn trưng dụng thì ăn ở đượcvới ai?
Ông kia đáp:
– Việc đó do lịch sử để lại.
Ông Huyến bảo:
– Lịch sử sai cũng phải sửa. Lịch sử là do mấy lão tiền bối của bọn ta làm, có lão tả khuynh, có lão hữu khuynh, có lão thích trò mị dân, có lão thích chơi chiêu của bọn quá khích và khủng bố… Phải xét cái gì đúng cái gì sai mà làm chứ?… Không lẽ bây giờ trong đám dân chúng của cậu có đứa lỡ chửa hoang cậu cũng gọt đầu bôi vôi rồi bỏ rọ trôi sông như lịch sử ngày xưa?
Vị khách thấy ông Huyến tức giận lại to tiếng ngay trên hè phố vội kéo vào ô tô:
– Ðược rồi… Tôi biết rồi… Ðể tôi bảo chúng nó…
Xe chạy vụt đi.
Trưa sau, đúng ngọ ông Huyến quay lại. Ði theo ông là viên thư ký của bí thư tỉnh ủy, người hôm qua bị ông tấn công. Viên thư ký đem theo sắc lệnh tức khắc trả lại nhà cho gia đình ân nhân cách mạng, kèm theo khoản bồi thường. Bà Kim Lan và các nhân viên khác phải tức khắc chuyển hàng hóa về kho của Ty Thương Nghiệp để chờ phân công việc mới.
Chuyện xảy ra như mơ. Chị Châu lên Xóm Núi kể lại tường tận với Hoan và bảo anh đưa gia đình về phố. Nhưng Hoan đã giao cho chị toàn quyền quyết định. Anh không thiếu tiền, và đời sống miền sơn dã vẫn lôi cuốn anh hơn. Chị Châu về phố, cắt mảnh đất làm đôi xây hai ngôi nhà cùng kích thước, cùng kiểu mẫu bằng số tiền bà giáo quá cố giao phó và tiền riêng chị dành dụm được. Xây xong, chị dọn hai cửa hàng bách hóa, giao chị Nền trông coi cửa hàng của Hoan, tháng tháng kiểm kê thu chi và xếp những đồng tiền lời vào hộp, dành cho đứa em trai, kẻ nối dõi tông đường của ông bà giáo…
Hôm Hoan từ Xóm Núi trở về, anh ứa nước mắt khi hai người đàn bà giao nộp tiền ấy cho anh cùng với chùm khóa. Anh hiểu những hạt giống cha anh gieo không mất. Anh quyết định phá vỡ bức tường ngăn hai cửa hiệu, làm thành cửa hàng thênh thanh nhất thành phố, trang trí nội thất lại và thay đổi mặt hàng. Anh muốn gầy dựng cho những người đã tận tụy với anh một cuộc sống phong lưu, giữ gìn mối tình cảm nồng ấm và nghiêm túc giữa các thành viên trong gia đình, theo đúng nguyên tắc của cha anh ngày trước. Hoan thành công mau lẹ. Một lực lượng thần bí đã phù trợ anh. Một ngón tay linh thiêng trỏ anh từng đường đi nước bước. Bất cứ mặt hàng hóa nào Hoan đụng tới đều mau lẹ trở thành hàng hóa thời thượng và chúng đem lại cho anh những món lãi khổng lồ. Mặt hàng này chưa vãn, Hoan đã thay mặt hàng khác và những kẻ chạy theo chân anh chỉ còn biết vuốt bụng thở dài:
– Thằng cha ấy vào vận đỏ… Trời phù hộ cho nó.
Phần Hoan, chính anh cũng không biết vì sao anh làm mọi chuyện dễ dàng đến thế. Việc buôn bán của anh giống trò đùa. Ðể quên mối sầu buồn anh đi liên tục. Hết Ðà Nẵng vào Nha Trang, từ Nha Trang lên Ðà Lạt. Từ Ðà Lạt xuống Sài Gòn. Từ Sài Gòn lại quay ra Ðà Nẵng. Trong những chuyến ngao du ấy anh nhận thấy người đời cần thứ này hoặc thứ kia, rằng hôm nay họ thích mốt này ngày mai họ thích cái khác. Những quyết định đến mau lẹ sau một vài giờ tính toán. Chuyến hàng nào của anh cũng chóng vánh theo kiểu người ta gọi: Ðánh nhanh rút nhanh. Chưa lần nào thất bại. Công việc đã vào guồng tự nó cuốn theo. Hoan vẫn có thời gian rảnh rỗi. Anh nhờ người kiếm hồng tường vi và cây móng rồng trồng quanh vườn. Anh cho người đi mua bể cạn. Anh tái tạo lại cái khung cảnh thời thơ trẻ và đắm mình vào kỷ niệm, mường tượng những buổi chiều mẹ anh làm lễ vọng trời đất, mường tượng người đàn ông tao nhã dịu dàng thường vuốt mớ tóc trước trán anh, mường tượng chàng trai mười tám xưa trên sân bóng rổ…
Nhưng những điều ấy không làm anh được giải thoát. Quá vãng chỉ là quá vãng. Nhiều lắm nó cũng chỉ cho con người sự êm dịu và ảo ảnh về một sức mạnh. Nó không là cuộc sống. Cuộc sống của anh đã ở ngoài anh, ngoài gã đàn ông chĩnh chện giàu sang và nhàn nhã, thường ngồi sau ly cà phê ngắm phố phường với cặp mắt không ánh sáng, không niềm vui. Ðôi khi, anh tự tách khỏi bản thân để nhìn ngắm mình như ngắm nghía một kẻ lạ lùng nào đó, một thương gia trẻ đang vào vận đỏ, kẻ được cả thành phố thán phục, kẻ làm mồi cho tất thảy những toan tính của đám đàn bà trẻ hoặc của đám gái đến tuổi kén chồng… Anh không lạ gì những ánh mắt ấy. Anh từng cười nói, chào hỏi, bắt tay người này rút thuốc lá mời người kia, lịch sự lui bước nhường đường cho một cô ả xinh đẹp õng ẹo mà anh thừa biết cô ả đang cố ý chìa cặp mông về phía anh, cố ngoáy đôi chân cho thật giống các nữ minh tinh màn bạc, cố vén đôi môi cười sao thật khêu gợi và toàn bộ cuộc chinh phạt đó nhắc anh tới ly rượu đỏ của bà Kim Lan thuở xưa…
Anh thấy mình khốn khổ.
Một nỗi khốn khổ không được thổ lộ cùng ai và khó bề giải thoát. Chị Châu và chị Nền thương anh, chăm chút anh nhưng họ kính sợ anh như kính sợ một vị chúa đất và vì quá giản đơn họ không thể chia sẻ được điều gì… Tuần một lần, anh về Xóm Núi thăm con, kiểm tra rương rẫy và bàn bạc với ông già Lư, người quản gia anh đã chọn từ vùng Quảng Trị. Con trai anh xinh xắn, thông minh, hiền lành… Vẻ đẹp của nó là vẻ đẹp của hai người hòa trộn nên mỗi lần nhìn nó một gương mặt khác lại hiện lên, một thân thể khác lại áp kề, một mùi da thịt khác kêu gọi… Nỗi mừng gặp con ngắn hơn nỗi đau một người thiếu vắng. Anh bị kéo căng ở hai đầu, như một kẻ tà đạo phải chịu hình phạt cho ngựa xé. Cuộc sống phố phường cuồn cuộn. Âm thanh, màu sắc, ánh sáng hòa trộn xáo động không ngưng nghỉ, cũng chỉ lôi cuốn được anh vài khoảnh khắc.

Sau rồi, anh không còn cảm giác gì nữa, như ngũ quan của anh đã mất, chẳng thấy ánh sáng nào, âm thanh nào, mùi vị nào còn tác động nổi.


Tối nay Hoan trèo lên sân thượng, nhìn thành phố. Anh ngồi như thế giờ lâu rồi bỗng dưng anh thấy dưới kia không còn nhà cửa, phố xá đèn đường, xe ô-tô xe gắn máy, không người đi lại không biển quảng cáo và tiếng ồn của cuộc sống. Dưới kia, là sa mạc. Một chốn không người. Mình anh trơ trọi. Nỗi cô liêu là một vòm trời khác còn rộng rênh hơn bao trùm cà vòm trời trên đầu anh. Anh sợ. Anh nghĩ anh có thể là người cuối cùng còn lại sau cơn tai biến, một nạn hồng thủy hoặc trận bão bom nhiệt hạch. Anh vội xuống nhà, nhảy lên xe, phóng ra bờ biển…

Giờ biển ở trước mặt anh. Nó cứu anh khỏi cơn hoảng loạn. Đầu óc anh dần tĩnh lặng trong gió đêm. Anh nhìn những con sóng không ngừng xô giỡn và biết rằng chỉ cần rút đôi chân khỏi giầy, lột tất đi hơn chục bước, anh sẽ thấy sóng ngay trên chân mình, sóng sẽ liếm chân anh như hơn ba mươi năm trước nó đã từng liếm đôi chân bé nhỏ của cậu bé Hoan. Mỗi bận cha anh cho ra biển tắm, Hoan thường ngạc nhiên thích thú khi bọt nước bám vào chân lông và khi vỡ nó tạo nên cảm giác ngưa ngứa, nhồn nhột…
… Nếu giờ đây ta lột áo quần, phóng vào làn thủy triều kia để toàn thân được ngọn sóng vuốt ve, trùm phủ?… Hoan nghĩ tới những vuốt ve nô dỡn của sóng nước khi anh còn thơ trẻ và nỗi khao khát được trở lại một lần hạnh phúc thời quá vãng khiến tim anh nao nức… Anh đứng dậy, cởi hàng nút áo trước ngực. Nhưng khi cởi tới chiếc nút thứ ba, bàn tay anh chạm vào rốn và nó bỗng rơi thõng xuống. Anh chợt hiểu rằng anh không còn là chú bé ngày xưa… Cậu bé Hoan ngày xưa vẫn được cha cho ngồi trên vai dạo chơi trên bãi cát… Cậu bé Hoan say mê tắm biển thấy chân trời cuộc sống nằm dưới đà bay của cú nhảy sóng, mọi bí ẩn của vũ trụ bừng sáng lên sau một hơi lặn dài và làn sóng nước bao la mặn mòi hơi biển cả là nguồn sung sướng vô biên chẳng bao giờ vơi cạn…
Anh đã qua tuổi… Tam thập nhi lập rồi. Anh đã ba mươi bảy. Một gã đàn ông xa con và mồ côi vợ không thể tự cứu mình bằng cái trò tồng ngồng nhảy sóng của hơn hai mươi năm trước. Trong hơn hai thập kỉ ấy, bao nhiêu dòng nước đã cuốn từ cửa sông ra biển, và biển đã luân chuyển các guột nước trong lòng sâu của nó bao nhiêu lần?… Anh lại ngồi xuống cát, châm điếu thuốc khác…
Biển của anh giờ không còn ở nơi đây. Từ xa, một bóng người đang cắm cúi đi tới. Một cái bóng bé nhỏ, chúi về phía trước, bên tay cắp chiếc thúng con. Có lẽ là một đứa bé bán quà rong. Những người tắm biển đã về từ lúc lặn mặt trời, cớ sao nó còn chầu chực nơi đây?… Có lẽ nó ế hàng nên phải rình những cặp trai gái đang tình tự để năn nỉ. Và bây giờ nó gặp gã khách côi cút là anh?…
Hoan đoán đúng. Đứa bé cắp thúng hàng nhằm hướng anh ngồi đi miết. Chẳng mấy chốc nó tới nơi, quỳ gối trước mặt anh vừa thở hồng hộc vừa rút cây đèn pin soi những món hàng ế ẩm:
– Chú ơi, mua giùm con ít đồ nhậu.
– Chú không uống rượu.
– Vậy chú ăn quà cho vui miệng.
– Nhưng cha chú bắt chú sau khi ăn quà phải xúc miệng bằng nước muối không sợ hư răng… Ở đây, cháu có nước muối không?
Hoan vừa nói vừa nhớ tới đứa con trai, nhớ vẻ mặt phụng phịu của nó mỗi lần phải thực thi cái nguyên tắc vệ sinh nghiêm nhặt đó. Đứa bé bán hàng ngắc ngứ, đần mặt nhìn anh. Nó không hiểu ông khách nói thật hay bỡn. Cây đèn pin trong tay nó vếch lên, soi một gương mặt đen đủi, ranh mãnh với cặp môi xinh nhỏ:
… Nó còn bé quá… Nó đã phải rời học đường đi kiếm sống… Có lẽ cha mẹ nó chết sớm, như Miên ngày xưa…
– Nào, cháu có món gì, để chú mua về đãi hàng phố vậy.
– Dạ, con xin chú, chú mua giùm con…
Con bé nhanh nhảu van nài. Cây đèn pin quẹt qua quẹt lại trên mấy món đồ thảm hại: Một chồng bánh đa kẹp kẹo lạc đã chảy. Một bát lạc luộc. Vài quả ổi dập nát vẹo vọ, hẳn được mót từ mảnh vườn cằn cỗi nào đó đem mớ cho trẻ nghèo. Mấy con mực nướng trong túi ni-lông. Hai gói thuốc lá rẻ tiền đã móp vỏ.
– Cháu có đi học không?
– Dạ không.
– Cha mẹ cháu không cho đi học?
– Thưa không. Con phải bán hàng. Đi học lấy chi mà ăn.
– Cha mẹ cháu làm gì?
– Mẹ con bán ốc hương ở chợ, còn cha con bán tào-phớ-rong.
– Nhà cháu đông người không?
– Có cha mẹ với năm anh em con.
– Không đứa nào đi học cả?
– Thưa không.
– Cháu có thích học không?
– Thưa không. Có hồi cậu con đã dạy chữ cho tụi con 
nhưng chữ không vào. Cậu bảo óc đặc không học nổi. Đi bán hàng là sướng nhất. Vừa kiếm được tiền mua gạo vừa chơi rong…
… A, ra thế… Hóa ra trên đời có những đứa bé không thích học. Chẳng phải ai cũng than vãn việc học hành lở dở như người đàn bà của ta. Ta biết Miên thông minh nhường nào…
– Thôi được, chú mua hết cho. Cả thảy bao nhiêu?
Cặp mắt đứa bé đảo nhanh như chớp và ngay tức khắc mặt nó hiện lên vẻ tinh ranh của đám dân thị thành.
Hoan chăm chú nhìn nó tính toán từng món một, nâng giá món này lên vài hào hoặc tính gian món kia vài chiếc, cặp môi xinh nhỏ chụm lại và đôi mắt đong đưa trên cái vương quốc bần hàn.
Hoan bảo:
– Thôi, không cần đếm đi đếm lại từng cái kẹo như vậy… Tất cả bao nhiêu, cứ gộp hết vào…



– Dạ. Cả thảy đáng lẽ mười một đồng nhưng vì chú mua cả mớ nên con bớt cho chú một đồng còn mười đồng chẵn.
Xuýt nữa Hoan phá ra cười:
… Con cáo con, nó tưởng mình là người trên sao Hỏa vừa xuống… Nhưng nó tưởng thế cũng có lý, chẳng ai rồ dại ngồi một mình trên bãi biển đêm thế này…
– Con ranh, mày tính kiểu gì vậy?… Cả mớ hàng cháu bán nhiều lắm cũng chỉ được bốn năm đồng… Lần sau muốn bịp thì phải chọn người khác nhé…
Ðoạn anh móc túi lấy ra ba tờ bạc năm đồng:
– Này, chú cho mười lăm đồng, ôm mớ quà của cháu về luôn đi… Thôi, đi cho mau kẻo lạnh…
– Dạ, con xin cảm ơn chú, con xin đội ơn chú…
Ðứa bé cầm tiền rạp đầu xuống chào anh rồi sau đó nó ôm thúng hàng lủi nhanh như sóc. Hoan nhìn theo cái bóng đen bé nhỏ hút xa dần, cồn cào gan ruột. Viền môi hồng nhỏ xíu của nó gợi cho anh một viền môi khác. Và từ điểm nhớ ấy, nỗi nhớ lan rộng, tăng trưởng, dựng nên một hình bóng thân quen… Tại sao ta lại ngồi đây nhỉ?
Vào giờ này, lẽ ra anh đang ngồi trên sân thượng uống trà, tán gẫu với đám láng giềng Xóm Núi và vừa tiếp chuyện họ anh vừa lắng nghe tiếng đứa con trai bi bô với mẹ nó dưới sân. Gặp ngày vắng khách, cả ba người ngồi trước hiên hóng gió. Không gian vây bọc họ luôn tẩm ướp hương các loại hoa trong vườn, ấy là tiểu vũ trụ an bình và say đắm được tạo ra từ người đàn bà anh yêu và yêu anh. Cuộc đời anh đã định vị ở nơi đó, sao bỗng dưng bị đẩy ra ngoài, rơi vào khoảng chân không, một cõi lạnh lùng xa lạ nơi bất cứ vật gì cũng khiến anh ngờ vực.
Nhiều lần Hoan tự hỏi:
… Vì sao nhỉ?… Ta vốn là dân thành phố, sinh trưởng và lớn lên ở nơi đây, hít thở không khí nơi đây để trở thành người, vậy mà ta luôn có cảm giác mình là khách qua đường, là kẻ ăn nhờ ở đậu…
Nỗi bất an thường trực ở trong anh.
Mỗi khi tiếp chuyện những kẻ môi giới, các chủ hàng hoặc đám bạn buôn, anh thấy rõ mình chẳng còn là mình, chỉ là kẻ sắm vai, là hình nộm phải diễn. Một cái bắt tay sớm hay muộn, một tiếng thở dài buông ra đúng lúc hay không đúng lúc, một tiếng cười trật
khấc hoặc đáng giá ngàn vàng hoặc làm sụt lở một phần gia sản một cuộc trà dư tửu hậu có thể củng cố được các mối quan hệ hữu ích hoặc khai thác những sơ hở của đối phương… Những bài học của xã hội buôn bán cạnh tranh mà tất thảy những kẻ nhập cuộc phải thuộc lòng… Nhưng sắm vai trò ấy, anh luôn luôn thấy mình ngộp thở.
Hoan là kẻ thèm khí trời. Anh cần khoảng không gian bao la thanh sạch. Không gian ấy anh đã tìm và đã thấy ở nơi khác. Trong thành phố này, chỉ riêng khu vườn là nơi duy nhất anh có thể hít thở dễ dàng, tránh mọi cuộc tiếp xúc với ngoại giới và được quyền ném mặt nạ lại phía sau… Nhưng khu vườn quá nhỏ. Và mùi hoa móng rồng với tường vi chẳng lấp đầy nỗi thiếu vắng một mùi hương khác. Nỗi thiếu vắng ấy càng ngày càng nung đốt anh, từ không gian thấm sâu vào gân cốt máu thịt. Và tới lúc nó hòa nhập cùng cơn đói tình dục…
Lại có người đi tới. Lần này, không phải một mà là ba cái bóng cao lớn nghênh ngang, vẻ như ba gã trai. Họ tiến đến gần anh vừa đi vừa chuyện oang oang, giọng người chài lưới, át cả tiếng sóng:á
– Mi ưng con nớ hỉ?
– Kệ tau, mi hỏi làm chi?
– Nếu ưng nó tau thôi… Răng không, tau xáp vô liền.
– Thì mi cứ xáp vô.
– Mi thách hả?
– Tau chẳng thách.
– Ðừng thách tau. Bộ mi xớ rớ cả tháng chưa mần ăn được chi, chớ tau cứ rờ tới con nào con nớ mềm nhũn ra ngay… Giờ trước giờ sau là tau quất…
– Ðừng nói trạng… Chứ tau thách mi đó. Mi mần đi.
Giọng thứ ba cất lên:
– Thôi đi chúng bay… Thiếu chó gì gái mà phải mất nghĩa mất tình vậy?… Người ta đổi gái chứ không ai đChương 10 


Ngày hôm ấy với Bôn dài hơn thế kỷ. Bữa cơm thứ nhất đã qua trời mới đứng bóng, mặt trời bỏng rẫy hắt thứ ánh sáng hừng hực chói chang như thù hận nhân gian. Nhà vừa lợp lại, mái lá dày nên không đến nỗi quá nồng nực nhưng cửa sổ nhỏ lại không đúng hướng gió nên gian buồng ngột ngạt. Vả chăng, dù không gian chẳng ngột ngạt Miên cũng sẽ kiếm cớ để không nằm chung giường với anh. Bôn nghĩ vậy nên anh im lặng khi sau bữa cơm, chị ra ngồi dưới gốc ổi ngoài vườn, phe phẩy chiếc quạt nan. Miên đã nhổ sạch các đám rau chua me dại với đám cỏ ấu. Chị cũng đã vun luống hương nhu anh trồng. Chẳng còn việc gì để làm trên mảnh đất hẹp xiên xẹo mấy cây ổi già và mấy cây khế. Tất thảy đều cằn cỗi còi cọc, cây nào cây nấy không thể đâm lá trổ nhành vì hàng mấy thập kỷ chẳng được bón phân, thêm nữa đất quanh gốc cây nhẵn lì vì lũ trẻ chạy nhảy. Miên nhớ hồi chị tới đây, vườn còn khá tươi tốt. Còn có rặng chanh hương, thứ chanh nhỏ quả nhưng thơm nức, có một gốc mít xum xuê và xung quanh rào giậu vẫn kín. Dọc theo bờ dậu, dây mồng tơi leo nặng trĩu tha sức hái nấu canh. Giờ, mảnh vườn tàn lụi đi, tàn lụi đến mức ngao ngán…
Nhưng anh không còn tỉnh trí để nghe rõ tiếng kêu ấy. Anh đặt chị lên giường, chụp xuống thân thể chị những trận hôn như giông như gió vừa hôn vừa rít lên những tiếng kêu ai oán:
CHƯƠNG 11

Xá đang chuẩn bị đồ lề cùng đám thợ sơn tràng lên rú. Anh ta mặc mỗi chiếc quần đùi lại săn hai ống lên tận bẹn ngồi rửa cưa. Tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi vắt chiếc khăn mặt bông nhọ nhem. Lúc Bôn đứng trước ngõ Xá vẫn cắm cúi miết con giũa, tiếng thép cọ vào thép nghe ghê tai. Anh phải gọi bốn năm tiếng liền Xá mới dừng tay lại:
CHƯƠNG 12
Thành phố không có trăng, hoặc nói đúng hơn, trăng thành phố bẽ bàng nhợt nhạt. Chìm lấp dưới các loại đèn mầu trăng biến thành xác ướp của chị Hằng treo lửng lơ giữa bầu trời đầy bụi và khói.
Sau rồi, anh không còn cảm giác gì nữa, như ngũ quan của anh đã mất, chẳng thấy ánh sáng nào, âm thanh nào, mùi vị nào còn tác động nổi.
Tối nay Hoan trèo lên sân thượng, nhìn thành phố. Anh ngồi như thế giờ lâu rồi bỗng dưng anh thấy dưới kia không còn nhà cửa, phố xá đèn đường, xe ô-tô xe gắn máy, không người đi lại không biển quảng cáo và tiếng ồn của cuộc sống. Dưới kia, là sa mạc. Một chốn không người. Mình anh trơ trọi. Nỗi cô liêu là một vòm trời khác còn rộng rênh hơn bao trùm cà vòm trời trên đầu anh. Anh sợ. Anh nghĩ anh có thể là người cuối cùng còn lại sau cơn tai biến, một nạn hồng thủy hoặc trận bão bom nhiệt hạch. Anh vội xuống nhà, nhảy lên xe, phóng ra bờ biển…

Giờ biển ở trước mặt anh. Nó cứu anh khỏi cơn hoảng loạn. Đầu óc anh dần tĩnh lặng trong gió đêm. Anh nhìn những con sóng không ngừng xô giỡn và biết rằng chỉ cần rút đôi chân khỏi giầy, lột tất đi hơn chục bước, anh sẽ thấy sóng ngay trên chân mình, sóng sẽ liếm chân anh như hơn ba mươi năm trước nó đã từng liếm đôi chân bé nhỏ của cậu bé Hoan. Mỗi bận cha anh cho ra biển tắm, Hoan thường ngạc nhiên thích thú khi bọt nước bám vào chân lông và khi vỡ nó tạo nên cảm giác ngưa ngứa, nhồn nhột…
– Dạ. Cả thảy đáng lẽ mười một đồng nhưng vì chú mua cả mớ nên con bớt cho chú một đồng còn mười đồng chẵn.

Nằm thượt trên giường, Bôn vừa thở vừa nhìn Miên đang tựa vào gốc cây, gà gật ngủ, chiếc quạt nan rời khỏi tay chị rơi xuống: Cô nàng tự thân làm tội đời. Ðàn bà đúng là giống lừa ưa nặng. Họ thích nhiễu sự, thích rắc rối, thích quanh co… nhưng muốn hay không cũng vẫn là đàn bà, đái không qua ngọn cỏ…
Ý nghĩ ấy khiến cơn tức giận của anh vơi nhẹ đi. Anh nhíu mắt nhìn mặt trời, thấy nó mất dạng chỉ còn lại một khối lửa trắng chói chang trên vòm trời xa tắp. Khối lửa đó dường như rất nặng và rất có thể ngày nào đó nó sẽ rơi vỡ, nó sẽ tan thành muôn mảnh, trái đất sẽ tối tăm như cõi u tì. Tưởng tượng đến cảnh ấy, anh bỗng thấy lòng khoan khoái: Không còn ánh sáng, nhà ngói nhà tranh cũng như nhau, lâu đài của vua chúa cũng giống lều thằng chăn vịt. Trong bóng tối ấy, hẳn con người sẽ sống với những kỷ niệm thời thơ ấu, và như thế, Miên sẽ hoàn toàn thuộc về ta…
Anh nhớ những cuộc hẹn hò cũ. Tiếng cười của cô bé gầy gò nhút nhát có tên là Miên. Anh nhớ màu phượng đỏ lộng lẫy tung hắt lên bầu trời nỗi hoan hỉ và niềm say đắm không nguôi dịu của tuổi trẻ. Anh nhớ… và anh nhớ… những hình ảnh êm dịu dẫn anh vào giấc ngủ.
Lúc ấy, ở ngoài vườn Miên cũng lơ mơ ngủ. Nhưng ngay trong giấc ngủ chập chờn ấy, những ý nghĩ vẫn liên tục diễu hành:
Có lẽ ta phải thuê người làm nương, có bỏ công sức vào mảnh vườn này cũng vô ích. Hình như nó đã tới hồi mạt vận, đất không đâm bông đơm trái nổi… và có lẽ ta cũng phải bỏ tiền xây một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, không thể sống dưới cùng một mái tranh nhà Tá…
Nhưng vì sao ta lại tự nguyện gánh vác công việc nặng nề đó. Dù làm nương hay xây nhà ta cũng sẽ tiêu những đồng tiền Hoan đưa. Và không lẽ ta yêu Bôn đến độ phải làm những điều ngu xuẩn ấy?
Ta không yêu Bôn, cuộc trở về này là một phận sự, cái phận sự đã được quy ước từ thời xửa thời xưa dù chẳng ghi rõ trên giấy trắng mực đen nhưng đã thành luật lệ. Nếu ta chống lại luật lệ ấy dù bỏ làng ra đi cũng chẳng được sống bình yên…
Nhưng sống chỉ vì phận sự còn khổ hơn kẻ tu hành. Làm sao chịu nổi?
Người ta có thể quen với mọi sự. Ta phải chấp nhận… cu Hạnh còn quá nhỏ dại, và ta không thể để nó bơ vơ trên đời… nhưng cớ sao ta phải chịu duyên nghiệp oan trái này. Phải chăng vì mối tình từ mười bốn năm trước? Hồi ấy, ta có yêu Bôn thật sự hay không, ta chẳng còn nhớ nổi. Ðã có một lần Bôn chìa tay cho ta trên dòng suối… sau đó, là những cuộc hẹn và một đám cưới gấp gáp trước lúc Bôn tòng quân… hình như ta cũng đã từng yêu Bôn nhưng sao mọi kỷ niệm nhạt nhòa như mây khói. Chỉ biết chắc chắn rằng hồi ấy mọi sự đều khác… mắt Bôn không tối tăm như bây giờ, môi không thâm sì và hơi thở Bôn không đáng sợ như bây giờ. Tuy không đẹp nhưng Bôn tươi cười vui vẻ… và còn có tài gảy đàn bầu. Có bận, ta đã nghe Bôn gảy đàn, đám trẻ làng túm tụm xung quanh…
Bất giác, chị buông tiếng thở dài rồi vì mặt trời quá chói chị nhặt chiết quạt rơi lên che mắt. Tựa đầu vào gốc cây chị cố lục tìm trong trí nhớ một tiếng đàn, một âm vang nào đó khả dĩ gợi được trong tim chị niềm yêu dấu ngày xưa. Nhưng hồi ức chỉ là đám tinh vân nhừ nhòa với các chấm sáng tối hòa trộn. Sau cùng, lờ mờ hiện lên một con đường viền cỏ rậm, đồi dứa chạy hai bên. Một rặng hoa phượng vĩ. Bên trên rặng hoa ấy, những đám mây mùa hè trôi nổi, quay tròn và vòm trời lơ giống như chiếc dù lớn. Và rồi, những hình ảnh ấy tan biến trong khoảnh khắc và Miên không còn thấy gì hết. Chị cảm thấy mình đang ngủ…
Tiếng chim hót trong bụi cây nào đó vẳng tới khiến người đàn bà bừng tỉnh. Chị mở mắt. Tức khắc, ánh sáng ngũ sắc xuyên qua những nan quạt rọi vào chói nhức.
Miên vội nhắm mắt lại rồi xoay lưng sang hướng khác. Khi tỉnh ngủ hoàn toàn chị nhìn thấy Bôn đang nằm sống sượt trên giường. Căn buồng mở toang, yên tĩnh. Hẳn anh cũng đã ngủ, người đàn ông tội nghiệp đó. Anh đã phải kiên tâm chờ đợi, không dám xấn xổ, không dám để chị phật lòng, Nhưng ánh mắt thèm khát của anh dán vào da thịt chị, rình mò từng cử chỉ vợ anh. Ðêm nay, chắc không thoát khỏi phận sự xẻ chia chăn gối. Nhưng mới chỉ nghĩ tới điều ấy, chị đã rùng mình. Lạy trời, xin đừng bao giờ xuống núi…
Rồi mặt trời ngả về phía Tây đúng thời khắc quy định, mặc cho người chồng cầu xin mặc cho người vợ nguyền rủa. Bữa cơm chiều qua rất mau, dường như họ chẳng nói với nhau lời nào. Ðêm nay không có trăng.
– Miên để tôi rửa bát cho.
– Thôi.
– Ðã qua đời lính ai cũng phải rửa bát. Ðể mâm cơm đấy cho tôi.
– Miên cứ đi tắm đi. Tôi múc nước đầy ang rồi đấy.
– Anh cứ mặc em.
– Tôi có bánh xà-phòng của Mỹ dành cho Miên… Tôi nhặt được trong lúc đánh đồn…
Bôn dừng lại vài giây rồi mắt nhìn chị và nói thêm:
– Ðể dành đã gần chín năm nay rồi đấy…
Trong ánh mắt yêu đương và quy lụy của anh, có một nỗi thiết tha rồ dại khiến chị mủi lòng. Chị lúng túng:
– Sao anh cầu kì thế… em tắm gì mà chẳng được.
Nói rồi không dám nhìn anh, chị lấy quần áo ra nhà tắm ngay. Gọi là nhà tắm, thực ra chỉ là một khoảng đất vườn rộng chừng hai thước vuông được lát bằng những viên gạch đầu thừa đuôi thẹo, xung quanh quây liếp. Nhóm thanh niên tình nguyện đã làm giúp trong dịp sửa nhà. Cái ang đã được cọ rửa sạch, kê trong góc, đầy nước. Một đoạn dây dù chăng ngang cành cây làm nơi vắt quần áo. Bánh xà-phòng thơm Bôn đặt trên chạc ba cây ổi. Miên cầm lên xem. Nó là loại xà-phòng tắm đề chữ Camay, giấy gói trắng đã ố vàng rách sờn các mép gấp. Ở nhà Miên, Hoan thường mua từng tá xà-phòng tắm loại này. Vậy mà Bôn đã giữ nó suốt chín năm trong ba-lô để mang về cho chị. Món quà duy nhất của anh sau một cuộc chiến tranh. Chị bỗng ứa nước mắt.
Ngoài bờ giếng, Bôn đang rửa bát. Tiếng nước xối và tiếng lách cách của bát đĩa chạm nhau nghe rõ mồn một. Miên ngồi thừ người trong nhà tắm, nghe tiếng Bôn bưng mâm bát đĩa vừa rửa vào nhà, nghe tiếng dép anh đi lại trên sân trong lúc ánh le lói chiều tà tắt dần. Chị ngửa mặt nhìn trời, những rạn mây đang sẫm dần và bầu trời như được ghép bằng những mảnh vỏ trứng vỡ nhuộm màu. Mồ hôi chị đã khô trong lưng áo. Gió lướt qua lang thang mang mùi vị đêm. Óc não rỗng không Miên chẳng nghĩ được điều gì rành mạch, nói cho đúng hơn chị chẳng còn nghĩ, chẳng còn lo âu hồi hộp cũng chẳng hoang mang chờ đợi, tâm hồn chị như đám da bị tiêm thuốc tê mất mọi cảm giác. Chị vục mặt xuống thau nước lạnh và bắt đầu xối nước không ngừng tay.
Trong lúc đó Bôn đã vào nhà, đang loay hoay tìm mảnh các-tông che cây đèn. Anh đã cặm cụi cả ngày trời để đóng hộp, vừa tránh gió vừa che bớt ánh sáng, nhưng mấy mảnh gỗ bị hụt nên cái hộp đèn cũn cỡn như kẻ mặc quần đùi. Mấy đứa con Tá chẳng học hành gì nên không thể kiếm nổi tờ bìa hoặc cuốn vở cũ. Sau cùng, Bôn chợt nhớ tới mấy tờ báo anh đã mua trên tàu, còn nhét trong ba-lô. Anh lôi ra cuộn thành hình loa kèn, chụp lên hộp đèn.
Vậy là anh đã tạo được cây đèn ngủ vừa ý Miên. Hồi họ cưới nhau, chỉ vì chuyện dầu đèn mà Tá to tiếng với anh. Những hôm sau, chị ta còn chì chiết, bóng gió dai như đỉa khiến Miên giận dỗi. Giờ anh đã sắm cây đèn mới, mua dầu riêng cất trong buồng. Không gì có thể ngăn cản hoặc làm rầy những cuộc ái ân của họ.
Xong việc, Bôn khoanh tay ngồi nhìn ra sân. Dẫu là mùa hè nhưng đêm miền sơn cước đã tối rất mau, bóng đêm mỗi lúc dày, đen như mực Tàu. Tim anh đập náo nức trong lồng ngực, cổ họng anh nghẹn thắt. Anh đã chờ đợi, chờ đợi và đây là khoảnh khắc con thuyền cập bến. Trong gang tấc, chỉ giơ tay sẽ với tới bờ…
Miên đột ngột bước vào. Chị đã tắm xong, toàn thân toát ra mùi nước và mùi của sự quyến rũ. Bôn nhắm mắt hít thở cái không khí tẩm liễm mùi người đàn bà anh yêu. Chị lặng lẽ tới góc buồng, thu dọn gì đó trên chiếc bàn nhỏ. Chị thu dọn rất lâu, lâu đến mức anh không còn kiên nhẫn được. Anh đứng lên:
– Miên còn ra ngoài nữa không?
– Không.
Anh đi ra chốt cánh cửa buồng rồi quay lưng lại. Khoảnh khắc ấy, có ai đó hét trong đầu anh:
Ðây là nhà của tôi, rộng hay hẹp cũng vẫn là lãnh địa của tôi. Và kia là vợ tôi, người đàn bà của tôi…
Của tôi… của tôi… của tôi…
Tiếng hét đó lặp đi lặp lại nhiều lần cứ như ai đó đứng nơi lèn đá hét vọng vào. Bất chợt, anh nghi hoặc sự thật. Anh quay ra rờ lên con chốt cửa, đẩy đi đẩy lại mấy lần cho tới khi con chốt gỗ kêu khục một tiếng khô khan anh mới hoàn toàn yên tâm. Anh đi về phía Miên. Chị vẫn cắm cúi thu dọn gì đó quay lưng lại ánh đèn.
– Miên…
Anh bộc phát gừ lên một tiếng rồi xông tới bế thốc vợ lên giường. Búi tóc Miên xổ ra, tung một suối đêm, vướng vào tay ghế. Chị kêu:
– Ái ái…

– Tôi yêu em… Tôi yêu Miên… tôi yêu Miên…

– Tôi yêu… tôi yêu em… tôi yêu…
Miên lặng lẽ kéo mái tóc lên, cuộn lại sau gáy để tránh anh co kéo. Mái tóc quá dày nên xòa khỏi lòng tay chị và chị buộc phải giữ chặt lấy nó. Ánh đèn hắt lên gương mặt trắng hồng của chị, gương mặt mà mỗi đường nét đều khiến anh điên đảo. Sao Miên cứ lặng im hoài như vậy… mười bốn năm trước chị đâu có câm nín như khúc gỗ… chị cười, hoặc chị giơ ngón tay chọc khẽ vào má anh, điệu bộ vừa rụt rè vừa nghịch ngợm.
– Tôi yêu Miên… Miên biết không… lúc nào tôi cũng nhớ Miên, dù là…
Chút nữa anh đã buột miệng nói ra: Dù là lúc nằm trên bụng người đàn bà khác. Nhưng anh đã kịp ghìm giữ. Và rồi sợ chị đoán ra sự thất thố của mình anh cúi xuống cởi những chiếc khuy trên tấm áo màu xanh dương của chị.
Miên không để tâm tới điều gì. Chị nằm như pho tượng, hoặc bằng thạch cao hoặc bằng cao-su, kiều diễm như tạc bởi bàn tay nghệ nhân tài tình bậc nhất, lạnh lùng như khí núi mùa đông. Cặp mắt chị không nhắm nghiền cũng không mở rộng. Chúng hé mở vừa đủ cho chị đăm đăm nhìn vào một điểm nào đó trên mái nhà. Anh cúi xuống hôn bụng vợ quanh cái rốn nhỏ mà anh nhớ có mụn ruồi đỏ bằng hạt vừng ở chếch bên trái trong lúc tiếng thét điên cuồng lại vang lên:
Tôi yêu em và em phải yêu tôi… chúng ta sẽ như ngày xưa. Như ngày xưa làm tình thâu đêm suốt sáng, như ngày xưa em ôm chặt cổ tôi mà ngủ, như ngày xưa em sẽ phải mỉm cười với tôi sau mỗi lượt. Như ngày xưa xác lũ thiêu thân sẽ rải trắng quanh hộp đèn cho tới rạng sáng, khi chúng ta tàn cuộc… như ngày xưa…
Tiếng thét cuối cùng dội vút lên, thúc vào tim anh và lóe lên ánh chớp. Dưới ánh chớp lóa ấy, anh nhìn thấy những con đường vùn vụt chạy, cây số này tiếp cây số khác, dải đồi nọ tiếp dải đồi kia, cánh rừng sau lưng cận kề cánh rừng trước mặt, thảy thảy những vùng anh đã đi qua, thảy thảy những đêm dài mong nhớ, quằn quại trên võng vì cơn đói dục tình, quằn quại trong hang sâu vì sốt rét, người lả đi như tàu lá úa mà nhìn mấy cô giao liên đi qua con giống vẫn dựng ngược lên như mãnh hổ chực vồ mồi… Và sau tất thảy những đói khát, nhọc nhằn ấy vẫn chỉ nhớ duy nhất người anh yêu, gương mặt ấy, làn da ấy… Và giờ đây, hạnh phúc đã nằm giữa lòng bàn tay:
… Chúng ta sẽ yêu nhau cho lấp đầy những năm dài xa vắng. Chúng ta sẽ yêu nhau như ngày xưa, tôi mười bảy và em mười bảy. Sau mỗi cuộc ái ân tôi chỉ ngủ nửa giờ rồi lại dựng em thức dậy vào cuộc mới, nguồn suối sinh lực dâng lên không vơi cạn, ánh mắt ngái ngủ của em càng khiến em xinh đẹp hơn lên…
Chiếc quần lụa của Miên mỏng tang, mặt lụa mát lạnh, Bôn vo tròn chiếc quần lại vừa trong chét tay, và bằng cử chỉ ấy anh có cảm giác thâu tóm được người đàn bà anh yêu một cách dễ dàng. Sau khi đã bóp chặt chiếc quần đó vài ba lần một cách khoan khoái anh ném nó sang một bên và đặt tay lên chiếc quần lót trắng:
… Trắng như bông và mềm hơn cả lông mèo. Sao mọi thứ ở nơi Miên đều đẹp đến thế?…
Có tiếng rên rỉ thầm thì kèm theo tiếng thở dài đâu đó… Trái tim đau của anh mơ hồ e ngại cái nhan sắc lộng lẫy của Miên sẽ là vực sâu vô đáy và anh sa chân xuống đó không có đường lên:… Ta còn trẻ. Ta còn trẻ và ta còn dư thừa sức mạnh…
Một giọng nói khác cất lên át tiếng thở dài lo âu của con tim, Bôn tự nhủ:… Ta sẽ yêu Miên và sẽ sinh con. Ta sẽ có cả đàn cả đống con như câu chuyện về vị tướng già tiểu đội trưởng đã kể… Tình yêu sẽ hồi sinh và sẽ lớn dần theo năm tháng, trong sự gắn bó với những đứa con… Nhất định ta phải có con đàn con đống… Cơn thúc hối làm Bôn mờ mắt. Anh chỉ còn thấy tấm thân trắng nhễ nhại của Miên, một động tác cánh tay chị vừa phác… Rồi anh chìm sâu vào chị.
Những con sóng khoái lạc nối nhau dồn lên bờ cát. Anh như muốn tan biến dưới ngọn triều. Biết ái ân sau mười bốn năm xa cách vừa như cuộn trở lại vừa như tới lần đầu. Hăm hở, ngỡ ngàng, mê man, cuồng dại… Một đại dương dào dạt cuộn lên, những con sóng phôi sinh không ngơi nghỉ, không mệt mỏi sẽ xô thuyền đắm say ra tít khơi xa, nơi muôn trùng sóng…
…Ta yêu Miên, yêu Miên… Người đàn bà ta yêu đang cùng ta, da thịt trong da thịt… Chúng ta sẽ ái ân như ngày xưa ân ái… Trong khoảng ngắt giữa hai hơi thở, lời rên rỉ buột khỏi môi anh. Anh nhắm mắt lại để nhìn cho thấu đại dương say đắm trong mình, thấy mênh mông chân trời khoáng đãng thấy thuyền anh nô giỡn trên những con sóng dục tình, thấy lại diện mạo tuổi trẻ của anh…
Nhưng bỗng nhiên một luồng khí bị dồn nén chạy dọc sống lưng, xuyên suốt thân xác anh như mũi tên, khoái lạc và mộng mơ cùng lúc vọt ra rồi tắt ngấm. Con thuyền đắm say rơi từ đỉnh sóng xuống bờ cát, nằm vật vờ như mảnh ván mục. Biển yêu đương rút cạn, chỉ còn trơ đáy bùn lồi lõm, ngập ngụa xác loài thủy quái và rải rác những tàu đắm cùng rong rêu…
Anh dốc một cơn thở dài không thể ghìm nén:
… Sao lại thế nhỉ?… Có lẽ vì ta hồi hộp quá… Hoặc có lẽ vì ta đã chờ đợi quá nhiều ngày…
Rồi bỗng dưng bộ phận truyền giống của anh đi vắng, nó chẳng còn là của anh, mà như một thứ đồ vật ngoài thân thể ngoài ý muốn và sự điều khiển của anh. Nỗi sợ hãi cùng hổ thẹn cùng lúc khiến sống lưng anh lạnh toát trong khi hai thái dương và đầu anh nóng phừng phừng như lửa đốt. Anh lặng lẽ tụt xuống dưới chân Miên, không dám nhìn vào mặt chị, cười gượng gạo:
– Có lẽ ta chưa quen, có lẽ vì… Tôi xa Miên lâu quá…
Miên không nói gì. Chị chẳng nhìn anh. Chị dửng dưng như ở ngoài mọi sự.
Anh vơ chiếc quần đùi mặc vội để che đi cái phần héo rũ trên cơ thể:
– Lát nữa chúng ta sẽ… Miên ngủ một giấc đi cho khỏe. Ðêm còn dài… Lát nữa chúng ta lại…
Chị vẫn không nói gì lẳng lặng mặc quần. Mái tóc đổ xuống che kín lưng khiến chị như nữ thần rừng.
– Miên.
Anh cất tiếng gọi rồi không biết nói gì thêm. Anh cũng biết anh chẳng nói được điều gì vào lúc này. Anh mặc áo rồi nằm xuống rụt rè đưa tay vuốt tóc chị.
… Tóc Miên đẹp quá. Người đàn bà tôi yêu có mái tóc đẹp nhất thế gian. Lát nữa, ta sẽ lật mái tóc ấy lên để hôn vào gáy em, trước khi ân ái. Và ta sẽ… Ý nghĩa chưa dứt, anh đã ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ của anh giống con tàu bị đánh đắm, từ từ chìm xuống đáy nước. Cho tới lúc gà gáy canh ba Bôn mới tỉnh dậy. Thoạt tiên anh lơ mơ tưởng mình ngủ võng nên đưa tay quơ gốc cây trên đầu. Tay anh đụng vào ngăn hộc đồ vặt và anh nhớ lại tất cả. Ngọn đèn dầu vẫn cháy trong hộp với chiếc chao làm bằng tờ báo quấn hình loa kèn. Tấm chăn ở cuối giường in những bông thược dược. Anh nhớ những kỳ vọng khi mua nó bằng số tiền già lính rồi mang về, giặt sạch phơi trên cành ổi”… Những bông thược dược sẽ vãn hồi tuổi trẻ. Hơi ấm sẽ mang trả tình yêu, và mùa đông trong tưởng tượng nồng nàn hơi lửa ân ái…”
Tiếng gà gáy lan khắp các xóm, đồng vọng. Mùa đông chưa tới. Giờ vẫn đang hè và cuộc làm tình thất bại. Anh khép cặp đùi, len lén lùa bàn tay xuống dưới thám thính. Cửa hé mở, Miên đã ra sân và chắc chị không quay lại tức thì, nhưng anh vẫn sợ. Nỗi sợ không biết từ đâu tới, cũng không tường diện mạo. Nhưng anh vẫn sợ. Và anh len lén luồn tay xuống dưới háng như một thằng ăn cắp. Chẳng còn gì nữa để hồ nghi. Nó đã rũ xuống như tàu cải héo, một nhúm da vặt vẹo giữa hai bẹn. Anh biết ngay bây giờ, giá như Miên thay đổi thái độ, bỗng nhiên vuốt ve hôn hít anh bỗng nhiên tự lột bỏ quần áo và chủ động bế thốc anh lên bụng chị… Giá như thế, anh cũng không thể nào đánh thức được cái nhúm da chẳng gân cốt kia.
… Sao lại thế nhỉ?… Khốn nạn thật… Ta chẳng ngờ đến nông nỗi này… Anh muốn khóc nhưng cố nghiến hai hàm răng. Khóc thì hèn quá. Anh đâu phải đồ hèn?… Trước khi bị lạc nhiều trận đánh anh được khen ngợi hoặc nêu tên làm gương. Con đường binh nghiệp nếu chẳng gặp rủi ro hẳn sẽ đem cho anh vinh hạnh. Nhưng đây không phải
trận mạc. Ðây là cái giường đôi:
… Ta chẳng còn mười bảy tuổi. Không như xưa, chẳng thể như xưa… Lời thú nhận câm nín ấy nảy ra từng mũi kim vô hình, mũi nọ nối tiếp mũi kia lần lượt cắm vào gan ruột anh. Bôn ngồi dậy, nhìn hình vẽ trên tấm chiếu trân trân. Anh không hiểu ý nghĩa cái vòng tròn ghép bằng những nét chữ Tàu mô phỏng. Nó tượng trưng cho cái gì trong kiếp nhân sinh mà họ in lên mặt chiếu thế kia?… Anh không hiểu. Ðó là mê cung, và càng nhìn anh càng thấy đầu óc u mê, tâm hồn tan nát. Vào phút nỗi thất vọng sắp sửa dìm anh xuống vũng bùn oan nghiệt một cái tên bỗng bật lên:
– Cụ Phiều…
Lập tức, anh nhớ lại câu chuyện về ông lão bảy mươi sinh quý tử phương thuốc tinh hoàn dê chưng thuốc Bắc và rượu huyết dê. Mê cung tối tăm kia chợt lóe sáng:
… Ta sẽ đến cụ Phiều… Ta sẽ học hỏi những kiến thức trong chuyện dưỡng sinh và chuyện gối chăn… Một cõi khác, một mảnh đất khác phải cày xới…
Bôn sờ nắn lại lần nữa cặp bìu thõng thẹo rồi rút tay ra và đứng lên. Máu anh dần dần ấm lại. Anh đẩy cánh cửa, bước ra ngoài. Ðêm mát lạnh. Mấy cành củi nhỏ đang cháy cạnh bờ giếng rọi sáng khoảng sân, mái nhà lẫn đám cành ổi. Mùi thạch trinh hương tỏa đầy không gian. Bôn dừng lại giữa sân, chết lặng: Miên đun nước tẩy trần để tắm sau lần chung đụng với anh. Từ nhỏ, Bôn cũng đã dăm lượt theo bạn lên núi cắt thạch trinh hương đem bán cho nhà chùa dưới huyện lỵ. Ðó là thứ nước để rửa trôi những dơ bẩn trong kiếp người trần tục, trước khi họ muốn bước vào cửa tam quan:
… Cô ta đã dành cái nghi thức này để đối đãi với riêng ta. Với người đàn ông kia mọi sự sẽ khác… Với người kia chắc là…
Hình ảnh chiếc quần đùi thun sọc đỏ treo trong phòng tắm của Miên lại hiện lên rõ mồn một. Rõ mồn một hơn nữa, sắc xói hơn nữa là những gì anh tưởng tượng phía sau mảnh quần lót ấy, và anh bỗng muốn giết Miên, muốn giết người đàn bà đang tắm sau tấm liếp kia, nơi ánh lửa rọi vào:
… Một lưỡi lê xọc từ phía trước ra sau lưng, trên vú trái nửa đốt tay. Hoặc một lưỡi dao rừng phang từ sau gáy…
Anh như nhìn thấy máu chị phun từng vòi dài đỏ thắm, và cảnh chém giết ghê rợn đó khiến những hơi thở tức tối của anh như hổ đói vừa phút trước nhe nanh múa vuốt, phút này đã mỏi mệt quy hàng. Và một ý nghĩa khác từ từ chảy tới như nước trong con lạch cạn:
… Cô ấy có lý để làm thế… Ta chẳng làm ăn được gì. Chính ta là kẻ vô tích sự khiến người đàn bà chẳng nhận được mảy may hạnh phúc. Lỗi tại ta. Cần phải có những phương thuốc phục hồi sinh lực và tuổi trẻ. Phải nhẫn nhục, ấy là con đường duy nhất đưa hạnh phúc trở về…
Anh không dám đi mạnh chân e rằng Miên biết anh đã thức. Rón rén như một tên ăn trộm, anh vòng ra đầu hè đi tiểu rồi lại rón rén quay vào buồng.


– Chờ tôi ra mở cổng.

Ðặt chiếc giũa vào hộp dụng cụ, Xá rút khăn lau ngực lau lưng rồi mới ra mở cổng cho Bôn:
– Cô Soan này lạ thật… Ðã bảo sáng nay người ta ở nhà, đừng khóa cổng, vậy mà nhót một cái đã bấm luôn ổ khóa vào… Rõ đúng là cái giống đàn bà đái không qua ngọn cỏ, nghĩ không dài hơn sợi tóc…
– Sinh ra cái khóa là để đi khóa về mở, anh nói gì lạ thế?
– Nhưng sáng nay đứng lên ngồi xuống cả thảy năm lần rồi, hết mẹ nó thời gian. Ðầu tiên thằng cu lớn quay về lấy cuốn vở bỏ quên. Lần thứ hai ông tướng lại quay về xin tiền góp cho nhà trường tổ chức đi tham quan thành phố. Lần thứ ba thứ tư hai ông hàng xóm sang xin đinh với xin vịt dầu thắp. Lần thứ năm là Bình kều…
– Bình kều hả?… Ðã mấy lần tôi định sang cậu ta chơi mà chưa đi nổi… Bình khỏe không?
– Vẫn nhì nhằng.
– Nghe đâu cậu ta làm ăn khấm khá lắm…
– Cũng khá hơn tôi đôi chút. Nhưng từ Tết đến giờ toàn gặp rủi ro, tích được đồng nào cũng tẩu tán hết rồi. Trước hết ông bố vợ bỗng dưng lăn đùng ra chết. Cô Lãm là con một, Bình lại ở rể nên phải cõng toàn bộ chi phí đám tang. Họ nhà ấy to nhất làng, nên cậu ta phải làm trên một trăm hai mươi mâm mới đủ. Rồi bây giờ cô vợ lại sưng lách. Vừa sưng lách vừa mang thai tháng thứ năm. Bình lo méo mặt. Sáng nay nó mò đến đây, tôi cạn tiền phải bảo cô Soan cho nó mượn cái nhẫn cưới đem bán đưa cô Lãm xuống viện thành phố…
Bôn tái tê. Con tàu hy vọng của anh chìm xuống. Ðêm qua anh dự tính vay một mớ tiền của Bình. Tuy lâu ngày không gặp nhau nhưng Bôn biết tình bạn của họ không lay chuyển. Hai người cùng học một lớp suốt sáu năm trung học, cùng là vần B, họ được xếp chung một bàn và hầu như ở bên nhau trong mọi công việc của nhà trường. Nếu đi cắm trại, họ cùng ở ban tổ chức. Có sinh hoạt ngoại khóa, hai người cùng ở tổ Vật Lý và tổ hướng dẫn sinh trong phòng thí nghiệm. Những đêm liên hoan văn nghệ, cả hai cùng ở nhóm ngâm thơ, Bình có giọng ngâm ngọt ngào, còn anh đệm đàn bầu hoặc thổi sáo theo… Vào cái thời mộng mơ ấy, cả hai đều quyết chí thi cho được tấm bằng đại học và làm cuộc đổi đời dời chốn sơn dã về thành phố. Với họ, điều ấy cũng không quá xa vời, hai người cùng là học sinh loại giỏi. Bình chỉ kém riêng môn Văn, thường nhờ anh chữa bài giúp. Biết bao kỷ niệm se sắt đã gắn bó tuổi thiếu niên của họ. Bình thường chia cho anh nắm xôi buổi sáng, hoặc những đùm khoai dẻo mà chị ruột gói ghém cho. Bôn không quên vị khoai ngọt bùi ấy, vào những năm niên thiếu khốn khó của anh, không có Bình chưa chắc anh đã theo nổi ngần ấy năm ăn học. Tiền của anh
kiếm được chỉ đủ mua giấy bút và những món chi dùng tối thiểu.
Anh không đủ gạo nấu ăn sáng, cũng không đủ sức mua cá mắm hoặc các thức ăn khác cho bữa cơm học trò nghèo… Tất thảy những thứ đó do Bình bù đắp. Cái gã cao kều ấy là kẻ hảo tâm bẩm sinh, cậu ta giúp tất cả những ai có thể giúp được với vẻ an nhiên không tính toán dường như đó là phận sự của kẻ làm người. Ðám học trò giàu sang trong huyện do đó phải nể vì. Hai kẻ mơ mộng ấy đã bỏ giấc mơ dở dang cùng một ngày, cùng một ngày tòng quân nhưng lại phiên chế về hai đơn vị. Bình ở cùng đơn vị với Xá. Dạo anh về, Bình nhắn Xá nói với anh rằng cậu ta đang bấn bíu, ngày nào đó rảnh rỗi sẽ sang thăm và sắm bữa tiệc mừng… Anh những tưởng Bình mắc công việc dở dang, ai dè cậu ta đang lâm vào cơn khốn khó:
… Ta vẫn ngỡ có thể níu lấy áo trang nghĩa hiệp thuở xưa. Ai ngờ cậu ta cũng sảy chân vào cảnh đắm tầu… Ðây mới chính là ngõ cụt…
Bôn thấy cơn gió lạnh chạy dọc sống lưng anh, dù trời đang nóng.
Trên tấm ngực trần của Xá, những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đỗ đen đầy quanh hai núm vú. Có một cái tên nảy lên: Già Ðọt… Nhưng anh nhìn thấy trước cái quả hy vọng cuối cùng kia cũng thối.
Người đàn bà xuân sắc từ hơn năm mươi năm trước chẳng thể nào có một kho vàng để cất giấu đến giờ. Bà cưu mang mẹ con Tá, những người có liên quan huyết mạch vì đám trẻ ấy chỉ cần miếng ăn cho qua ngày, hạt cơm cõng củ khoai, gắp rau kèm lát sắn. Vậy mà anh đã mơ tưởng gây dựng cơ đồ nhờ những đồng tiền của bà lão gần đất
xa trời…
… Ta là kẻ mơ mộng hão huyền vô tích sự…
Xá chột ngẩng mặt lên, con mắt lành xoi mói:
– Ngồi xuống đi… Làm gì mà đứng đần thối ra như vậy?…
Bôn giật thót, nhưng tâm trí vẫn còn tê dại. Anh vơ chiếc ghế đẩu ở góc sân ngồi. Nhà Xá có đến hàng chục chiếc ghế đẩu các cỡ và các kiểu. Ðúng như người ta bảo: Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ. Kẻ làm nghề sơn tràng và nghề mộc chỉ lãi ở những mảnh gỗ thừa thẹo.
– Ngồi đấy…
Xá nói tiếp, giọng to như quát vào tai anh:
– Ngồi đấy… Tôi phải rửa nốt con cưa mẹ…
Bôn chưa kịp nói gì Xá bỗng dừng tay nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Lần này cái nhìn đó kéo dài, khoan xoáy vào một điểm nào đó trên mặt Bôn khiến anh bỗng dưng nóng bừng hai tai. Con mắt lành của Xá hấp háy, hấp háy rồi đột nhiên Xá hạ giọng thì thào:
– Sao?.. Ấy rồi phải không?
Bôn hiểu ý Xá, nhưng chưa biết trả lời ra sao. Hai thái dương anh cũng nóng rực lên.
Xá lại hỏi tiếp:
– Có làm ăn được không?
– Cũng tàm tạm.
– Tàm tạm là thế nào. Tôi với cậu là chỗ mặn tình, tôi mới hỏi.
– Nó có lên được không?
– Ðược vừa phải.
– Kim trỏ số 3 à?…
– Không hẳn thế.
– Thì sao?
– Tôi cũng chẳng hiểu.
Xá trợn mắt, không còn thì thầm mà quát toang toác lên:
– Vớ vẩn… Ðừng ú ớ con mẹ… Trông điệu bộ của cậu tôi biết là hỏng rồi.
Ðôi mày anh ta cau lại. Rồi cũng chẳng rửa nốt con cưa mẹ, Xá quẳng chiếc dũa vào hòm dụng cụ, đứng lên:
– Này, chuyện nghiêm chỉnh đấy, không đùa được đâu… Tôi nói vậy cậu có hiểu không đấy?
Nói xong, không chờ Bôn trả lời, Xá đi tới góc nhà, móc túi áo lấy hộp thuốc lá sợi đem vấn. Anh tìm một chiếc ghế khác, ngồi đối diện với Bôn:
– Cậu có hút không?
– Có.
Xá đưa hộp thuốc cho Bôn rồi cúi xuống, lăn điếu thuốc của mình:
– Tôi đã nói với cậu rồi… Cái nghề đàn ông đàn bà, phải mê nhau mới ăn ở được với nhau.
– Tôi yêu Miên… Tôi không yêu ai ngoài người đàn bà ấy.
– Phải. Nhưng còn cô Miên… Vấn đề là ở chỗ ấy. Có tình yêu hai phía mới thành vợ thành chồng. Tôi nói thế này cậu đừng giận. Ngủ với con đàn bà chẳng yêu mình thì thà cứ tìm lỗ né cáy còn hơn.
– Chúng tôi đã từng là vợ chồng. Mối tình đầu của tôi cũng là tình đầu của Miên… Cần phải có thời gian để tìm lại…
Xá rít mấy hơi thuốc liền, rồi hỏi:
– Cậu đã gặp tay Hoan chưa?
– Chưa. Anh ta xuống thành phố. Chủ Nhật mới lên nhà bà Huyên thăm con chốc lát rồi lại đi…
– Cậu không đến nhà bà dì Miên hay sao?
– Trừ phi Miên có việc bảo tôi phải đến.
– Thế thì cũng phải… Bà ta chẳng ưa cậu… Mà cậu cũng chẳng mến chuộng gì bà lão đỏng đảnh ấy… Nhưng theo tôi, ít nhất cũng một lần cậu nên gặp tay Hoan.
– Tại sao tôi phải gặp anh ta? Chẳng để làm gì hết… Anh ta có phần anh ta và tôi có phần tôi.
Trán Xá nhăn lại. Anh ta ném đầu mẩu thuốc ra vườn rồi lại vớ hộp thuốc cuốn luôn điếu khác.
– Này Bôn, lời nói thẳng vốn khó nghe nhưng hôm nay cậu hãy gắng mà nghe cho đến đầu đến đũa. Tôi với cậu chẳng phải anh em họ mạc nhưng chúng ta có cái tình gắn bó còn mặn mà hơn thế. Bởi vậy tôi thấy có trách nhiệm phải nói cho cậu biết rõ mọi ngả nông sâu của cuộc đời. Ngày xưa đi học, cậu vẫn thường giải toán cho tôi, sao
bây giờ cậu không biết cách giải bài toán chính của số phận?
Hiện tình, cậu đang cưỡi trên lưng cọp. Trèo lên lưng cọp không hẳn dễ, nhưng xuống đất còn khó gấp vạn lần… Thông minh như cậu hẳn biết vì lẽ gì cô Miên từ bỏ tòa ngang dãy dọc của cô ấy để về rúc trong gian buồng lợp gianh của cậu. Người đàn bà trọng danh dự lắm mới làm nổi cái sự ép mình như vậy. Gặp kẻ khác tôi đoan chắc cậu chỉ có nước xách bị rời khỏi cửa nhà cô ta… Nhưng mọi sự trên đời đều có giới hạn. Cô ta không thể vì nghĩa cử mà sống với cậu cho đến lúc tóc bạc răng long. Tôi nói rồi, chuyện gối chăn phải yêu mê nhau mới nên hồn… Muốn đánh trận phải nhìn rõ mặt đối thủ… Tại sao cậu không thử tìm cách gặp Hoan, dù chỉ một lần?
Mặt Bôn nóng bừng bừng, và anh nghe trong tai mình có tiếng ù ù như ai xay lúa:
– Tôi chẳng hoài hơi làm cái điều ngu ngốc ấy… Tôi không định đấu gươm với anh ta và bây giờ không còn là thế kỉ mười lăm, mười sáu…
– Vậy, cậu cứ nhắm mắt nhảy ào xuống sông, không lường nông sâu, chẳng dò nước ấm hay lạnh?
Bôn không trả lời.
Xá cũng không gặng thêm nữa. Hai người ngồi phun khói trong im lặng. Những mẩu đầu thuốc tiếp nối nhau quẳng ra vườn. Trời mỗi lúc càng thêm nóng và thi thoảng Xá lại vớ tấm khăn bông lau bộ ngực vạm vỡ lẫn tấm lưng trần của anh ta. Bôn không nhìn nhưng anh biết anh thèm muốn những bắp thịt nổi vồng trên khuôn ngực gã sơn tràng, thèm muốn gương mặt cười cợt chung thân như mặt thằng hề nhưng lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của thiện tâm và hạnh phúc. Tiếng chim vườn chốc lát lại rót vào không gian, khiến vòm trời như cao hơn và màu lơ kia trong veo trong vắt. Bao nhiêu giây phút trôi qua, Bôn không nhớ. Nhưng sau đó rất lâu Xá cất tiếng thở dài và hỏi:
– Này Bôn, cậu biết tỉnh ta vừa thành lập nông trường chứ?
– Không, tôi không đọc báo.
– Nông trường đó ở cách đây ngót một trăm cây, tên gọi Bình Minh.
Nó được lập ra để hứng đám con gái phục vụ chiến tranh giờ đã quá lứa không còn tuổi lấy chồng, trở lại quê hương cũng bẽ bàng mà tìm công việc nơi thành phố càng khó khăn. Ở đó, họ trồng dứa và trồng tiêu như quê ta… Tay Liệu bạn hẩu của tôi chuyên ngành về làm trưởng phòng hành chính. Cậu có thể đến đó, sinh sống sẽ dễ dàng hơn tự kiếm vốn vỡ khu đồi xã chia cho cậu ở đây. Nông trường này vẫn còn được nhà nước bao cấp và đám cán bộ quản trị hưởng lương theo thang lương quy định… Ðất ấy chắc hợp với cảnh neo đơn của cậu. Ðiều chủ yếu là ở Bình Minh cậu có thể chọn trong số hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa một người vừa ý về làm vợ.
– Anh nói lạ lùng… Gia đình tôi ở đây… Quê hương tôi ở đây…
Xá cười khẩy, lắc đầu:
– Quê hương chỉ có ý nghĩa khi tìm được một mái ấm… Thế nên ở nơi nào ta tìm được một mái ấm, nơi ấy là quê hương… Còn gia đình cậu là bà Tá hay cô Miên?
Bôn không trả lời, Xá nói tiếp:
– Gia đình cậu nghĩa là cô Miên, tôi nói thế cậu không phản đối chứ? Hãy nghĩ cho cạn lẽ, đã chắc gì cô Miên yêu cậu, cảm thông với cậu hơn một cô thanh niên xung phong quá lứa lỡ thì đang ngong ngóng chờ một thằng đàn ông nào rờ mó tới? Chỉ những kẻ cùng cảnh ngộ mới có thể thương nhau đến đầu đến đũa. Chúng ta đã từng là lính. Tất thảy những thằng lính ra khỏi cuộc chiến tranh đều phải nộp thuế, đều phải để lại vật gì đó làm lễ tế thần… Như tôi chẳng hạn, mảnh bom nhỏ bằng mảy trấu cũng móc ra một con mắt. Như thế, tôi đã nộp xong xuất thuế của mình… Còn cậu…
– Tôi cũng ngần ấy năm lưu lạc, anh xem…
Xá lại lắc đầu:
– Chưa đủ đâu, người anh hùng ạ… Tôi thấy như là chưa đủ xuất…
– Dạo này anh ăn nói lạ lùng…
– Ờ… Cũng có thể tôi trở thành thằng gàn trước tuổi…
Lúc đó, Soan từ ngoài cổng đon đả bước vào. Chị cắp một thúng đầy những na lẫn ổi. Người đàn bà trẻ tuy không đẹp nhưng tươi tắn, mặn mà. Cũng như chồng gương mặt chị lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của sự mãn nguyện lẫn thiện tâm:
– A, chào chú rể mới… Sao, anh đón nàng về dinh có vui không?
Bôn chưa kịp đáp Xá đã nạt nộ:
– Cái cô này đa sự… Ðã bảo đừng khóa cổng mà cứ quen tay. Làm người ta đứng lên ngồi xuống gãy cả gối đây này…
– Ðấy, anh Bôn xem… Ra trận là lính mà về với vợ con là tướng, hách chẳng ai bằng.
Nói xong chị cười. Chiếc răng khểnh làm nụ cười rạng rỡ hẳn lên. Chị ngước mắt nhìn chồng vừa thần phục vừa riễu cợt:
– Hung hăng thế mà hồi lên cái nhọt ở mông, em nặn cho kêu rống lên như con bò bị chọc tiết, quá đứa trẻ lên ba…
Xá bảo:
– Da thịt người chứ có phải sẹo gỗ đâu mà không đau?… Thử rơi vào cô xem… Cô không khóc hu hu tôi cứ bé bằng con kiến.
Soan chọn mấy quả na chín cây và vài quả ổi bỏ vào đĩa:
– Thôi thôi, em chẳng hơi sức đâu mà đấu khẩu với anh. Từ thuở lọt lòng đến giờ anh có chịu thua ai nhời nào đâu? Chẳng cứ bạn hữu, xóm giềng mà ngay cả cô dì chú bác, những bậc bề trên trong họ… Nào, anh Bôn ăn đi. Xem ổi vườn nhà em có ngọt bằng ổi bên vườn nhà anh không?…
Bôn cắn trái ổi, lưỡi ngọt dạ chẳng ngọt. Ổi nhà anh còi cọc không được trái chín nào. Quả mới ương ương lũ con Tá đã hái ăn sạch. Những đứa trẻ thả rông như loài thú hoang, không tới lớp mẫu giáo, cũng chẳng học vỡ lòng tha lôi nhau hết vườn nọ tới đồi kia, lăn lê từ lối mòn này sang ngả đường khác… Bao năm khu vườn bỏ mặc cho kiến bọ, các loài sâu và các loài chim. Từ khi anh về, anh đã trồng ở đó một luống cây hương nhu và vài khóm hoa riềng dại. Vì chúng là thứ cây không ăn được nên lũ con Tá để yên. Nhưng đất cằn, ngay những hương nhu cũng không lớn được, mấy khóm riềng dại không trổ hoa còn người đàn bà anh yêu lạnh lùng như khí núi… Phải, Xá nói đúng, cái giống đàn ông đàn bà phải mê nhau mới ăn ở được. Cứ nhìn cảnh nhà Xá đủ biết, vợ anh ta mê anh ta đến thế nào. Mặc dù đã được nghe kể nhiều lần về cuộc tình
giữa Xá chột với cô Soan, Bôn vẫn không hình dung nổi người đàn bà hiền lành đon đả vừa lựa những trái ổi chín mời anh lại có thể táo tợn đến nhường ấy…
Dạo Xá phục viên, chẳng có trong tay thứ gì ngoài vài bộ quân phục và món tiền còm đủ làm vài mâm cơm rau dưa mừng ngày đoàn tụ. Cha mẹ Xá đã chết từ lâu những năm anh còn ở chiến trường ngôi nhà hương hỏa ông anh chiếm, thêm bà chị dâu mặt lúc nào cũng nặng như chì nên Xá ở nhờ nhà ông chú ruột, và bữa cơm đoàn tụ được làm tại nơi đó. Vài ngày sau, gã trai đã vác đồ nghề sơn tràng lên rú, bắt đầu lại cuộc sống sơn dân. Bất đồ, Xá gặp Soan hái củi. Họ yêu nhau tức khắc, theo đúng kiểu người đời vẫn gọi: Ái tình sét đánh. Thời con gái, Soan cũng không đẹp nhưng duyên
dáng, mặn mà, khối người để ý. Trong số đó, có gã anh trai họ đằng mẹ của cô. Anh ta không thật giàu nhưng cũng có ngôi nhà ba tầng dưới thành phố, dẫu một tầng chỉ rộng mười sáu thước vuông nhưng cũng đàng hoàng mở được cửa hàng đại lý ngũ cốc và nhờ đó lúc nào cũng rủng rỉnh tiền. Anh ta hơn Xá hai tuổi nhưng khôn ngoan từng trải, lại có cả một chiến thuật mua chuộc đám họ hàng, xóm giềng nên cầm chắc phần thắng trong tay. Cưỡi chiếc xe mới dán nguyên tem về làng, nhưng bất kỳ gặp ông già bà cả nào anh ta cũng xuống xe, cúi chào lễ độ. Sau đó anh ta tới hỏi thăm từng nhà, bắt đầu từ ông trưởng tộc xuống đến các ông trưởng chi, nội lẫn ngoại, không quên đem theo quà bánh để đặt lên bàn thờ, thắp nén hương khấn vái tổ tiên. Ông trưởng tộc được một gói trà ướp sen với hộp bánh nướng hảo hạng, ông trưởng chi được gói trà ướp nhài với phong bánh quy, rồi các bà láng giềng được khăn len quàng cổ, trẻ con được kẹo hồng và kẹo cam… Thứ nào cũng gói bọc tinh tươm bằng giấy bóng màu rực rỡ… Tiếng khen râm ran không ngớt từ trong nhà ra ngoài ngõ:
– Cô Soan vớ được tấm chồng, đáng công trang điểm má hồng răng đen… Sau này tha hồ nhờ cậy…
– Trai thời nay chẳng thấy ai thông thái như anh Khiền. Còn trẻ thế mà thuộc làu làu lịch sử… Bữa trước lại chơi, anh ta đọc vanh vách cụ tổ nhà tôi đỗ bảng nhỡn năm nào, tháng nào, cùng thời với ai… Mình bạc trắng đầu cũng không biết rõ tổ tiên mình
đến thế…
– Anh ta có chữ, lại sẵn tiền, hào hiệp với xóm giềng làng nước, con cái Soan lấy được tấm chồng như thế ngang lên cõi tiên…
Bố mẹ cô Soan, khỏi phải nói, sướng lăn lóc. Họ hớn hở chờ ngày “đám cưới to nhất làng nhì xứ” được thực hiện:
– Con xem xem, trong làng ngoài nước không ai không ca ngợi anh Khiền… Người đức hạnh như thế, nhất nhất sau này sẽ thủy chung. Con lấy anh ta sẽ được đổi đời, sau này ăn trắng mặc trơn chẳng đầu tắt mặt tối như dân xóm Núi…
Soan lắc đầu nguây nguẩy:
– Con không lấy ai cả, con không lấy ai hết… Con ở nhà với bố mẹ…
Nhưng không ngày nào cô không gặp Xá. Hai người chết mê chết mệt với nhau. Bố Soan bắt được họ ngồi tự tình ven đồi liền tát cho cô hai cái nảy đom đóm mắt rồi dẫn về, trói ở cột chuồng trâu một đêm một ngày liền cho biết phép nhà… Ðám bạn Xá chạy tới, vừa an ủi vừa khuyên:
– Ðối phương mạnh quá Xá ơi, cậu lấm lưng mất. Tính trước đi là vừa…
– Nếu quả tình không cứu vãn được, hãy ra tay trước. Cậu phải tuyên bố bỏ cô ta để khỏi mang tiếng là kẻ bị đá đít… Khiền tuy giàu sang, lắm tiền của lại nguyên vẹn cả hai con mắt nhưng hắn sẽ bị đo ván một khi cậu tuyên bố bỏ cô Soan. Như thế, trước mắt thiên hạ, hắn là kẻ hứng của thừa…
Xá bối rối. Anh chưa biết tính cách nào. Anh yêu Soan, nhưng xem ra đó là mối tình vô vọng. Cuộc so đo không ngang sức. Anh, gã lính về vườn, không cắc bạc trong tay, cửa nhà không, nương vườn chưa có. Xã cũng đã chia cho anh khu đồi nhưng chưa có tiền mướn thợ vỡ đất trồng cọc và mua giống tiêu. Anh dự tính phải sau hai
mùa sơn tràng mới lo nổi số tiền ấy…
Vào lúc anh bấn loạn Soan chạy đến, mặt mày sưng đỏ muỗi cắn, nước mắt lấm lem. Cô bảo anh rằng cô phải rống lên đến nỗi bố mẹ xấu hổ với láng giềng đành cởi trói. Rồi cô giục:
– Anh phải cưới em ngay… Phải cưới ngay tắp lự.
Xá gặng hỏi:
– Vậy… ra Soan không yêu anh ta chút nào chứ?
– Không… không…
Soan gào thật to đến nỗi ông chú ở trong nhà phải ló đầu ra nhìn.
Lúc ấy, hai người ngồi nói chuyện bên rặng dâm bụt trước ngõ.
Soan gào lên rồi quắc mắt nhìn Xá:
– Em đối với anh mặn tình như thế mà anh dám hỏi câu ấy… Vậy anh coi em là kẻ ăn ở hai lòng?
Xá sợ, vội thanh minh:
– Không, tôi không dám… Chẳng qua là vì…
Anh không dám nói với Soan một cách thành thật những ý nghĩa của mình, càng không dám nói tới những lời khuyên của đám bạn. Soan bảo:
– Em không bao giờ yêu cái lão hói đầu ấy, không bao giờ em ngủ với lão hói đầu ấy, dù nó giàu vô thiên lủng.
Xá hỏi:
– Nhưng anh biết làm sao bây giờ? Anh yêu em nhưng anh không dám cãi lộn hoặc đánh nhau với bố em vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành những đứa con bất hiếu.
Soan đáp, không chút chần chừ:
– Chúng mình phải ngủ với nhau ngay, ngay tức khắc… Em mà chửa ra, bố mẹ mới hết ép gả cho lão Khiền. Thằng cha ấy đã chuẩn bị mười tám mâm ăn hỏi vào tháng sau…
Lúc đó, anh đang ở nhờ nhà ông chú ruột. Nhà rộng nhưng không có buồng riêng. Hai đứa con trai ông chú tuy trẻ đều đã cưới vợ, chiếm giữ hai căn buồng đầu hồi. Ông chú với anh ở ba gian nhà giữa. Gian chính đặt bàn thờ, ông và Xá mỗi người ngủ mỗi gian
bên. Ba gian đều rộng rênh nhưng nhìn thông thống sang nhau. Và họ chẳng thể làm ăn được trong cái không gian ấy:
– Khó quá…
Anh than thở:
– Anh định kiếm mớ tiền rồi mới dựng nhà… Ðất xã đã chia nhưng phải có tiền mua gỗ mua gạch mới có thể tính chuyện…
Soan giãy nảy:
– Chờ đến lúc ấy thì hỏng hết chuyện… Mình phải ngủ với nhau ngay đêm nay, đêm mai, đêm ngày kia… Em nhất định phải có thai mới nên được duyên kiếp…
Hai người nghĩ ngợi một giây rồi Soan quyết định:
– Anh vào lấy vải nhựa ra đây.
Xá vào nhà và sau đó quay ra với chiếc ca-pốt của lính Mỹ, chiến lợi phẩm anh thường dùng những lúc lên rừng. Họ cùng nhau qua thung lũng, qua mấy dải đồi trồng dứa lên tới những con dốc mọc đầy cây dâm dương hoắc. Ở đó, họ ngồi chờ mặt trời lặn, chờ
khoảnh khắc thiêng liêng để bóng tối bao phủ rừng núi đồi nương làng xóm, thả thứ sương mù đen như mực cho ánh mắt tò mò tọc mạch của thế gian không thể rọi tới…
– Thế nào, ăn được chứ hả?
Xá cất tiếng.
Bôn giật mình vội đáp:
– Ngọt… Ngọt thật.
Xá bảo:
– Vườn của cậu phải cải tạo. Phải cải tạo hoàn toàn. Tôi nói vậy nghĩa là cậu phải đốn hết cây, đào hết gốc, đem làm củi tất tật. Rồi xới xáo lại, ủ phân trộn nhuyễn với đất và trong một thời gian dài cho đất nghỉ ngơi, bổ dưỡng mới được tính đến chuyện trồng cây khác.
– Tôi hiểu.
Bôn đáp. Trong lúc tim anh rên rỉ:
… Gã đàn ông kia sung sướng thật… Gã tính mọi chuyện dễ ợt như vẽ lên lòng tay. Bởi gã có được một người đàn bà yêu gã đến thế, tận tình đến thế, hy sinh vì gã đến thế… Có được tình yêu, người đàn ông sẽ có cả thế gian…
Bôn biết rằng khởi đầu Xá cũng là kẻ trắng tay. Ngay đám cưới Soan anh ta cũng không làm nổi. Chính là Soan, người đàn bà táo tợn kia lo toan chuyện đó. Soan có thai, cô ra ngay trạm xá khám và tuyên bố với gia đình. Cô bảo bố mẹ rằng chính cô ta nhẹ dạ nên bây giờ họ phải đứng ra gánh vác chuyện cưới xin nếu không muốn mất mặt với láng giềng. Nếu ông bà đứng ra tác tạo cho đôi lứa, sẽ được thêm một đứa con. Xá là gã trai siêng năng tốt bụng, ăn ở hậu hĩ với anh cũng chẳng sợ thiệt thòi. Bằng không, cô vác bụng theo anh ta, ông bà sẽ mất đi chính đứa con ruột thịt, mất công mang nặng đẻ đau… Sau rốt, lời lẽ của đứa con gái táo tợn đã đánh ngã hai bậc phụ mẫu. Chính bố mẹ Soan đứng lên dựng rạp, lo hơn một trăm mâm cỗ cưới cho hai người. Soan đẻ con trai. Xá làm ăn khấm khá hẳn lên, số anh ta như diều gặp gió và rồi đúng như Soan dự đoán, anh ta trở thành đứa con rể hiếu thuận nhất làng…
– Thế nào, cậu vẫn giữ ý định làm nương tiêu chứ?
Xá lại hỏi.
– Phải, tôi muốn trồng tiêu, vì chẳng có nghề sơn tràng như anh.
Bôn trả lời.
– Không ít vốn đâu.
Xá bảo. Bôn im lặng. Anh lại thấy con tầu đang chìm xuống biển bùn và nỗi ê chề tràn ngập.
Xá gặng hỏi:
– Cậu nhất quyết ở lại Xóm Núi.
– Tôi ở lại.
Bôn đáp. Sau khi ngập ngừng vài giây, anh nói thêm:
– Tôi yêu Miên…
Anh biết rằng lẽ ra anh phải nói:
… Tôi yêu người đàn bà đó dẫu cô ta không còn yêu tôi nữa.
Nhưng tôi đã đặt hết cuộc đời tôi vào mối duyên này giống con bạc khát nước cuộc toàn bộ gia sản vào ván bài sau chót… Tôi không thể ra đi. Tôi không còn hơi sức để ra đi. Người đàn bà đó hút hồn tôi. Chẳng ai thay thế được Miên. Chẳng da thịt nào trắng như da thịt ấy, chẳng đôi mắt nào long lanh hơn đôi mắt ấy, chẳng mái tóc nào óng ả hơn mái tóc ấy… Cô ta đã từng là của tôi… Rồi một ngày tôi sẽ tìm lại được hạnh phúc, miễn là tôi kiên nhẫn…
Nhưng anh không đủ can đảm nói thật, dù là đối với Xá, người bạn tận tụy, kẻ bảo trợ tự nguyện cho anh. Xá nín thinh. Anh ta vớ một quả na chín, bửa đôi, ăn hết sạch, đoạn buông tiếng thở dài:
– Thôi được… Nếu cậu đã quyết… Nhưng muốn thế, trước hết cậu phải đi chữa bệnh. Mồm cậu thối bỏ mẹ, tôi ngồi xa thế này còn không chịu được huống chi đàn bà?…
Soan lườm chồng:
– Cái lão dở hơi này, ăn nói lỗ mãng thế hả?
Ðoạn chị quay sang nói với Bôn:
– Anh đừng chấp… Chồng em lắm lúc y hệt thằng khùng… Chẳng cứ với anh, ngay với bố mẹ em nhiều khi ăn nói cũng láo liên như thế…
Nói xong, chị liền vội vã đi vào bếp, bỏ lại thúng na lẫn ổi chọn dở dang. Chờ Soan vào hẳn trong bếp, Xá nói tiếp:
– Nếu cậu quyết sống lâu dài với cô Miên, phải chữa bằng được bệnh hôi mồm, còn những việc khác sẽ tính sau. Mai, tôi đưa cậu xuống viện thành phố. Dưới đó, tôi cũng có ông bác làm nghề bốc thuốc bắc. Ta sẽ đến cả hai nơi xem sao… Có bệnh phải vái tứ phương. Giờ cậu về xoay lấy ít tiền, tôi chỉ còn hai ngày nữa thôi. Sáng sớm ngày mốt, đám sơn tràng chúng tôi làm lễ và ngược rú.


Nhưng ở đây, trên bãi biển vắng tanh vắng ngắt này, trăng ngự trị với vẻ đẹp vẹn toàn, kiêu hãnh. Không vời gọi, không huyền bí như trăng miền sơn dã nhưng lộng lẫy hơn, uy nghi hơn, hùng mạnh hơn.

Biển bờ, sóng nước, những vàng lưới giăng mắc trên bãi cát, đám thuyền nằm chờ đợi… tất thảy đều tôn vinh quyền uy vô song của nó. Không gợn mây vương. Gió chạy ù ù qua rừng phi lao, reo trên sóng nước. Mùi biển đẫm không gian như từng thớ gỗ thuyền, từng hạt cát, từng bông cỏ mặt trời, từng tế bào trên da thịt con người đều thấm đầy vị muối cùng mùi sóng, thứ mùi vị tẩm liệm tâm hồn bất cứ kẻ nào sinh ra và lớn lên ven biển.
Hoan rít liên tục hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác. Những đọt lọc thuốc ném rải rác trên mô cát trước mặt anh dưới ánh trăng vẫn nhìn rõ:
… Một bao rưỡi, từ lúc ra đây mình đã hút hết bao rưỡi…
Anh thoáng nghĩ rồi tiếp tục châm nữa, hút mà không còn nhận ra mùi thơm, không còn ngửi thấy vị khói, rít liên hồi như thợ muối đẩy bàn trang trên mặt ruộng. Từ nơi anh ngồi tới mép sóng chừng dăm thước, nhìn rõ đường lươn dập dờn của làn nước, đám bọt mờ nơi đỉnh sóng lẫn những gợn cát khi chúng rút ra xa. Anh nghe rõ tiếng đổ ập của con sóng vào, nặng nề hối hả như nỗi cồn cào của kẻ đói yêu và lặng lờ khi sóng lui xa, bồng bềnh như tiếng thở dài vừa mãn nguyện vừa nuối tiếc. Biển tuổi thơ của anh giờ đổi khác: Nó là biển của kẻ đã từng trải và thôi không còn sung sướng… Ðã một tháng. Trăng đêm nay không tròn hẳn mà ngả sang hạ tuần, giống như đêm trăng Xóm Núi.
Từ đêm anh dắt Miên lên sân thượng tới nay đã tròn một tháng.
Thời gian chẳng tiếc thương ai. Ngày lại đêm, trăng tròn rồi khuyết, Hoan không hiểu anh đã sống vật vờ qua ba mươi ngày ấy ra sao? Một hình nộm hay một bóng ma câm lặng? Không, có lẽ anh vẫn giữ được dáng vẻ đường hoàng chững chạc bên ngoài. Giữ tư thế của một người đàn ông đứng đắn, chừng mực, con nhà có cốt cách. Những quy chế đạo đức nghiêm nhặt của ông giáo Huy vẫn kiểm soát từng hành vi, từng lời ăn tiếng nói của anh. Anh vẫn làm việc một cách bình tĩnh sáng suốt, tính toán rạch ròi đâu ra đấy, thiết kế lại cửa hàng, thuê người thi công, chọn nhân viên mới, thay đổi mặt hàng tìm mối manh để kiếm thêm những mặt hàng ưu thế rồi thuê người áp tải từ Sàigòn và Ðà Nẵng ra. Cửa hàng của anh giờ không còn bán tạp hóa mà chuyển sang các vật liệu nội thất, đồ điện đồ gỗ và một ít đồ trang trí loại đắt tiền. Công việc tiến triển như có phép tiên. Mới một tháng tròn mà sự thay đổi khiến cả thành phố trầm trồ.
Chị Châu bảo:
– Hóa ra chính cậu mới có tay buôn. Cậu làm một tháng bằng chị cầy cục mấy năm ròng. Lẽ ra cậu phải về thành phố từ ngày hòa bình mới phải.
Hoan không đáp.
Chị anh chợt nhận ra sự im lặng của đứa em trai, chị lúng túng nói:
– Ấy, là chị nói thế… Chị xin lỗi…
Và chị lẩn ngay đi nơi khác.
Giữa những quãng thời gian tính toán hoặc kiểm soát hàng hóa, Hoan thường ngồi nhìn đường phố. Dòng đời diễu qua như con nước chảy. Trước đây vài năm có ai ngờ phố xá sầm uất đến thế này.
Cũng chẳng ai tưởng tượng nổi ngôi nhà của ông bà nội anh bị trưng thu được trả lại đột ngột không kèn không trống. Lúc đó, Hoan còn ở Xóm Núi. Chị Châu, chị Nền cùng gia đình về thành phố.
Sau khi mẹ anh chết, chị Châu thế chân bà bán hàng trong cửa hành bách hóa tổng hợp thành phố, vẫn dưới quyền lãnh đạo của bà Kim Lan. Chị anh đã phải chịu mọi sự trả thù hèn hạ của người đàn bà đỏng đảnh lăng loàn sau khi cuộc hôn nhân giữa anh và cô Kim Liên tan vỡ. Bất ngờ một buổi, có chiếc xe hơi xịch đỗ trước cửa. Trên xe bước xuống hai người đàn ông. Một trong hai người ngó nghiêng cửa hàng bách hóa và hỏi:
– Ðây có phải nhà anh giáo Huy không nhỉ?
Chị Châu bước ra đáp:
– Dạ thưa ông ba tôi đã mất. Nhà này trước đây của ông bà tôi.
Người khách đứng ngẩn ra nhìn chị hồi lâu rồi nói như quát:
– Con cái Châu hả? Mày lại dám xưng tôi với chú mày a? Mày biết tao là ai không?
Chị Châu hoảng hồn không biết ăn nói ra sao, ông khách lạ lùng kia đã kéo người bạn vào nhà:
– Vào trong này, tôi phải thắp hương cho ông anh tôi đã.
Ðoạn ông quay sang bảo chị Châu:
– Tao là chú Huyến hiểu chưa? Tao bỏ quê đi mấy chục năm trời.
Ba mày có nhắc đến tao không đấy?
– Dạ, ba mẹ cháu có nhắc tên chú luôn.
– Phải, ngày xưa ba đứa chúng tao vẫn chơi tam cúc ăn tiền… Mẹ mày ra sao?
– Ba cháu mất năm trước mẹ cháu mất năm sau, vừa hết giỗ đầu ông cụ…
– Cũng phải vậy thôi… Cái đời này yêu nhau lắm, người dương kẻ âm sao được?
Nói xong ông cười sằng sặc nhưng nước mắt ràn rụa. Rút khăn lau mặt, ông bảo người đi cùng:
– Bây giờ già rồi, đâm ra hay khóc… Tôi xa quê lâu quá… Xa quê gần hết cuộc đời…
Nói rồi ông lại khóc. Vị khách đi cùng lẫn mọi người đều đứng yên chờ ông khóc cho hết cơn. Chị Châu đưa ông qua cửa hàng vào gian nhà trong, nơi đặt bàn thờ ông bà giáo. Ông khách thắp ba nén nhang cắm vào bát, gọi hồn người chết cũng ngỗ ngược, suồng sã như ông nói với người sống. Khấn vái, than thở xong ông rút ví đưa cho chị Châu nắm tiền:
– Ngày mai mua đồ lễ cúng ba mẹ mày.
– Thưa chú, mai chưa phải ngày kị…
– Tao đã khấn bất cứ ngày nào bố mẹ mày cũng phải đội mồ đi lên.
Ngày xưa, tao còn đưa thư tình cho anh chị ấy rồi mới bỏ nhà theo cách mạng… Trưa mai, họp xong chú sẽ về thắp hương cho ba mẹ cháu…
Nói đoạn ông Huyến kéo tay người đồng hành:
– Ði cậu.
Ra tới hè, khi lái xe đã mở cửa bỗng nhiên ông lôi ông ta quay lại:
– Cái nhà này là thế nào hở?
Vị khách ngượng ngùng đáp:
– Trưng dụng làm cửa hàng bách hóa từ năm 56… Thời đó, các anh ấy đã quyết định…
Ông Huyến trợn mắt lên:
– Trưng dụng… Nhà anh giáo Huy mà còn trưng dụng thì ăn ở đượcvới ai?
Ông kia đáp:
– Việc đó do lịch sử để lại.
Ông Huyến bảo:
– Lịch sử sai cũng phải sửa. Lịch sử là do mấy lão tiền bối của bọn ta làm, có lão tả khuynh, có lão hữu khuynh, có lão thích trò mị dân, có lão thích chơi chiêu của bọn quá khích và khủng bố… Phải xét cái gì đúng cái gì sai mà làm chứ?… Không lẽ bây giờ trong đám dân chúng của cậu có đứa lỡ chửa hoang cậu cũng gọt đầu bôi vôi rồi bỏ rọ trôi sông như lịch sử ngày xưa?
Vị khách thấy ông Huyến tức giận lại to tiếng ngay trên hè phố vội kéo vào ô tô:
– Ðược rồi… Tôi biết rồi… Ðể tôi bảo chúng nó…
Xe chạy vụt đi.
Trưa sau, đúng ngọ ông Huyến quay lại. Ði theo ông là viên thư ký của bí thư tỉnh ủy, người hôm qua bị ông tấn công. Viên thư ký đem theo sắc lệnh tức khắc trả lại nhà cho gia đình ân nhân cách mạng, kèm theo khoản bồi thường. Bà Kim Lan và các nhân viên khác phải tức khắc chuyển hàng hóa về kho của Ty Thương Nghiệp để chờ phân công việc mới.
Chuyện xảy ra như mơ. Chị Châu lên Xóm Núi kể lại tường tận với Hoan và bảo anh đưa gia đình về phố. Nhưng Hoan đã giao cho chị toàn quyền quyết định. Anh không thiếu tiền, và đời sống miền sơn dã vẫn lôi cuốn anh hơn. Chị Châu về phố, cắt mảnh đất làm đôi xây hai ngôi nhà cùng kích thước, cùng kiểu mẫu bằng số tiền bà giáo quá cố giao phó và tiền riêng chị dành dụm được. Xây xong, chị dọn hai cửa hàng bách hóa, giao chị Nền trông coi cửa hàng của Hoan, tháng tháng kiểm kê thu chi và xếp những đồng tiền lời vào hộp, dành cho đứa em trai, kẻ nối dõi tông đường của ông bà giáo…
Hôm Hoan từ Xóm Núi trở về, anh ứa nước mắt khi hai người đàn bà giao nộp tiền ấy cho anh cùng với chùm khóa. Anh hiểu những hạt giống cha anh gieo không mất. Anh quyết định phá vỡ bức tường ngăn hai cửa hiệu, làm thành cửa hàng thênh thanh nhất thành phố, trang trí nội thất lại và thay đổi mặt hàng. Anh muốn gầy dựng cho những người đã tận tụy với anh một cuộc sống phong lưu, giữ gìn mối tình cảm nồng ấm và nghiêm túc giữa các thành viên trong gia đình, theo đúng nguyên tắc của cha anh ngày trước. Hoan thành công mau lẹ. Một lực lượng thần bí đã phù trợ anh. Một ngón tay linh thiêng trỏ anh từng đường đi nước bước. Bất cứ mặt hàng hóa nào Hoan đụng tới đều mau lẹ trở thành hàng hóa thời thượng và chúng đem lại cho anh những món lãi khổng lồ. Mặt hàng này chưa vãn, Hoan đã thay mặt hàng khác và những kẻ chạy theo chân anh chỉ còn biết vuốt bụng thở dài:
– Thằng cha ấy vào vận đỏ… Trời phù hộ cho nó.
Phần Hoan, chính anh cũng không biết vì sao anh làm mọi chuyện dễ dàng đến thế. Việc buôn bán của anh giống trò đùa. Ðể quên mối sầu buồn anh đi liên tục. Hết Ðà Nẵng vào Nha Trang, từ Nha Trang lên Ðà Lạt. Từ Ðà Lạt xuống Sài Gòn. Từ Sài Gòn lại quay ra Ðà Nẵng. Trong những chuyến ngao du ấy anh nhận thấy người đời cần thứ này hoặc thứ kia, rằng hôm nay họ thích mốt này ngày mai họ thích cái khác. Những quyết định đến mau lẹ sau một vài giờ tính toán. Chuyến hàng nào của anh cũng chóng vánh theo kiểu người ta gọi: Ðánh nhanh rút nhanh. Chưa lần nào thất bại. Công việc đã vào guồng tự nó cuốn theo. Hoan vẫn có thời gian rảnh rỗi. Anh nhờ người kiếm hồng tường vi và cây móng rồng trồng quanh vườn. Anh cho người đi mua bể cạn. Anh tái tạo lại cái khung cảnh thời thơ trẻ và đắm mình vào kỷ niệm, mường tượng những buổi chiều mẹ anh làm lễ vọng trời đất, mường tượng người đàn ông tao nhã dịu dàng thường vuốt mớ tóc trước trán anh, mường tượng chàng trai mười tám xưa trên sân bóng rổ…
Nhưng những điều ấy không làm anh được giải thoát. Quá vãng chỉ là quá vãng. Nhiều lắm nó cũng chỉ cho con người sự êm dịu và ảo ảnh về một sức mạnh. Nó không là cuộc sống. Cuộc sống của anh đã ở ngoài anh, ngoài gã đàn ông chĩnh chện giàu sang và nhàn nhã, thường ngồi sau ly cà phê ngắm phố phường với cặp mắt không ánh sáng, không niềm vui. Ðôi khi, anh tự tách khỏi bản thân để nhìn ngắm mình như ngắm nghía một kẻ lạ lùng nào đó, một thương gia trẻ đang vào vận đỏ, kẻ được cả thành phố thán phục, kẻ làm mồi cho tất thảy những toan tính của đám đàn bà trẻ hoặc của đám gái đến tuổi kén chồng… Anh không lạ gì những ánh mắt ấy. Anh từng cười nói, chào hỏi, bắt tay người này rút thuốc lá mời người kia, lịch sự lui bước nhường đường cho một cô ả xinh đẹp õng ẹo mà anh thừa biết cô ả đang cố ý chìa cặp mông về phía anh, cố ngoáy đôi chân cho thật giống các nữ minh tinh màn bạc, cố vén đôi môi cười sao thật khêu gợi và toàn bộ cuộc chinh phạt đó nhắc anh tới ly rượu đỏ của bà Kim Lan thuở xưa…
Anh thấy mình khốn khổ.
Một nỗi khốn khổ không được thổ lộ cùng ai và khó bề giải thoát. Chị Châu và chị Nền thương anh, chăm chút anh nhưng họ kính sợ anh như kính sợ một vị chúa đất và vì quá giản đơn họ không thể chia sẻ được điều gì… Tuần một lần, anh về Xóm Núi thăm con, kiểm tra rương rẫy và bàn bạc với ông già Lư, người quản gia anh đã chọn từ vùng Quảng Trị. Con trai anh xinh xắn, thông minh, hiền lành… Vẻ đẹp của nó là vẻ đẹp của hai người hòa trộn nên mỗi lần nhìn nó một gương mặt khác lại hiện lên, một thân thể khác lại áp kề, một mùi da thịt khác kêu gọi… Nỗi mừng gặp con ngắn hơn nỗi đau một người thiếu vắng. Anh bị kéo căng ở hai đầu, như một kẻ tà đạo phải chịu hình phạt cho ngựa xé. Cuộc sống phố phường cuồn cuộn. Âm thanh, màu sắc, ánh sáng hòa trộn xáo động không ngưng nghỉ, cũng chỉ lôi cuốn được anh vài khoảnh khắc.



… Nếu giờ đây ta lột áo quần, phóng vào làn thủy triều kia để toàn thân được ngọn sóng vuốt ve, trùm phủ?… Hoan nghĩ tới những vuốt ve nô dỡn của sóng nước khi anh còn thơ trẻ và nỗi khao khát được trở lại một lần hạnh phúc thời quá vãng khiến tim anh nao nức… Anh đứng dậy, cởi hàng nút áo trước ngực. Nhưng khi cởi tới chiếc nút thứ ba, bàn tay anh chạm vào rốn và nó bỗng rơi thõng xuống. Anh chợt hiểu rằng anh không còn là chú bé ngày xưa… Cậu bé Hoan ngày xưa vẫn được cha cho ngồi trên vai dạo chơi trên bãi cát… Cậu bé Hoan say mê tắm biển thấy chân trời cuộc sống nằm dưới đà bay của cú nhảy sóng, mọi bí ẩn của vũ trụ bừng sáng lên sau một hơi lặn dài và làn sóng nước bao la mặn mòi hơi biển cả là nguồn sung sướng vô biên chẳng bao giờ vơi cạn…

Anh đã qua tuổi… Tam thập nhi lập rồi. Anh đã ba mươi bảy. Một gã đàn ông xa con và mồ côi vợ không thể tự cứu mình bằng cái trò tồng ngồng nhảy sóng của hơn hai mươi năm trước. Trong hơn hai thập kỉ ấy, bao nhiêu dòng nước đã cuốn từ cửa sông ra biển, và biển đã luân chuyển các guột nước trong lòng sâu của nó bao nhiêu lần?… Anh lại ngồi xuống cát, châm điếu thuốc khác…
Biển của anh giờ không còn ở nơi đây. Từ xa, một bóng người đang cắm cúi đi tới. Một cái bóng bé nhỏ, chúi về phía trước, bên tay cắp chiếc thúng con. Có lẽ là một đứa bé bán quà rong. Những người tắm biển đã về từ lúc lặn mặt trời, cớ sao nó còn chầu chực nơi đây?… Có lẽ nó ế hàng nên phải rình những cặp trai gái đang tình tự để năn nỉ. Và bây giờ nó gặp gã khách côi cút là anh?…
Hoan đoán đúng. Đứa bé cắp thúng hàng nhằm hướng anh ngồi đi miết. Chẳng mấy chốc nó tới nơi, quỳ gối trước mặt anh vừa thở hồng hộc vừa rút cây đèn pin soi những món hàng ế ẩm:
– Chú ơi, mua giùm con ít đồ nhậu.
– Chú không uống rượu.
– Vậy chú ăn quà cho vui miệng.
– Nhưng cha chú bắt chú sau khi ăn quà phải xúc miệng bằng nước muối không sợ hư răng… Ở đây, cháu có nước muối không?
Hoan vừa nói vừa nhớ tới đứa con trai, nhớ vẻ mặt phụng phịu của nó mỗi lần phải thực thi cái nguyên tắc vệ sinh nghiêm nhặt đó. Đứa bé bán hàng ngắc ngứ, đần mặt nhìn anh. Nó không hiểu ông khách nói thật hay bỡn. Cây đèn pin trong tay nó vếch lên, soi một gương mặt đen đủi, ranh mãnh với cặp môi xinh nhỏ:
… Nó còn bé quá… Nó đã phải rời học đường đi kiếm sống… Có lẽ cha mẹ nó chết sớm, như Miên ngày xưa…
– Nào, cháu có món gì, để chú mua về đãi hàng phố vậy.
– Dạ, con xin chú, chú mua giùm con…
Con bé nhanh nhảu van nài. Cây đèn pin quẹt qua quẹt lại trên mấy món đồ thảm hại: Một chồng bánh đa kẹp kẹo lạc đã chảy. Một bát lạc luộc. Vài quả ổi dập nát vẹo vọ, hẳn được mót từ mảnh vườn cằn cỗi nào đó đem mớ cho trẻ nghèo. Mấy con mực nướng trong túi ni-lông. Hai gói thuốc lá rẻ tiền đã móp vỏ.
– Cháu có đi học không?
– Dạ không.
– Cha mẹ cháu không cho đi học?
– Thưa không. Con phải bán hàng. Đi học lấy chi mà ăn.
– Cha mẹ cháu làm gì?
– Mẹ con bán ốc hương ở chợ, còn cha con bán tào-phớ-rong.
– Nhà cháu đông người không?
– Có cha mẹ với năm anh em con.
– Không đứa nào đi học cả?
– Thưa không.
– Cháu có thích học không?
– Thưa không. Có hồi cậu con đã dạy chữ cho tụi con 
nhưng chữ không vào. Cậu bảo óc đặc không học nổi. Đi bán hàng là sướng nhất. Vừa kiếm được tiền mua gạo vừa chơi rong…
… A, ra thế… Hóa ra trên đời có những đứa bé không thích học. Chẳng phải ai cũng than vãn việc học hành lở dở như người đàn bà của ta. Ta biết Miên thông minh nhường nào…
– Thôi được, chú mua hết cho. Cả thảy bao nhiêu?
Cặp mắt đứa bé đảo nhanh như chớp và ngay tức khắc mặt nó hiện lên vẻ tinh ranh của đám dân thị thành.
Hoan chăm chú nhìn nó tính toán từng món một, nâng giá món này lên vài hào hoặc tính gian món kia vài chiếc, cặp môi xinh nhỏ chụm lại và đôi mắt đong đưa trên cái vương quốc bần hàn.
Hoan bảo:
– Thôi, không cần đếm đi đếm lại từng cái kẹo như vậy… Tất cả bao nhiêu, cứ gộp hết vào…

Xuýt nữa Hoan phá ra cười:

… Con cáo con, nó tưởng mình là người trên sao Hỏa vừa xuống… Nhưng nó tưởng thế cũng có lý, chẳng ai rồ dại ngồi một mình trên bãi biển đêm thế này…
– Con ranh, mày tính kiểu gì vậy?… Cả mớ hàng cháu bán nhiều lắm cũng chỉ được bốn năm đồng… Lần sau muốn bịp thì phải chọn người khác nhé…
Ðoạn anh móc túi lấy ra ba tờ bạc năm đồng:
– Này, chú cho mười lăm đồng, ôm mớ quà của cháu về luôn đi… Thôi, đi cho mau kẻo lạnh…
– Dạ, con xin cảm ơn chú, con xin đội ơn chú…
Ðứa bé cầm tiền rạp đầu xuống chào anh rồi sau đó nó ôm thúng hàng lủi nhanh như sóc. Hoan nhìn theo cái bóng đen bé nhỏ hút xa dần, cồn cào gan ruột. Viền môi hồng nhỏ xíu của nó gợi cho anh một viền môi khác. Và từ điểm nhớ ấy, nỗi nhớ lan rộng, tăng trưởng, dựng nên một hình bóng thân quen… Tại sao ta lại ngồi đây nhỉ?
Vào giờ này, lẽ ra anh đang ngồi trên sân thượng uống trà, tán gẫu với đám láng giềng Xóm Núi và vừa tiếp chuyện họ anh vừa lắng nghe tiếng đứa con trai bi bô với mẹ nó dưới sân. Gặp ngày vắng khách, cả ba người ngồi trước hiên hóng gió. Không gian vây bọc họ luôn tẩm ướp hương các loại hoa trong vườn, ấy là tiểu vũ trụ an bình và say đắm được tạo ra từ người đàn bà anh yêu và yêu anh. Cuộc đời anh đã định vị ở nơi đó, sao bỗng dưng bị đẩy ra ngoài, rơi vào khoảng chân không, một cõi lạnh lùng xa lạ nơi bất cứ vật gì cũng khiến anh ngờ vực.
Nhiều lần Hoan tự hỏi:
… Vì sao nhỉ?… Ta vốn là dân thành phố, sinh trưởng và lớn lên ở nơi đây, hít thở không khí nơi đây để trở thành người, vậy mà ta luôn có cảm giác mình là khách qua đường, là kẻ ăn nhờ ở đậu…
Nỗi bất an thường trực ở trong anh.
Mỗi khi tiếp chuyện những kẻ môi giới, các chủ hàng hoặc đám bạn buôn, anh thấy rõ mình chẳng còn là mình, chỉ là kẻ sắm vai, là hình nộm phải diễn. Một cái bắt tay sớm hay muộn, một tiếng thở dài buông ra đúng lúc hay không đúng lúc, một tiếng cười trật
khấc hoặc đáng giá ngàn vàng hoặc làm sụt lở một phần gia sản một cuộc trà dư tửu hậu có thể củng cố được các mối quan hệ hữu ích hoặc khai thác những sơ hở của đối phương… Những bài học của xã hội buôn bán cạnh tranh mà tất thảy những kẻ nhập cuộc phải thuộc lòng… Nhưng sắm vai trò ấy, anh luôn luôn thấy mình ngộp thở.
Hoan là kẻ thèm khí trời. Anh cần khoảng không gian bao la thanh sạch. Không gian ấy anh đã tìm và đã thấy ở nơi khác. Trong thành phố này, chỉ riêng khu vườn là nơi duy nhất anh có thể hít thở dễ dàng, tránh mọi cuộc tiếp xúc với ngoại giới và được quyền ném mặt nạ lại phía sau… Nhưng khu vườn quá nhỏ. Và mùi hoa móng rồng với tường vi chẳng lấp đầy nỗi thiếu vắng một mùi hương khác. Nỗi thiếu vắng ấy càng ngày càng nung đốt anh, từ không gian thấm sâu vào gân cốt máu thịt. Và tới lúc nó hòa nhập cùng cơn đói tình dục…
Lại có người đi tới. Lần này, không phải một mà là ba cái bóng cao lớn nghênh ngang, vẻ như ba gã trai. Họ tiến đến gần anh vừa đi vừa chuyện oang oang, giọng người chài lưới, át cả tiếng sóng:á
– Mi ưng con nớ hỉ?
– Kệ tau, mi hỏi làm chi?
– Nếu ưng nó tau thôi… Răng không, tau xáp vô liền.
– Thì mi cứ xáp vô.
– Mi thách hả?
– Tau chẳng thách.
– Ðừng thách tau. Bộ mi xớ rớ cả tháng chưa mần ăn được chi, chớ tau cứ rờ tới con nào con nớ mềm nhũn ra ngay… Giờ trước giờ sau là tau quất…
– Ðừng nói trạng… Chứ tau thách mi đó. Mi mần đi.
Giọng thứ ba cất lên:
– Thôi đi chúng bay… Thiếu chó gì gái mà phải mất nghĩa mất tình vậy?… Người ta đổi gái chứ không ai đổi bạn từ thuở cởi truồng. Mà mắt tụi bay có vẩy ốc chớ tau nỏ thấy nó đẹp đẽ chi. Hai trái vú to như hai trái dừa mà mông thì lép kẹp. Thằng đàn ông nào mà lấy nó suốt đời phải cam phận nằm dưới, chẳng sung sướng chi.
Tiếng cười khằng khặc ầm ĩ. Ba gã trai vừa đi vừa đá sóng tung tóe. Nước vọt lên dưới những cú đá mạnh rồi rơi xuống rào rào:
– Ai kia?
Một gã cất lời, giọng bả lả. Gã thứ hai tiếp theo:
– Răng ngồi một mình buồn bã vậy?… Ði với bọn tui không?
Hoan im lặng. Anh cố hình dung gương mặt những gã trai làng chài có giọng cười thật khả ố và thật sung sướng.
Gã thứ nhất lại lên tiếng:
– Bộ kia là bị người tình ruồng… Ðừng bó gối cho tội thân. Ði chơi đi. Thiếu gì đàn bà trên đời, con nào cũng cái nớ cả…
Giọng thứ ba lại cất lên, can ngăn:
– Im đi chúng bay. Ðể yên cho người ta ngồi… Tổ cha mấy thằng chó dại, nốc có hai chén rượu mà sủa như lũ điên…
Rồi ba gã vượt qua mặt anh, đi tiếp về phía trước, nơi dãy lều chứa lưới in dãy bóng đen thù lù dọc theo bờ cát. Tiếng họ mỗi lúc mỗi hút dần trong gió biển. Càng đêm, gió càng dữ, càng lạnh. Trời như rộng thêm ra và chân trời tan biến trong mù sương, như không còn biển còn mây còn trăng, tất cả hòa thành một cõi huyền hoặc. Anh phóng tầm nhìn ra xa, cố tìm trong khoảng không bao la một chút gì thân thuộc: Tiếng còi báo giờ nơi người gác hải đăng, tiếng buồm reo phần phật trong gió đêm, tiếng hải âu lẻ bạn tình khắc khoải, bóng thuyền câu mực và ánh lấp lóa những ngọn đèn soi cá đêm… Nhưng tất thảy những ảnh hình, những âm thanh quen thuộc của tuổi thơ đã tắt. Biển cũng hoang hoải như thành phố, sa mạc như thành phố và anh chỉ còn lại một mình dù không có nạn hồng thủy hay bão bom nhiệt hạch.
Hoan đứng dậy.
Biển tuổi thơ của anh đã mất.
Và biển của anh bây giờ không còn ở nơi đây.
Anh nổ máy quay xe về thành phố. Quầng sáng hiện lên phía trước khiến anh chán chường, chân tay bải hoải. Nhưng khi nghe tiếng động cơ nổ thuần thục đã giảm dần âm thanh anh nghe rõ tiếng sóng ào ạt sau lưng. Tiếng sóng đuổi theo anh và mỗi lúc càng giống tiếng gọi mơ hồ nào vọng tới. Tiếng gọi của ngày đã qua hay ngày sắp tới?… Hoặc đó chính là tiếng vọng nhịp đập của trái tim sầu muộn trong ngực anh, dưới tấm áo tẩm sương?… Anh không biết và tiếp tục phóng xe đi, cảm thấy mình đang theo đuổi một mục tiêu vô hình vô thanh nhưng không sao cưỡng nổi…ổi bạn từ thuở cởi truồng. Mà mắt tụi bay có vẩy ốc chớ tau nỏ thấy nó đẹp đẽ chi. Hai trái vú to như hai trái dừa mà mông thì lép kẹp. Thằng đàn ông nào mà lấy nó suốt đời phải cam phận nằm dưới, chẳng sung sướng chi.
Tiếng cười khằng khặc ầm ĩ. Ba gã trai vừa đi vừa đá sóng tung tóe. Nước vọt lên dưới những cú đá mạnh rồi rơi xuống rào rào:
– Ai kia?
Một gã cất lời, giọng bả lả. Gã thứ hai tiếp theo:
– Răng ngồi một mình buồn bã vậy?… Ði với bọn tui không?
Hoan im lặng. Anh cố hình dung gương mặt những gã trai làng chài có giọng cười thật khả ố và thật sung sướng.
Gã thứ nhất lại lên tiếng:
– Bộ kia là bị người tình ruồng… Ðừng bó gối cho tội thân. Ði chơi đi. Thiếu gì đàn bà trên đời, con nào cũng cái nớ cả…
Giọng thứ ba lại cất lên, can ngăn:
– Im đi chúng bay. Ðể yên cho người ta ngồi… Tổ cha mấy thằng chó dại, nốc có hai chén rượu mà sủa như lũ điên…
Rồi ba gã vượt qua mặt anh, đi tiếp về phía trước, nơi dãy lều chứa lưới in dãy bóng đen thù lù dọc theo bờ cát. Tiếng họ mỗi lúc mỗi hút dần trong gió biển. Càng đêm, gió càng dữ, càng lạnh. Trời như rộng thêm ra và chân trời tan biến trong mù sương, như không còn biển còn mây còn trăng, tất cả hòa thành một cõi huyền hoặc. Anh phóng tầm nhìn ra xa, cố tìm trong khoảng không bao la một chút gì thân thuộc: Tiếng còi báo giờ nơi người gác hải đăng, tiếng buồm reo phần phật trong gió đêm, tiếng hải âu lẻ bạn tình khắc khoải, bóng thuyền câu mực và ánh lấp lóa những ngọn đèn soi cá đêm… Nhưng tất thảy những ảnh hình, những âm thanh quen thuộc của tuổi thơ đã tắt. Biển cũng hoang hoải như thành phố, sa mạc như thành phố và anh chỉ còn lại một mình dù không có nạn hồng thủy hay bão bom nhiệt hạch.
Hoan đứng dậy.
Biển tuổi thơ của anh đã mất.
Và biển của anh bây giờ không còn ở nơi đây.
Anh nổ máy quay xe về thành phố. Quầng sáng hiện lên phía trước khiến anh chán chường, chân tay bải hoải. Nhưng khi nghe tiếng động cơ nổ thuần thục đã giảm dần âm thanh anh nghe rõ tiếng sóng ào ạt sau lưng. Tiếng sóng đuổi theo anh và mỗi lúc càng giống tiếng gọi mơ hồ nào vọng tới. Tiếng gọi của ngày đã qua hay ngày sắp tới?… Hoặc đó chính là tiếng vọng nhịp đập của trái tim sầu muộn trong ngực anh, dưới tấm áo tẩm sương?… Anh không biết và tiếp tục phóng xe đi, cảm thấy mình đang theo đuổi một mục tiêu vô hình vô thanh nhưng không sao cưỡng nổi…

No comments:

Post a Comment