Chương 13
Người ta vẫn bảo đàn bà xứ chài lưới dâm bởi họ ăn nhiều cá hon 7 cơm. Những mụ
dân chài to vật vã, đen không kém đàn ông, tay chân nần nẫn như đẽo bằng gỗ tứ
thiết, lấy chồng từ thuở mười lăm đến năm chẵn ba mươi ít nhất cũng có mười đứa
con cả trai lẫn gái.
Rồi họ lại tiếp tục đẻ, thế là bà nội bà ngoại đến nhà hộ sinh cùng một lần với
con dâu hoặc con gái và cảnh: em bú chị, cháu bú bà thường xảy như cơm bữa.
Cảnh ấy đặc biệt phổ biến ở làng Bảo, cái làng ven sông Lệ Nhật, nửa làng đánh
rớ lấy cá sông, nửa kia đi biển đánh cá nước mặn. Dường như không có người
nghèo ở đây.
Khốn cùng nhất là lão Gộc, không vợ không con, cũng dựng được gian nhà gạch
ngói mới xen ngói cũ. Buổi chiều, loa phóng thanh xã bắt oang oang đã đành,
ra-đi-ô của mọi nhà không chịu thua cũng mở đinh tai nhức óc. Dân ăn cá, thần
kinh vững sấm nổ bên tai vẫn ngủ say như đá cuội. Bên kia sông Lệ Nhật là thành
phố nên đời sống đô thị đặt chân vào từng nhà dù nhà nào nhà nấy bốc mùi tanh
kinh niên của hải sản. Trai gái làng những chiều rỗi rãi rủ nhau ra câu lạc bộ
xã tập hát hoặc nhảy disco, đầu chải bóng, nước hoa xịt tắc mũi. Các cô cũng đi
giày cao gót như ai bước lên sân khấu cầm micro đong đưa qua lại, hất tóc lên
kiểu Thanh Lan để gương mặt mơ màng hoặc hạ thấp đôi mi kiểu Lệ Thu để dáng
điệu thấm đẫm vẻ nhu mì thục nữ. Rồi lát nữa rời câu lạc bộ, các cô sẽ tụt giày
cao gót cắp vào nách. Và các chàng cũng sẽ tụt giày xách theo các cô vì đi trên
cát vẫn tiện lợi hơn. Trong lúc ánh đèn câu lạc bộ vẫn quét sáng một vùng, đám thiếu
niên choai choai vừa tiếp quản sân khấu đang ra sức vật lộn với nghệ thuật ca
hát, đàn anh của chúng đã tụ hợp tại một câu lạc bộ mê ly hơn nơi bãi biển,
dưới các gốc phi lao hoặc trong các ngôi lều chứa l
ưới. Mùi biển đêm không chỉ còn là mùi nước mùi gió mùi rong rêu sóng tấp vô bờ mùi lũ cá óc-nóc trương phềnh trên cát mùi gỗ thuyền hong nắng đang nhả dần vị nắng khét đợi chờ mùi vỏ chanh đám người ăn sò huyết ném lại… mà còn một thứ mùi khác lạ hòa trộn với tất thảy những mùi quen thuộc trên khiến không khí đặc thành chất keo vô hình, và khi hít thở thứ không khí ấy, con người bị nhiễm cơn đói dục tình, ấy là mùi toát ra từ những cặp tình nhân đang quần thảo trong các kho chứa lưới, trên các cồn cát vắng và trong bóng tối rừng dương. Sóng vỗ không mệt mỏi không ngưng nghỉ như kẻ gác đêm trung thành để tiếng ào ạt ồn ĩ khỏa lấp tiếng thì thầm tiếng kêu rên của các cặp trai gái nhưng mùi biển không lấn áp được mùi các cuộc ái ân và vì thế không gian thấm đẫm nhục cảm đầu độc những kẻ đói khát ái tình không may lạc chân vào đó…
ưới. Mùi biển đêm không chỉ còn là mùi nước mùi gió mùi rong rêu sóng tấp vô bờ mùi lũ cá óc-nóc trương phềnh trên cát mùi gỗ thuyền hong nắng đang nhả dần vị nắng khét đợi chờ mùi vỏ chanh đám người ăn sò huyết ném lại… mà còn một thứ mùi khác lạ hòa trộn với tất thảy những mùi quen thuộc trên khiến không khí đặc thành chất keo vô hình, và khi hít thở thứ không khí ấy, con người bị nhiễm cơn đói dục tình, ấy là mùi toát ra từ những cặp tình nhân đang quần thảo trong các kho chứa lưới, trên các cồn cát vắng và trong bóng tối rừng dương. Sóng vỗ không mệt mỏi không ngưng nghỉ như kẻ gác đêm trung thành để tiếng ào ạt ồn ĩ khỏa lấp tiếng thì thầm tiếng kêu rên của các cặp trai gái nhưng mùi biển không lấn áp được mùi các cuộc ái ân và vì thế không gian thấm đẫm nhục cảm đầu độc những kẻ đói khát ái tình không may lạc chân vào đó…
… Khốn nạn, khốn nạn thật… Sao bỗng dưng ta đưa chân tới đây? Ma đưa lối quỷ
dẫn đường, lẽ ra ta đã phải quay về khi phóng xe đến ngả rẽ… Hoan tự nguyền
rủa, nhưng chân anh vẫn tiếp tục bước trên bờ cát, và tai anh tiếp tục lắng
nghe trong tiếng sóng ầm ĩ, tiếng rên rỉ của các cặp tình nhân, nhịp thở hào
hển của những động tác làm tình mà anh quá thuộc. Những tiếng động ấy làm tái
hiện rõ rệt hơn cảnh ái ân cũ, thân xác người đàn bà yêu dấu, hơi thở mùi tóc
mùi mồ hôi những cử chỉ nhỏ nhặt và những dấu hiệu âm thầm chỉ riêng hai người
nhận biết… Tất thảy, tất thảy… cho đến từng chi tiết nhỏ nhất cuộc sống gối
chăn say đắm của anh…
… Tại sao ta lại đến đây. Thật rồ dại, ngu xuẩn… Ta đúng là đồ quỷ tha ma bắt…
Nhưng chân anh vẫn bước, và mắt anh không ngừng săn lục những cặp trai gái, tai
anh vẫn lọc tiếng sóng biển để đón nhận những tiếng động nhỏ nhặt phát ra từ
những thân xác hừng hực lửa dục và thấm đẫm mồ hôi. Không khí đặc sánh nhục cảm
vây bọc anh thúc vào tim anh như thúc ngựa, đốt lửa thân xác anh, dồn nén hơi
thở của anh khiến chúng trở thành một cơn giông tích tụ đầy hai lá phổi mà
không tìm được lối thoát…
– Lối này…
– Chờ em tí đã…
Một cặp tình nhân và từ rừng dương bước ra, sóng vai đi trước anh chừng mươi
bước. Mùi mồ hôi trộn cùng mùi dầu chải tóc Hương Sen theo gió xộc vào mũi
Hoan. Trước đây chị Châu buôn loại dầu rẻ tiền này nên anh biết. Người con gái
bỗng vươn cánh tay quàng cổ tình nhân. Cô ta cao hơn anh chàng nửa cái đầu, đôi
cẳng chân lêu nghêu, còn gã bạn tình to bè, lưng gấu, vai u bước khuệnh khoạng
đầy tự ti và mãn nguyện.
– Về chưa?
Anh chàng lưng gấu hỏi.
– Chơi tí nữa đã.
Cô gái chân cò trả lời, vừa nói vừa lắc lắc mái tóc xõa ngang lưng.
– Em không sợ mẹ mắng à?
– Không?
– Ra Bãi Ðá chớ?
– Ờ, ra Bãi Ðá.
– Ở đó mát thiệt là mát. Chờ tối trăng ta mần lần nữa rồi về.
Cô gái im lặng ưng thuận. Và anh chàng lưng gấu phởn chí hát ư ử trong họng.
Hoan đi chậm lại, dép sục đầy cát. Anh nhìn hai kẻ sung sướng đi phía trước,
thèm muốn điên cuồng:
… Ước gì em ở đây, Miên ơi, ước gì em bước từ ngôi lều chứa lưới kia đi ra.
Chúng ta sẽ lên thuyền, chúng ta
sẽ bỏ lại sau lưng tất thảy, chúng ta sẽ sống cùng nhau trên hoang đảo, như những tiền nhân…
sẽ bỏ lại sau lưng tất thảy, chúng ta sẽ sống cùng nhau trên hoang đảo, như những tiền nhân…
Vì sao không thể sống cuộc sống của những con người thời ăn lông ở lỗ?… Họ tự
do bởi không bị trói buộc bởi các định kiến, và chắc chắn họ cũng say đắm không
kém cặp trai gái đang ôm lưng nhau đi trước mặt anh. Hoan đưa mắt nhìn dãy
thuyền chênh vênh trên bãi cát. Liệu con thuyền nào trong số ấy có thể đưa anh
cùng người đàn bà yêu dấu vượt biển ra đi? Anh nhớ những câu chuyện cổ tích, và
anh nhớ chàng Robinson… Phải, anh có thể trở thành một Robinson hạnh phúc nhất
địa cầu, với người anh yêu dấu…
– Coong coong… Coong.
Một cái vỏ hộp sữa bị Hoan đá bật tung lăn lông lốc. Tiếng động hiến cặp tình
nhân kia quay lại. Và tiếng động cũng cắt đứt cơn mộng tưởng của Hoan. Anh thấy
gã trai lưng gấu khuỳnh tay nhìn mình, vội đưa mắt nhìn theo chiếc vỏ hộp sữa.
Nó đã lọt qua cặp đùi cò lêu nghêu của cô gái kia. Hoan nói:
– Xin lỗi, tôi không để ý…
Chừng như gã trai kia đã nhận ra anh là người đứng tuổi, và chẳng hề có ý định
trêu ghẹo bạn tình nên lặng lẽ quay lưng đi. Cô nàng cười hi hí:
– Ðứa mô tu hết sữa mà quăng ra bãi?
Câu hỏi làm đà, vô địa chỉ. Gã trai vòng cánh tay vâm vạp qua hông tình nhân và
họ tiếp tục đi.
Hoan đứng lại.
… Ta đi đâu bây giờ? Không lẽ ta theo họ ra Bãi Ðá để xem trộm cảnh làm tình?
Ta đã biến thành kẻ tâm thần từ lúc nào vậy?
Anh ngồi xuống bãi cát, xây mặt ra biển và thấy muối mặn trong gió chà xát tâm
hồn
… Hơn mười năm trước, sau đám cưới tai tiếng với cô Kim Liên, Hoan sang làng
Bảo sống. Anh có người bạn cùng lớp, một gã trai lưng beo vai gấu từa tựa như
gã trai vừa bước từ rừng dương ra nhưng cao lớn hơn. Họ cùng học với nhau suốt
sáu năm trung học. Vì làng Bảo chỉ có trường tiểu học nên đến cấp trung học,
học sinh phải qua sông sang thành phố. Suốt sáu năm họ ngồi cạnh nhau và bao
giờ cũng là hàng ghế cuối vì cả hai cao to nhất khóa. Bạn anh không mơ ước một
con tàu ngược lên phương Bắc. Cậu ta là con trưởng trong một gia đình chài lưới
giàu. Người cha có tài đi biển. Thuyền nghề của ông trở về luôn đầy ắp tôm to
cá lớn. Người mẹ chỉ ở nhà đẻ và ôm con. Tiền họ phải bỏ vào chum chôn
trongcát. Bạn anh nối nghiệp cha nhưng anh ta không muốn đi biển bằng con
thuyền cổ lỗ mà mua sắm tàu lớn ra khơi xa. Ấy là lý do duy nhất khiến chàng ta
đeo đuổi mười năm đèn sách dù rằng suốt những năm ấy, anh ta bị những môn học
ngớ ngẩn và vô dụng hành hạ đến nẫu nà: Nào văn nào sử nào địa nào chính trị
nào thực vật… Sau rốt, chàng cũng đã lọt qua kì thi tốt nghiệp nắm mảnh bằng
trở về làng. Ðám cưới Hoan, anh chàng xách theo hơn mười cân vừa tôm hùm vừa
tôm bạc má. Vào chính lúc Hoan đứng lên kể cho khách khứa biết chuyện anh bị
lừa vào chiếc giường của cô Kim Liên và buộc phải làm đám cưới, anh chàng dân
chài đứng dậy trước tiên:
– Trên đời này đức tính cao cả nhất là sự trung thực… Bạn Hoan của tôi là người
số một trung thực trên dải đất Việt Nam này. Xin tất cả tràng vỗ tay tán
thưởng…
Nói xong, anh ta tự vỗ tay bồm bộp trước tiên và hét đám trai tráng:
– Nào, các bạn trẻ, vỗ tay lên… Chúng ta còn trẻ, chúng ta hãy sống như bạn
Hoan, chỉ nói điều mình nghĩ và sống như mình muốn.
Bọn trai thoạt đầu ngớ ra, sau khi hiểu nhất loạt rồ lên vỗ tay, gõ đũa gõ bát,
đánh trống, đập phèng phèng… Ðám cưới náo loạn.
Họ hàng nhà gái kéo nhau ra về. Họ hàng nhà trai kháo chuyện, người nọ hỏi
người kia ồn ỉ. Rồi một ai đó hét lên trong đám đông:
– Xin mời thực khách nâng đũa nâng bát…
Thế là cuộc tấn công bắt đầu, và việc giải quyết những mâm cỗ tú ụ đã tháo gỡ
tình thế gay cấn của tâm lý. Mọi chuyện tốt đẹp ấy đều khởi xướng từ gã dân
chài tốt bụng.
Sau đám cưới cô dâu vẫn mang áo quần về nhà ông bà giáo Huy theo chiến lược:
(Bám thắt lưng địch mà đánh) của bà mẹ. Chú rể xách mấy bộ quần áo sang làng
Bảo. Ở đó, bạn anh cất cho anh một chiếc lều, dạy cho anh cách cất rớ. Lều sát
mé sông Lệ Nhật, đêm lẫn ngày rười rượi gió. Thường Hoan ngủ ngay trong lều,
chỉ ngày động trời hoặc mưa lớn mới vào nhà bạn. Bữa bữa, đứa em gái chín tuổi
của anh ta đem cơm ra lều cho Hoan, ngó nghiêng đám cá anh kiếm được. Hôm nào,
anh may mắn vớ được mớ cá kha khá nó mới đem về.
Nếu không, nó chọn những con còn sống thả xuống sông còn những con đã thôi ngáp
bỏ vào bể mắm chượp của mấy nhà quanh đó. Cất rớ là thú tiêu khiển duy nhất của
Hoan ngoài những giờ anh đọc sách.
Tuần một lần chị Nền đem tiền đem gạo sang cho gia đình người bạn, và như thế,
họ nuôi anh như nuôi một gã học trò thi trượt đợi khóa thi sau. Hoan hài lòng
với cuộc sống ấy, dù bạn anh đi biển liên miên và mỗi lần về anh chàng cũng chỉ
đảo qua lều tán chuyện mươi phút rồi lại bổ nhào đi tìm cô tình nhân. Căn lều
cất rớ là chốn tuyệt đẹp để mộng mơ. Gió. Mây bên trên và bóng mây dưới nước.
Mặt trời. Sóng. Chim bay. Anh chẳng lo sinh kế nhọc nhằn, cũng chẳng phải nhìn
những bộ mặt không ưa thích. Dân làng Bảo hiếu khách. Họ dễ mê gã trai đẹp như
tài tử xi-nê có nụ cười dịu dàng và cặp mắt nhìn ai cũng như ve vuốt. Các cô
gái thích chòng ghẹo Hoan. Họ ném lên lều đủ thứ: Từ quả ổi chín, vài múi bưởi,
cái bánh ngọt đến những con nhái, con cóc. Ðôi lần, khi anh ngồi đọc sách họ
rón rén đi tới bỏ vào lưng anh một con tôm hoặc con cá sống. Hoan lẳng lặng cởi
áo, rũ con vật đầy gai xóc kia ra, phơi tấm thân vạm vỡ trắng phôm phốp. Anh
vốn dễ tính, chịu được sự cợt nhả của mọi người. Anh cũng biết gái làng Bảo mê
anh, nhưng không muốn dây dưa với bất cứ ai. Anh vừa nếm quả đắng và đang yêu
tự do với tình yêu trọn vẹn. Ðôi khi, tiếng còi tàu từ sân ga Thuận Lý vọng
sang, nhắc nhớ một mộng ước đã tan. Và anh lại ngồi nhỏm lên, nhìn những đám
mây trắng rải rác nơi chân trời phương Bắc, hồi tưởng những ngày tươi thắm và
lời vẫy gọi của tương lai, một tương lai không rõ hình dạng nhưng anh đã đặt
biết bao tình yêu và niềm tin phút chốc bỗng tan thành làn khói. Chiếc va-ly
sắp áo quần lẫn những vật tùy thân vẫn nằm nguyên trong góc phòng riêng của
anh, còn anh nằm trong chòi cất rớ gối đầu lên tay đêm này qua đêm khác. Ngày
ngày anh nhìn dòng sông trôi, con sông nhỏ nhoi kia chẳng đáng gì với cõi đất
rộng dài mà mãi mãi phân cách cuộc đời hôm nay với những ước mơ năm trước…
Có lẽ nào sự rủi ro ấy chỉ là trò xảo trá của mẹ con bà Kim Lan để hợp
thức hóa cái thai trong bụng một cô gái hưng phấn tình dục quá sớm hay còn
là tội lỗi của anh, gã trai tìm nàng Xi-ren trong cơn mê muội để thực thi
cuộc làm tình đã từ lâu ngấm ngầm thèm muốn?
… Phải, chính anh cũng có lỗi, chính cái thân thể cường tráng quá đỗi của anh
đã góp phần xô đẩy anh vào tấn kịch rủi ro này. Vốn trung thực, Hoan lại tự xỉ
vả mình mỗi lần ngắm tấm thân vạm vỡ của anh và biết nỗi mong mỏi một nàng
Xi-ren khác đang lớn lên trong cái thân xác hừng hực sinh lực mà anh phải gánh
vác. Khí trời, gió biển hoặc thứ cá tươi anh ăn ngày ngày đã khiến những cơn
đói khát dục tình lồng lộn như ngựa dại?… Hoan không thể trả lời. Chàng trai
vật vã trong chòi, tự giải thoát bằng lối giải thoát cổ xưa của những gã đàn
ông hoặc xấu xí dị hình, hoặc nghèo khó đến nỗi không thể nào lấy vợ…
Một đêm tối trời, cây thang leo lên chòi rung rẩy. Hoan ngỡ cậu bạn đi biển bất
chợt quay về nên cất
tiếng hỏi:
– Sao bảo ba hôm nữa mới về?
Không có tiếng trả lời. Nhưng cây thang tiếp tục rung và tiếng chân người leo
lên từng nấc thang rõ
hơn. Hoan thấy lạ, mỗi bận lên chòi cậu bạn thường gọi oang oang
từ dưới chân thang. Linh tính xui anh ngồi nhỏm dậy. Khi anh vừa chống khuỷu
tay lên ván lát chòi, một người đàn bà đã đổ ập vào:
– Ai đấy?
– Tôi đây… Tôi là Gái…
– Chị là…
– Tôi vẫn qua đây buổi sớm… Tôi ở xóm Hà…
– A… a…
Hoan đoán ra rồi. Hẳn người đàn bà này ở trong đám đàn bà sớm sớm vẫn quang
gánh qua đây xuống bến đò dưới mua cá rồi qua sông sang thành phố bán. Dân làng
Bảo thường gọi họ là đám dân xóm Hà, bằng thứ giọng nửa thương hại, nửa khinh
miệt. Xóm Hà cách làng Bảo chừng dăm cây số, không có nghề chài lưới, ruộng pha
cát vừa ít vừa xấu nên họ lấy nghề buôn bán vặt: buôn đầu chợ bán cuối chợ làm
nghề chính. Một số đàn ông cũng theo nghề sơn tràng hoặc buôn gỗ thượng nguồn
nhưng dường như chẳng ai khấm khá nổi. Hoan nghe nói cả xóm Hà không có một mái
nhà gạch. Nhà giàu nhất cũng chỉ lát được mảnh sân xi măng.
Ðám con gái xóm Hà vì thế dường như nhút nhát hơn gái làng Bảo. Họ cũng thích
chọc ghẹo anh, nhưng không dám dạn dĩ cợt nhã như gái làng chài. Thường họ đi
qua chòi cất rớ, đưa mắt thầm lén liếc nhìn anh, ném một câu đùa bâng quơ, bóng
gió…
… Nhưng chị ta là ai trong số đó?
Hoan thầm hỏi và tức khắc anh lục soát trí nhớ: Một cô béo thường mặc áo hoa
đỏ. Mấy cô khác thanh mảnh hơn cô nào cô nấy buộc quai lụa to tướng dưới nón…
Còn lại là dăm bảy người đàn bà chuyên mặc quần áo sẫm màu… Chắc hẳn chị ta ở
trong số đó. Tất cả bọn họ đều có dáng lam lũ, tất bật. Tất cả đều đội nón sùm
sụp che ngang mặt và vì thế đứng trên chòi anh thấy họ như đám nấm di
động.
… Liệu chị ta có phải người mặc bộ đồ màu cỏ úa, gương mặt lấm tấm tàn nhang?…
Hoan tự hỏi vì thốt nhiên anh mường tượng ra cái gương mặt đó.
Ngượng ngùng anh lên tiếng:
– Chị có phải là…
Người đàn bà thì thào:
– Anh đừng nói to.
Chị năn nỉ và khẽ đặt tay lên ngực anh. Những sợi tóc trên trán chị thõng
xuống, cọ vào mặt Hoan. Hơi thở của chị gần như xộc thẳng vào mũi anh vì chòi
quá hẹp mà anh lại ở trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, hai khuỷu tay chống xuống.
– Anh đừng sợ.
Người đàn bà lại thì thào. Sau vài giây hổn hển chị nói tiếp:
– Tôi là gái góa, có con rồi… Tôi không muốn làm hại anh, cũng
chẳng dám phiền hà… Tôi biết anh
lâu nay…
Tôi…
Hoan đáp, nhưng chẳng biết nói gì. Anh định chống tay ngồi hẳn lên nhưng không
dám, muốn nằm xuống cũng không được và sau rốt anh đành giữ nguyên tư thế cũ.
Hơi thở của người đàn bà vẫn xộc thẳng vào mũi anh, nóng như than. Gió thổi
những sợi tóc chị cọ vào mặt anh vừa ngứa vừa nhột mà anh không dám gãi. Nhưng
trạng thái ấy kéo dài không lâu vì chị đã rút chân khỏi nấc thang để chui hẳn
vào chòi:
– Tôi không làm phiền hà gì anh cả… Xin hãy tin tôi. Tôi có gia thất nhưng
chồng tôi chết lũ năm
trước. Anh ấy theo chúng bạn đi buôn gỗ… Tôi làm ăn cơ cực chẳng
được thong thả như người bên phố, nhưng chỉ hơn anh hai tuổi… Chị nói một mạch,
không ngừng, không vấp váp. Dường như những lời lẽ ấy đã được nghiền ngẫm từ
lâu, đã nung nấu từ lâu trong trái tim dập nát của chị khiến anh mủi lòng. Rồi
anh ngửi thấy mùi mồ hôi của một người đàn bà lam lũ. Chắc hẳn chị đã phải quay
về xóm Hà để nấu ăn và tắm rửa cho lũ con, sau buổi chợ. Rồi tắm táp cho mình
trước lúc đến đây. Anh chưa từng đến xóm Hà nhưng anh mường tượng đoạn đường
năm cây số từ nhà chị đến chòi cất rớ của mình, trong bóng tối, ven những bờ
cát mấp mô và sụt lở.
– Tôi… Tôi biết anhtừ lâu… Tôi cũng biết chuyện đời anh dân làng Bảo kể… Xin
hãy tin tôi…
Những lời nói cuối là những mảnh ngôn từ được chắp vá một cách khó nhọc. Rồi
đột ngột chị úp mặt vào ngực anh, bàn tay thô nhám của chị rờ rẫm lên da thịt
anh:
– Có nháp không?…
Tôi có làm đau anh không?…
Chị hỏi và không đợi anh trả lời chị lật bàn tay lên, không dùng những ngón tay
mà dùng lưng bàn tay để ve vuốt. Anh vừa ngượng vừa thương hại, lúng búng đáp:
– Không… không sao cả… Ðừng ngại.
Người đàn bà thì thầm:
– Anh tốt quá… anh tốt với tôi quá…
Rồi như cảm thấy những lời lẽ vụng về thô mộc đó không biểu lộ được sự hàm ơn
chị cúi xuống hôn ngực Hoan. Bắt đầu từ lúc ấy anh chẳng còn biết gì đến gì
ngoài những cảm xúc xác thực và mạnh mẽ chị khêu dậy nơi thân xác anh. Cặp môi
dạn dĩ đói khát của chị đưa anh vào cõi khoái lạc chưa từng nếm trải. Anh cảm
nhận một cách minh bạch rằng anh hoàn toàn tỉnh táo, sáng suốt, không giọt men
trong dạ dày, không một ý nghĩa hoặc liên tưởng nào làm hưng phấn dục tình
trước khi người đàn bà xóm Hà đến, vậy mà chị đã dẫn anh leo lên từng nấc thang
một, từng nấc liên tục không ngưng nghỉ trên cây cầu thang bất định đưa con
người tới tột cùng sung sướng.
– Hãy yên. Hãy lặng yên…
Chị bảo Hoan, trong khoảnh khắc ngưng lặng giữa hai cơn hành lạch và rút từ đâu
đó chiếc khăn tay
lau mồ hôi trên trán, trên lưng anh.
– Ðể mặc tôi… mặc tôi…
Chị thì thầm vào một lúc khác, họ chuyển tư thế. Tay chị nhẹ nhàng và kiên
nhẫn, khi cởi từng chiếc
khuy trên chiếc quần soóc anh mặc, khi đỡ tấm lưng anh vì anh ở
vào một vị trí chông chênh, cử chỉ nào cũng nương nhẹ cũng đầy cẩn trọng, cũng
đầy tinh thần khích lệ và bao dung như trong cuộc làm tình này chính chị mới là
đàn ông thứ thiệt, kẻ hùng mạnh rèn tập, dẫn dắt và chịu trách nhiệm trước bạn
tình…
Hoan không biết họ đã qua bao nhiêu thời gian để tới lúc tàn cuộc. Ngất ngây vì
mãn nguyện anh nằm đờ dại, không biết chuyện gì xảy chung quanh. Chỉ khi người
đàn bà đã sửa sang xong quần áo ra về, bước chân chị làm cây cầu thang rung
chuyển anh mới bừng tỉnh.
Hối hả, anh vươn tay nắm vạt áo chị:
– Chị… Chị còn tới đây nữa chứ…
Và chị đáp khẽ như thì thầm:
– Dạ… Tôi sẽ tới.
Cây cầu thang rún rẩy dưới chân chị. Sau tiếng kẹt cuối cùng nó lặng im. Hoan
chồm dậy, ló đầu khỏi
chòi nhìn theo. Ðêm không trăng. Người đàn bà đã chìm vào bóng
tối.
… Nhất định sớm mai ta sẽ nhận ra người đàn bà này trong đám dân buôn cá xóm
Hà… Mai ta phải dậy sớm…
Nhưng cuộc làm tình sung mãn đã kéo anh vào giấc ngủ dài. Hôm sau, lúc Hoan mở
mắt kim đồng hồ đeo tay chỉ chín giờ mười hai phút. Mặt trời chói chang trên
sông. Mọi người làm việc từ lâu chiếc rớ của anh vẫn khua càng phơi nắng. Trên
sàn, đứa em gái đã đặt bình trà mới và gói xôi đậu xanh. Xôi đã nguội, bình trà
chỉ còn âm ấm. Con đường dọc sông lên xóm Hà vắng ngơ ngắt, nắng dội xuống cát
chang chang. Hoan biết người đàn bà ấy đã qua đây và muốn gặp mặt chị anh phải
chờ lúc chiều tà. Nhưng buổi chiều, anh không thấy chị. Anh đã nhìn kĩ từng
gương mặt đám đàn bà xóm Hà nhưng chẳng gương mặt nào khiến anh tìm được chút
dính líu tới người đàn bà đêm qua. Linh tính anh mách bảo rằng sẽ chẳng bao giờ
chị còn qua đây nữa. Sáng hôm sau Hoan dậy thật sớm, xuốngchòi, đón ngang đám
đàn bà xóm Hà, để không ai có thể lọt ngoài tầm mắt của anh. Và lần này, anh
đoan chắc rằng điều linh tính mách bảo anh là sự thật. Người đàn bà đến với anh
ban đêm đã lánh mặt anh dưới ánh ngày. Như thế, chị sẽ phải đi vòng lên bến đò
trên, mua thêm mười cây số. Bến đò ấy có tên Quán hàu, xưa người ta thường bán
hàu tươi và cháo hàu cho khách qua sông.
… Chị ấy là ai?… Người thầy của ta trên trường tình ái?…
Ðêm thứ năm chị trở lại. Vào lúc anh vừa thiu thiu ngủ vừa khắc khoải chờ. Nhịp
rung của cây cầuChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khác
thang đánh thức anh tức khắc.
Anh nhổm dậy, chìa tay cho chị nắm. Người đàn bà vừa vào chòi, anh đã cất tiếng
hỏi dồn:
– Sao chị lại đi vòng lối Quán Hàu… Tôi chờ chị suốt bốn ngày
không thấy?…
Người đàn bà im lặng:
Hoan bảo:
– Sao chị tự làm khổ mình như vậy? Tôi không muốn vì tôi mà người
khác phải cực lòng?
– Không… không… chẳng cực nhọc gì. Tôi đi qua Quán Hàu buôn thêm ít
hàng khác.
Chị đáp hối hả đoạn mò mẫm mở chiếc túi nhỏ đem theo lấy mấy
tấm bánh lá dúi vào tay anh:
– Bánh tôi làm… Ðể mai mà ăn sáng…
Kiểu như chị cho trẻ con quà để xí xóa một lời nói dối. Mấy tấm bánh lá
còn nóng sực. Ðó tấm tình của chị dành cho anh sau những lo toan của việc
mưu sinh. Anh muốn nói với chị rằng anh không còn là trẻ nhỏ và cuộc sống
của anh còn phong lưu hơn chị rằng cuộc làm tình không vụ lợi của chị đã
là quà tặng đáng giá với anh, rằng từ nay về sau chị đừng nhọc lòng lo
lắng cho anh như vậy… Nhưng anh chẳng phải kẻ bẻm mép cũng chẳng là người
hoạt khẩu, mọi ý nghĩ đều mắc cứng nơi cuống lưỡi và sau rốt anh đành lắp
bắp:
– Cảm ơn… Cảm ơn…
– Ðừng cảm ơn… Ðừng cảm ơn tôi…
… Chị thì thào đoạn nắm tay anh đặt lên ngực mình. Anh thấy tim chị đập
thình thịch như nhịp con tàu hơi nước cổ lỗ vẫn qua ga Thuận Lý, khuôn
ngực chị phập phồng, một khuôn ngực bị thời gian và sinh nở tàn phá. Tim
anh bỗng tràn đầy thương xót:
– Cảm ơn… Cảm ơn…
Anh lặp lại như một gã ngớ ngẩn, ghì xiết chị. Người đàn bà vô danh đó đưa
lưng bàn tay để ve vuốt anh bởi e sợ những ngón tay chai sạn, bị gai cá
đâm xóc của chị làm đau làn da chàng thư sinh trẻ. Và lần nữa chị dẫn anh
tới miền cực lạc…
Ðã qua hơn mười năm, hình ảnh người đàn bà xóm Hà bỗng trồi
lên ngọn sóng thời gian, thúc hối anh quay quắt. Suốt một tuần anh nhớ cây
chòi cất rớ ven sông, nhớ ánh mặt trời chói chang đám cá nhảy lao xao nơi
đáy rớ, nhớ sóng, nhớ gió, nhớ cây cầu thang rung rinh, nhớ tiếng sàn ván
cót két dưới lưng trong các cuộc làm tình. Thoạt đầu, chỉ những đêm tối
trăng hẳn. Sau rồi, cả những đêm trăng khuyết. Nhưng không đêm nào anh
nhìn rõ mặt chị. Anh không biết chị mặc quần áo màu gì, da chị thẫm
hay sáng, ngay cả những nốt tàn nhang trên hai gò má chị anh cứ đinh ninh
là sự thật, vào một lần anh hỏi, chị cười bảo:
– Ðâu có? Tôi đâu có tàn nhang…
Và anh đâm ngờ vực trí nhớ của mình: Có lẽ anh nhầm thật. Chỉ
những người trắng mịn mới có tàn nhang, gái làng Bảo, xóm Hà chắc khó có
màu da trắng. Sau rốt, anh tin rằng chị có cặp mắt buồn. Nhưng liệu người
đàn bà góa bụa nào có được đôi mắt vui tươi?… Có thể chính cặp mắt buồn
của chị cũng do anh tưởng tượng. Cuối cùng, chỉ có một sự thật không thể
chối cãi, lúc nào chị cũng đội nón sùm sụp như tất cả đám dân buôn bán tần
tảo của xóm Hà.
Ðể bù lại, trí nhớ anh ghi thật rõ rành mùi mồ hôi, đôi bàn
tay thô tháp mà chị thường cố giấu giếm để khỏi làm đau rát da thịt anh,
những lời thì thầm nhỏ nhẹ mà dứt khoát tựa hồ những mệnh lệnh đưa ra giữa
cuộc làm tình, trong căn chòi nhỏ bé bốn bề bóng đêm vây bọc, anh
là chú học trò ngoan ngoãn và chị là người thầy, kẻ dẫn dắt anh không mệt
mỏi trong cuộc hành trình tới miền hoan lạc…
… Gái, tên chị ấy là Gái… Sao hồi ấy ta không hỏi chị ấy họ
gì. Và sao ta không lên xóm Hà một lần xem chị ấy sống ra sao… Ta đã ơ hờ
quá đổi với một người đàn bà mà bao đêm thân xác họ và thân xác ta hòa
nhập trong một đam mê, hơi thở họ gần kề như khí trời ta hít thở… Dù sao
chăng nữa, chị ấy cũng là một mảnh đời của ta, một ân nhân chưa trả nghĩa…
Nhiều ngày, ý nghĩ ấy day dứt anh. Rồi đột ngột ba
giờ chiều nay anh đùng đùng phóng xe sang làng Bảo. Giờ ấy, làng vắng. Dân
chài lênh đênh trên biển, dân làm nước mắm đang ở các xưởng chượp, xưởng
nấu, dân buôn còn ngồi ngoài chợ chưa về, chỉ còn lại đám đàn bà nội trợ
và trẻ nhỏ. Các chòi rớ ven sông thưa thớt hơn xưa. Người ta bảo mấy năm
rày cá sông ít hẳn so với thời
trước cuộc chiến. Hoan đứng trên bãi cát, ngắm nơi từng cất chòi
rớ của anh nay
nằm rã rượi hai con thuyền mục. Mặt trời sáng chói và sóng vẫn lao
xao nô rỡn
như xưa, như ngàn xưa, như mười năm trước. Con đường lên xóm Hà
vắng lặng cát trắng phản chiếu ánh trời. Tít xa hàng phi lao nghiêng một
đường lượn xanh thẫm, một nét buồn mảnh mai giữa không gian tưng bừng
gió nắng:
… Như xưa và chẳng như xưa, cảnh vật cũng như ta, như xưa và
chẳng như xưa… Gã trai trẻ đã chết và người đàn ông côi cút đang hồi nhớ
nhịp rung chuyển của cây cầu thang năm cũ. Vẫn nỗi khốn khổ ấy nhưng con
người đã khác và hạnh phúc cũng chẳng còn hương vị ngày xưa… Sao bỗng dưng
ta buồn phiền như gã thi sĩ thất tình. Thi sĩ chẳng phải thân phận của ta
và ta chẳng thèm muốn thân phận của đám người vừa yếu hèn vừa khoác lác…
Nhưng ta nhớ người đàn bà ấy, kẻ vô danh, không gương mặt… Có lẽ ta phải
lên xóm Hà, ít nhất cũng một lần nhìn mặt người đàn bà từng đem lại
hạnh phúc cho ta…
Ðường lên xóm Hà thuần cát, xe máy có thể chạy với tốc độ
nhỏ, không quá hai mươi lăm cây số giờ. Ðồng hồ chỉ bốn giờ kém mươi lăm
phút, Hoan ước tính anh dư thừa thời gian tìm kiếm. Một làng nhỏ mang tên
xóm Hà chắc không quá đông dân. Nhưng đúng lúc anh nổ máy, một người đàn
bà trẻ chạy xồng xộc tới:
– Anh Hoan… Trời ơi anh Hoan… Răng tới đây mà chẳng vào nhà?
Mọi người nhắc tới anh luôn… Vào nhà đã…
Một tay cô xách chai dầu nấu ăn, tay kia níu chặt lấy anh. Cô
bé chín tuổi ngày xưa đã trở thành người đàn bà, hai má đỏ rực. Hoan nhìn
cô, cười tủm tỉm:
– Lớn quá, xinh đẹp ra nhiều quá… Anh không nhận ra nổi…
Cô cười sung sướng:
– Bữa trước anh sang chơi em lại đưa cháu về bên nội… Tiếc
quá… Bọn em cưới nhau trong thời chiến nên chẳng biết anh đâu mà tìm. Bữa
nào rảnh anh sang đây, chúng em xin làm riêng một mâm đãi bác.
– Không được. Một mâm cỗ thường và một mâm cỗ phạt.
– Dạ. Ba mâm cho đủ:
Một mâm theo lệ thường. Một mâm cỗ phạt. Mâm thứ ba để bác nhận
cháu. Chồng em là trưởng tộc, em đẻ cho anh ấy một thằng cu, bác cứ đến cả
nhà phải xúm lại hầu.
Giọng cô đầy vẻ đắc ý. Hoan đưa mắt nhìn lần nữa người đàn bà
trẻ mặt rám đỏ cổ tròn nần nẫn ngực núng nính nhảy dưới lớp áo lụa để tìm
đứa bé gái gầy gò ngày xưa anh yêu mến, đứa bé quanh năm mặc quần đùi như
con trai, tóc buộc ngỏng đuôi gà trống bằng sợi thun đỏ. Thấy Hoan nhìn
mình, cô hỏi:
– Em khác xưa nhiều lắm hả?
Anh gật đầu:
– Nếu em không gọi trước, anh không thể nào nhận ra… Ngày anh
tới đây, em như con chim chích… Nặng không đầy mười tám cân…
Cô bật cười khanh khách:
– Hơn mười năm rồi còn gì?… Giờ em nặng hơn sáu mươi cân…
Họ
đã tới cổng và cô giúp Hoan lôi chiếc xe nặng trịch qua mấy bậc thềm xếp
đá. Anh ở lại đó hơn một tiếng đồng hồ, chuyện trò với bà mẹ, cô em bạn.
Lúc hơn năm giờ Hoan mới lên đường. Trời vẫn nắng rỡ, giải cát ven sông trắng
ngời như dát bạc. Chừng hai
chục
phút sau anh tới nơi. Cái làng anh tưởng tượng còn trù phú hơn xóm Hà anh đặt
chân tới. Vài chục nóc nhà lá nằm giữa vùng ruộng hẹp, lúa đang xanh. Con mương
nhỏ chạy hình cánh cung vây nửa làng, trên đó những đàn vịt đang ngụp lặn. Ðất
mặn nên cây vườn còi cọc chỉ những rặng điền thanh là xanh tốt. Ðường làng đen
xỉn màu bùn pha cát. Ngay đầu làng nơi anh thoạt đến, một quán bán nước nghèo
như đã tồn tại từ vài thế kỷ trước. Mái nhà lá mục ải nặng trĩu dây bìm hoa tím
trùm từ nóc xuống chân rào. Một chiếc chõng tre cũ kỹ bốn chân chỉ còn hai, hai
chân gẫy được thay bằng hai chồng gạch, trên chõng bày vài nải chuối chín, mấy
tấm bánh gai và một đùm bánh lá, thứ bánh làm bằng bột gạo đỏ rắc vừng người
đàn bà mười năm trước đã đem cho anh. Hoan hỏi bà lão bán hàng:
– Bà có nhận trông xe không ạ?
– Có. Nhưng chú phải khóa vào.
– Lúc nào bà đóng cửa hàng ạ?
– Cửa hàng nhà tôi lúc nào cũng mở… Mà cần chi phải đóng?…
Hoan chợt nhận ra ngôi quán nhỏ được dọn dưới tấm liếp cửa. Tấm
liếp đó đêm ngày đều được chống lên bởi hai cây cọc tre, trừ lúc gió bão. Bà
lão có lý. Nhà bà không có cửa vì thế quán của bà cũng chẳng cần phải đóng. Anh
nói:
– Lúc ra cháu xin gửi tiền bà.
Bà đáp, chẳng ra mặn cũng không ra nhạt:
– Ờ.
Ði được vài bước, Hoan quay lại:
– Bà biết ai là Gái trong làng này không?
– Gái à?… Làng này có bốn đứa tên Gái, anh muốn hỏi Gái nào?…
Thấy điệu bộ lúng túng của anh, bà nói tiếp:
– Gái già nhất đủ cháu nội cháu ngoại ở cách nhà tôi hai ngõ. Gái
thứ hai mười sáu tuổi chưa chồng ở xóm Vịt. Cái Gái nữa đi thanh niên xung
phong về ngót nghét ba mươi cũng chưa chồng cũng ở xóm Vịt. Còn cái Gái thứ tư
có năm con ở xóm Mưng, thẳng vườn mía mưng trông ra…
Bà giơ cây quạt chỉ đường cho anh. Nghe bà lão kể, anh làm phép
loại trừ và nhận biết người đàn bà anh muốn tìm chính là Gái xóm Mưng. Có lẽ
chị đã tái hôn và có thêm ba đứa con nữa với người chồng thứ hai…
Xóm Hà thưa thớt, nhà nọ nhìn thông thống sang nhà kia, hàng rào
thấp rau muống. Không có cây ăn quả. Theo lời bà lão bán hàng anh cứ thẳng vườn
mía mưng đi. Ngót trăm thước, anh đã tới trường làng, một mảnh đất nện đen thui
trước mấy gian nhà lá không cửa vách không tường được ngăn bằng vài tấm liếp
tre, ghế bàn xiêu vẹo. Chỉ mấy tấm bảng đen là ngay ngắn và chúng là thứ duy
nhất để nhận biết đây là nơi trẻ con tới học. Trường vắng ngắt, vài đứa nhóc
đang chơi bi trên sân. Hoan hỏi chúng:
– Các cháu có biết nhà bà Gái ở đâu không?
Sáu đứa bé đều ngẩng nhìn anh, đứa nào đứa nấy mũi rải loang
luếch. Thấy chúng im lặng, Hoan nhắc lại:
– Các cháu làm ơn chỉ giùm cho bác nhà bà Gái… Gái có năm con ấy.
Nghe anh nói rõ ràng, năm đứa quay lại nhìn thằng bé nhất có gương
mặt tròn và cái mũi tẹt dí:
– Tủn kìa… khách hỏi nhà mày đó…
Thằng bé Tủn ngó chòng chọc vào mặt anh, cái trán vừa dô vừa ngắn
nhăn lại, hai bàn tay vẫn chống xuống đất hệt như con chó nhỏ.
Hoan bật cười:
– Cháu phải con của mẹ Gái không?
– Phải.
– Ðưa chú về nhà.
Tay thằng bé vẫn chống trước cái lỗ bi, dường như luyến tiếc. Nó
gặng hỏi:
– Ông hỏi chi mạ tui?
Hoan cao giọng:
– Ðưa chú về nhà rồi lại ra chơi tiếp, mau.
Cái giọng mệnh lệnh của anh lần này có hiệu lực. Thằng bé nhấc hai
bàn tay khỏi mặt đất chùi vào đít quần, đoạn bỏ hòn bi vào túi áo đứng lên:
– Thì đi…
Hoan theo đứa trẻ qua ba ngõ nữa, tới chiếc cổng thấp uốn bằng
tre, cánh cổng cũng đan bằng cành tre, thứ tre ngà chỉ to hơn ngón chân cái.
Ngõ nhỏ dẫn thẳng vào mảnh sân xi măng, trên đó anh thấy tấm lưng của một bà
lão đang cắm cúi băm bèo. Phía xa hơn, ở góc sân bên kia một người đàn ông mù
đeo cặp kính đen ngồi tẻ từng hạt ngô xuống chiếc sàng kê bên dưới.
– Ðó, nhà tui đó.
Thằng bé bảo anh rồi quay lưng định chạy đi. Hoan túm áo nó lại:
– Mẹ cháu đâu?
– Ðó…
Nó cau có đáp, vùng vằng quẫy khỏi tay anh:
– Mạ tui băm bèo đó… Răng ông không trộ?…
Nói đoạn nó tuột khỏi tay anh vùng chạy lại phía sân trường. Hoan
đứng sững. Anh nhìn bà lão thái bèo trên sân. Tấm lưng mỏng dẹt, còng xuống
dưới lớp vải đen bạc thếch… Làm sao người đàn bà hừng hực dục tình năm xưa lại
có thể trở thành bà lão lưng gù đang ngồi băm bèo trước mắt anh chừng dăm
thước?… Dù mười năm, thời gian cũng không thể biến đổi con người như vậy nếu
không phải bùa phép của yêu tinh hoặc pháp thuật loài ma quỷ… Người đàn bà vẫn
cắm cúi thái bèo. Hết mớ bèo, bà ta vươn tay kéo rổ bèo khác trên sân, cách già
một tầm với. Cử chỉ đó khiến chiếc khăn buộc trên đầu tụt xuống. Hoan nhìn thấy
búi tóc nhỏ gài cây trâm sừng. Tim anh buốt lạnh:
… Phải, đó chính là người ấy… Chính người đàn bà đã cùng ta… Bây
giờ ta phải tin vào pháp thuật của thời gian… Không còn lý do ngờ vực…
Người đàn bà năm xưa qua đêm với anh trên chòi rớ thường kết tóc
thành đuôi sam rồi cuốn thành búi. Tóc chị không dài quá lưng nhưng khá dầy và
cái đuôi sam của chị đôi lần xổ tung trong cuộc tình:
… Chết thật, cây trâm của tôi… cây trâm rơi đâu mất?…
Hoan vẫn mò mẫm giúp chị tìm cây trâm sừng trên những tấm ván lát
sàn và vì thế anh không quên được nó. Một cây trâm thô kệch, đầu tiện hình quả
cầu, chắc dùng đã lâu đời nên nhẵn bóng. Sau này, anh tìm mua rất nhiều kẹp tóc
lẫn trâm cài tóc cho Miên, chưa lần nào bắt gặp một cây trâm gài kiểu “ăn lấy
chắc mặc lấy bền” như thế. Phải nói là nó gần lớn bằng chiếc que xiên thịt
nướng. Bây giờ, anh nhìn thấy nó trên búi tóc của bà già, cái búi tóc nhỏ xíu
lốm đốm muối tiêu càng thảm hại hơn dưới cây trâm cài quá cỡ. Anh vẫn nhớ mùi
tóc người đàn bà trên chòi rớ đôi lần anh đưa tay nắn búi tóc chị, nó lớn bằng
trái bưởi non. Bàn tay chị thô tháp nhưng hai cánh tay chắc lẳn, và cặp đùi rắn
như thép. Cặp đùi của một người đàn bà lam lũ, mỗi ngày đi bộ không dưới bốn
chục cây.
Thân thể chị cũng là thân thể kẻ phải làm quen với cường độ và
trường độ của thứ lao động nặng, vào trường tình nó chuyển động như cỗ máy
không mệt mỏi… Con người ấy, nàng tiên dục tình câm lặng ấy đã trở thành bà lão
với búi tóc hoa râm?…
Không chỉ trái tim anh buốt lạnh mà thịt da anh cũng buốt lạnh.
Anh
nhìn lần nữa búi tóc sau gáy bà già. Nó vẫn được kết sam cẩn thận trước khi
búi. Và cây trâm gài cùng một kiểu như xưa. Một cơn gió chạy ngang khiến anh
rùng mình. Anh quay lưng sải bước về phía trường làng. Lũ nhỏ vẫn chơi bi,
nhưng chỉ còn lại ba đứa. Ba đứa kia chắc đã về nhà. Anh gọi Tủn:
–
Ra đây chú có việc nhờ…
Nó miễn cưỡng đứng lên. Nhưng hai đứa kia chắc đã chán cuộc chơi
nên nhân đó cũng đứng dậy:
– Thôi… đéo chơi nữa. Ðói bụng rồi.
– Tao về đây Tũn.
Tũn bảo:
– Mày còn nợ ông đấy nhé.
Ðứa kia gật đầu:
– Nhớ rồi… Mai…
Khi hai đứa bạn đi xa rồi, thằng Tũn quay lại hỏi anh:
– Ông nhờ gì tui?
Hoan rút trong túi xấp tiền bảo:
– Hồi trước mẹ cháu buôn cá trên chợ, chú lỡ vay món tiền. Rồi Mỹ
đến thả bom chú đi sơ tán chưa kịp trả. Giờ cháu đưa món tiền này cho mẹ.
Nó vặn:
– Răng hồi nãy ông không đưa cho mạ tui?
Hoan đáp:
– Chú muốn đưa từ nãy nhưng e mẹ cháu không chịu nhận.
Thằng bé đưa tay quẹt mũi rồi nói:
– Thôi được, đưa đây.
Nó giật phắt món tiền trên tay anh rồi quay lưng đi khiến anh sửng
sốt. Hoan sợ nó sẽ đem số tiền ấy đi ăn quà mà chẳng hiểu giá trị của những tờ
giấy nó cầm trên tay là bao nhiêu. Ở những làng nghèo như xóm Hà, thường những
đứa bé mười bốn mười lăm cũng chưa tiêu đến bạc đồng vì bố mẹ chúng bòn cả vườn
rau mới được vài hào lẻ. Anh đi theo thằng bé. Nhưng nó không tìm hàng quà mà
cắm đầu cắm cổ chạy một mạch về nhà, gọi mẹ:
– Bớ mạ, bớ… mạ… bớ mạ ạ…
Người mẹ vẫn băm bèo, lên tiếng hỏi:
– Chi vậy?
Anh nhận ra tiếng người đàn bà ngày xưa dù âm điệu thay đổi chút
ít.
– Cầm tiền nè.
Thằng bé dúi nắm tiền vào tay mẹ. Người đàn bà hoảng hốt kêu:
– Mi lấy đâu ra?… Mi lấy thứ này ở nhà ai?…
– Tui lấy đâu ra?…
Nó vặc lại mẹ rồi giơ tay chỉ:
– Tui đánh bi ngoài sân trường kia kìa, có ông khách tới hỏi thăm
thăm mạ, bảo ông ấy nợ mạ món tiền nay đem trả.
– Ông khách nào, người ra răng?…
Hoan nghe người đàn bà hỏi thảng thốt, giọng run lên, hiểu rằng
chị đã đoán ra anh:
– Người ra răng, ông ta ra răng?
– Ông ta trắng bóc à… Cao to như Tây…
Hoan thấy người đàn bà ném cây dao xuống đống bèo, vụt đứng lên.
Anh quay lưng bỏ chạy. Vài giây sau tới ngã tư, anh rẽ vào lối khuất, nhảy qua
mấy dòng lạch nhỏ chảy lững lờ thứ nước màu đen, băng qua mấy mảnh vườn thưa
hàng rào chỉ cao ngang gối. Cứ cắm đầu chạy thục mạng như vậy hồi sau anh cũng
về được vườn mía mưng mà bà lão bán hàng đã chỉ. Khi đó, anh mới tin chắc đã xa
hẳn ngôi nhà của người đàn bà. Anh dừng lại thở, để nhịp tim đập thình thịch nguôi
dần:
… Cớ sao ta lại chạy như thằng ăn cắp?… Một hành vi kì cục ta chưa
có bao giờ. Lỡ ai trông thấy và lỡ họ nghi ta làm điều ám muội, bao nhiêu phiền
hà sẽ xảy ra?…
Trở lại quán nước anh trả tiền bà lão rồi phóng xe đi ngay. Ðường
vắng, gió ù ù thổi nhưng anh vẫn phóng xe như điên:… Thật hú vía… May không ai
nhìn thấy… Anh mường tượng cảnh vừa xảy ra: Một gã đàn ông cao lớn, đường bệ,
ăn mặc chỉnh tề bỗng co chân chạy như gã ăn cắp gà, cuống cuồng nhảy qua các
hàng rào, các lạch nước, rúc vào các lối ngang ngõ tắt, với dáng điệu của kẻ
tội phạm bị săn đuổi, với vẻ mặt thất thần của kẻ bị ma chài… Vì sao bỗng dưng
anh sợ hãi đến như vậy?… Chính anh cũng không hiểu. Anh định bụng tìm chị, một
lần nhìn rõ mặt chị, nói vài lời tri ân… và phút cuối anh đã bỏ chạy như kẻ ăn
trộm gà…
Trở lại làng Bảo, Hoan gửi xe ở một quán nước rồi ra bờ sông.
Hoàng hôn đã tắt. Bãi cát tối vì đêm không trăng. Anh đi quanh lên
các nấc thang tiếng cọt kẹt của những tấm ván dưới sức nặng và tiếng chị thầm
thì:
– Có… nháp không?… Tôi có làm anh đau không?…
Nước mắt Hoan ứa ra:
… Không, không, không… Ta không thể gặp người đàn bà hôm nay để
giữ nguyên vẹn người đàn bà mười năm trước, người đàn bà không tuổi, không tên
và không rõ mặt…
Rồi cảm thấy không thể ngồi lại trên bờ sông, nơi hồi ức nghiền
nát tâm can, anh đứng dậy lấy xe quay về thành phố. Nhưng khi phóng tới ngả rẽ
xuống bến đò, anh chợt thấy quầng sáng phía bên kia thành phố sao ghẻ lạnh, sao
hững hờ và dường như bên kia dòng Lệ Nhật không phải là mảnh đất anh từng sinh
trưởng mà là một lục địa hoang vu chưa có dấu chân người. Lúc ấy, tiếng loa
phóng thanh từ câu lạc bộ làng Bảo bắt đầu cất lên. Tiếng hát vụng dại, tiếng
cười nói lao xao của đám trai gái làng chài thu hút anh.
Anh như kẻ bị bỏ bùa mê, quay xe theo vùng ánh sáng… Ðứng trong
đám đông dưới sân khấu, anh vừa nghe hát vừa nhìn những cô gái, những gã trai
tươi rói niềm sung sướng, nhớ tiếc tuổi thơ, nhớ tiếc thời mộng mơ, nhớ tiếc
người đàn bà đã mất. Những nhớ tiếc hòa trộn nhau lan chảy như dòng suối mùa
đông, trong suốt như pha lê, buốt lạnh. Hoan cảm thấy anh không còn tự chủ
được. Anh chẳng biết anh là ai. Khi đám gái trai thả micro rời sân khấu, rút
giầy dép cắp vào nách để đi ra bãi biển, anh chợt thấy bơ vơ:
… Ta chưa bao giờ ra bãi biển, dù đã ở đây mấy năm ròng… Hà cớ chi
hôm nay không thử đưa chân tới đó?…
Anh nghĩ thế, và anh lùi lũi đi theo họ ra đây…
Giờ anh ngồi nhìn biển, khép chặt cặp đùi để trấn áp cơn đói dục
tình. Nhưng cơn đói không nguôi dịu. Biển vẫn vỗ sóng và gió vẫn đưa lời thì
thầm, điệu cười rúc rích, hơi thở hào hển hoặc tiếng kêu hoan lạc của những cặp
tình nhân. Bất giác, anh quay đầu nhìn lên ngôi lều chứa lưới cách anh vài chục
bước chân:
… Miên ơi, em ở đâu vậy?… Em hãy bước ra khỏi bóng tối…
Trái tim anh thốt lên, trong khi mắt anh đăm đăm nhìn cái khung
đen sẫm trước lều. Anh chờ người đàn bà của anh từ trong đó bước ra, bộ quần áo
màu lục sẫm, da thịt trắng ngần của chị làm biển đêm ngời rạng… Thời gian trôi
đi, hai mí mắt anh tê mỏi. Anh đưa lòng bàn day đôi mi mắt và hiểu rằng ước
mộng ấy hão huyền:
… Em đã là vợ kẻ khác, em đã thuộc về người khác…
Hai bàn tay anh vặn chặt lấy nhau. Cảm giác đau ấy rất thực. Thực
như sự xác định quyền sở hữu của người đàn ông khác với vợ anh.
Anh kiệt sức. Trái tim anh bị rút rỗng chỉ còn là thứ vỏ, tựa vỏ
trái bầu khô trong khi bộ phận sinh dục mỗi lúc mỗi cương cứng hung hãn cuồng
bạo thúc hối. Hoan nhắm mắt, gục đầu xuống gối khao khát một giọng đàn bà xa
lạ, một giọng nói anh chưa nghe thấy bao giờ. Giọng nói ấy sẽ vang lên từ phía
sau lưng anh, cùng lúc một bàn tay nặng trịch của người chài lưới sẽ đặt lên
vai anh:
… Tôi là gái góa. Tôi không muốn làm phiền anh, tôi không yêu cầu
gì nơi anh cả… Tôi ưng anh đã từ lâu…
Chương 14
Vào những sáng thu, thung lũng nở một loài hoa li ti giống những
giọt sương màu lục thẫm. Ðó có thể là loài hoa phù du nhất trong kiếp các loài
hoa vì nó chỉ sống tất thảy vài giờ. Cỡ bảy giờ, bảy rưỡi sáng, mặt trời thu se
khô cỏ, các nụ hoa bắt đầu xòe cánh. Quãng tám giờ cánh hoa đã nở hết cỡ và
bông hoa sống khoảnh khắc viên mãn nhất với sắc đẹp dị thường. Hoa nở từng
chùm, đong đưa muôn ngàn giọt lục trên những tầng lá dày đặc màu cẩm thạch có
ánh bạc như phủ lông nhung. Mười giờ hoặc mười rưỡi, các cánh hoa mong manh đã
bắt đầu héo, xoăn lại nơi mép cánh và đúng ngọ, năm cánh hoa teo tóp nhăn nhúm
cuộn thành một chấm đen. Chưa họa sĩ nào vẽ nổi màu lục kì lạ của loài hoa này,
cũng chưa thi sĩ nào miêu tả được vẻ đẹp cực mong manh huyền ảo của loài hoa
này.
Vốn là lũ bẻm mép và lười biếng, họ không thể lặn lội tới một miền
xa xôi như Xóm Núi, các nàng thơ của họ thường chỉ bay lượn quanh bàn rượu,
hoặc bàn rượu sang trọng nơi màu vang đỏ điệp với sắc các bông hồng, hoặc bàn
rượu hạ lưu nơi lũ ruồi vo ve bên đĩa lòng lợn luộc hay đĩa nộm da bò với
thính. Bôn không phải thi sĩ nhưng sớm nay, bất chợt bắt gặp cả thung lũng bừng
lên một màu lục thẫm, màu lục trong suốt long lanh tựa ánh trời ngân tụ, anh
bỗng sững sờ. Ðây là quê hương, vùng đất mòn nhẵn dấu chân anh, vậy sao mãi tới
hôm nay anh mới nhìn thấy loài hoa kỳ lạ. Phải chăng nó vừa mọc lên trong những
năm anh xa nhà, do loài chim di trú bay ngang thả hạt xuống, hoặc tuổi thơ cơ
cực không cho anh một khoảnh khắc dư thừa để ngắm cảnh vật?… Anh không dám chắc
đâu là sự thật, chỉ biết loài hoa mong manh kia giống đám mây lục sà xuống
thung lũng, xao động giữa các búi cỏ lau trắng bạc và những thân soan dại khô
cằn bồng bềnh trong ánh mặt trời thu, ánh mặt trời không còn chói chang đã ngả
màu rơm mới. Vẻ đẹp của nó khiến anh ngơ ngẩn. Anh ngồi bệt xuống cỏ, nhìn ánh
nắng trôi dạt trên triền hoa, bỗng dưng muốn khóc, muốn rã rời đứt đoạn chân
tay, muốn ai đó hoặc xiên một lưỡi lê qua trái tim anh để kết thúc cuộc đơn hành
khốn khổ trên cõi đời, hoặc quắp lấy anh như đại bàng quắp một con gà chiếp
mang đi thật xa, thật xa, thả anh xuống một hoang đảo, một sa mạc, một miền xa
lắc xa lơ cách biệt hẳn cõi người, để anh tạo lập một cuộc sống mới cùng cỏ cây
muông thú. Cuộc sống đó có thể cực khổ hơn nhưng không nhục nhã đọa đầy như
cuộc sống ở nơi đây…
Tiếng kêu be be của bầy dê nhà ai vọng tới. Theo thói quen, Bôn
đưa tay rờ cây liềm và chiếc bao tải giắt lưng. Rồi nỗi chán chường khiến anh
dật phắt chúng ra, ném xuống cỏ… Cây liềm ấy đã cắt bao nhiêu tạ lá Dâm dương
hoắc, anh không còn nhớ… Ðã bao ngày trời anh kiên trì uống thứ thuốc ông già
Phiều tốt bụng kê đơn: Dâm dương hoắc – Nữ trinh tử – Tật lê tử. Ông cho anh
hai vị Nữ trinh tử và Tật lê tử. Anh theo chân loài dê lên núi cắt lá dâm dương
hoắc. Già Ðọt cho anh rượu mạnh nấu bằng gạo nếp nương nhà. Mọi người cưu mang
anh như cưu mang kẻ tật nguyền. Nỗi ê chề anh không mường tượng ra và không
chịu thấu nhưng nó là sự thật.
Bôn nhận ra rằng giấc mơ xây đắp hạnh phúc ngày về làng chỉ là ảo
giác, giống như châu báu được tạo bằng những hạt sương buổi lê minh. Anh bắt
đầu hiểu ra điều đó từ buổi sáng ở nhà Xá chột quay về. Khi cánh cổng nhà Xá
khép lại sau lưng, anh đứng phân vân chẳng biết đi đâu. Con thuyền hy vọng đã
đắm. Nhưng sau rốt, anh vẫn quyết định đến nhà già Ðọt, cầu may ở câu chuyện cổ
tích về những món gia tài giấu trong hang đá hoặc chôn dưới đất đen. Nhà bà chị
ruột của mẹ anh nhỏ hơn ngôi nhà cha mẹ anh để lại nhưng là nhà gạch đàng
hoàng, tường trát vữa quét vôi và mái lợp ngói. Dù nước vôi mấy thập kỷ không
được thay đã mọc rêu nhưng dẫu sao trông ngôi nhà vẫn sáng sủa vững chãi. Già
Ðọt có vườn cây rộng, tuy không còn lam làm được bao nhiêu nhưng bà khéo điều
khiển nhờ cậy đám trai trẻ trong làng nên khu vườn vẫn tươi tốt, mùa nào thu
hoạch quả mùa nấy. Khi Bôn tới, bà đang ngồi tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật.
Hai đứa con nhỏ của Tá ngồi chọc rổ khoai luộc ngoài hiên, còn đứa lớn đã theo
mẹ nó đi làm thuê ở làng bên.
Thấy cháu trai vào bà già mở choàng mắt, tức khắc tỉnh ngủ ngay:
– Vào đây… cháu già vào đây…
Hớn hở như bắt được của bà lục lọi khắp nơi tìm quả chín cho anh
ăn, pha trà cho anh uống và kể tràng giang đại hải những câu chuyện về ông bà
anh, bố mẹ anh, những người họ hàng thân thuộc và những kỷ niệm chia sẻ giữa
bọn họ… Ðó là thế giới của những người đã chết, bà già sống với cái thế giới
ấy, bởi nó thuộc về bà, và bà cũng thuộc về nó. Bôn nhìn bà lão hiểu rằng anh
chẳng còn mảy may hy vọng. Anh đứng dậy cáo từ:
– Chờ già đã… chờ già đã.., cháu ơi, ta có cái này… Dành cho riêng
cháu.
Bà lật đật vào buồng ở trong đó rất lâu, lục đục mở hết hòm này
tới hòm kia, sau rốt bà quay ra với một bọc lá chuối khô. Bà đem gói đó tới
trước mặt anh, lần lượt giở từng lớp lá chuối khô thận trọng như người ta mở
lớp lụa gói đồ pha lê dễ vỡ:
– Này đây… phần cháu đây…
Dưới năm lượt lá chuối là lớp giấy dầu. Trong lớp giấy bọc sau
chót là những cục đường phèn:
– Già phải gói kĩ thế này nó mới không chảy nước.
Bôn nhìn những cục đường phèn, hiểu kho châu báu anh mường tượng
chính là đây. Anh cảm ơn bà lão, cầm gói đường phèn ra về. Ðường rợp bóng cây.
Mẫu đơn nở trong các khu vườn. Tiếng chim vườn hòa cùng tiếng chim từ thung
lũng xa vẳng tới, khung cảnh êm đềm nơi Xóm Núi bao năm dài anh mong nhớ đang
hiển hiện trước mắt anh, chỉ cần giơ tay là hái được mẫu đơn, chỉ cần ngước mắt
lên là thấy lũ chim nhỏ nhảy nhót trên cành, chỉ cần lắng tai là nhận ra điệu
hót của những con chim rừng lạc vào vườn… Nhưng giờ đây, anh chẳng còn ham
muốn. Nỗi nhớ mong thời cũ đã xa. Những khi nằm võng đong đưa vừa nhai lương
khô vừa mơ tới vườn cây xóm Núi.
Những cuộc hành quân khô khát, nhớ dòng suối chốn rừng quê tưởng
như nó chẳng còn là suối mà là con sông hòa trộn điệp trùng cả ký ức cùng ước
mộng… Xóm Núi bây giờ là Xóm Núi của ai đó có bạc có tiền nhà cao cửa rộng
nương cà phê san sát nương tiêu, mảnh đất quê hương anh biến thành quê hương
của những người đã cắm chân vững chắc trong cơ ngơi, đã thâu tóm trong tay sản
nghiệp…
Xóm Núi không còn là của anh, kẻ trắng tay, đang bước về nơi trú
ẩn trong túi chẳng đủ tiền mua một gói thuốc lào. Anh đã trở thành kẻ xa lạ
ngay chính trên mảnh đất chôn rau cắt rốn. Và anh chẳng còn một quê hương nào
khác, sự cứu rỗi nào khác ngoài Miên, người đàn bà anh yêu. Anh phải bám lấy
chị như bám vào mảnh ván cuối cùng trong cơn hồng thủy, bởi anh tin ngày một
ngày hai, chị sẽ hiểu rằng trên đời này, trên cõi đất này không một người nào
yêu chị hơn anh, ngưỡng mộ chị hơn anh, quỵ lụy chị hơn anh, chịu nhiều cay
đắng gian truân vì chị hơn anh.
Bôn về nhà lúc Miên đang khâu vá. Chị ngước mắt lên:
– Anh đã về…
– Ờ, tôi đã về…
Anh hy vọng chị hỏi anh câu thứ hai, rằng anh đi đâu, có việc gì,
và có được việc hay không?…
Một câu hỏi đại loại như thế để anh có thể mở đầu câu chuyện nhưng
Miên đã cúi xuống chăm chúi đẩy mũi kim như đường chỉ đang khâu là tất cả những
gì tồn tại trước mặt chị. Bôn đi vào rồi đi ra, hết mở lại đóng ngăn kéo mà anh
biết rõ chẳng có gì ngoài vỏ hộp nhựa đựng kẹo bạc hà ngậm ho giờ đựng thuốc
lào. Dường như những hành động kỳ cục của anh khiến Miên khó chịu. Chị ngẩng
lên hỏi:
– Anh đói rồi hay sao?
– Không… À à…
Miên bỏ cây kim xuống:
– Thôi được, em đi nấu cơm.
Chị dém gọn mớ đồ đang khâu dở vào góc giường rồi quơ chân tìm đôi
dép. Anh đứng đần độn nhìn vợ:
… Ta không biết mở đầu câu chuyện ra sao?… Không lẽ ta tiếp tục
nói dối?… Bạn anh vừa gặp nạn, hứa năm sau đưa tiền… Chẳng kẻ nào dám hứa như
vậy, nói dối cũng không dễ…
Ngoài sân, đứa con gái ba tuổi của Tá bỗng khóc thét. Miên chạy ra
dẫn nó lên thềm, phủi kiến bám đầy hai cái mông đít bẩn thỉu của con bé rồi vào
nhà lấy hộp dầu cù là bôi vào nốt kiến cắn.
… Miên vốn là người nhân hậu, dù Tá là kẻ chẳng ra gì, cô ấy vẫn
bao dung những đứa bé bẩn thỉu kia… Ta chẳng còn cách nào hơn là nói thẳng với
Miên ngay bây giờ, ngay lúc này… Bôn nghĩ, ra đứng ngay gần cửa, chờ Miên bôi
dầu cho đứa trẻ quay vào anh sẽ lên tiếng. Nhưng một nỗi ê chề không sao lảng
tránh vẫn đối diện sừng sững với anh. Anh nhớ ngày thứ hai trong cuộc sống
chung của họ. Buổi sáng anh dậy muộn vì đêm trước, sau cuộc làm tình thất bại
anh chỉ ngủ thiếp đi một giấc mệt ngắn ngủi rồi sau đó gần như cả đêm thức
trắng. Khi Miên tắm xong, trở vào giường mang theo mùi Thạch trinh hương sực
nức, anh đã nằm im không động cựa, không dám hé mắt nhìn, chỉ giỏng đôi tai
nghe ngóng xem chị thở than hay nguyền rủa. Nhưng Miên im như thóc. Hơi thở chị
rất nhẹ nên anh không thể biết chị ngủ hay thức.
Giống như kẻ tội đồ chờ lời phán quyết anh cứ giỏng đôi tai, căng
hết dây thần kinh chờ đợi một tiếng thở dài, một lời lẩm bẩm tự nguyền rủa số
kiếp hay oán trách trời già hòng qua đó biết được sự toan tính của chị. Nhưng
anh không đón nhận được bất cứ tín hiệu nhỏ nhặt nào. Người đàn bà nằm bên anh
câm như thóc, hoặc nói cho đúng hơn im lặng, lạnh lùng như pho tượng một pho
tượng thơm ngát mùi nước tẩy trần. Cuộc thám thính tuyệt vọng của anh kéo dài
tới tận lúc đài hàng xóm báo giờ tập thể dục, tiếng những người lên rú hái củi
gọi nhau ơi ới ngoài đường thôn anh mới ngủ thiếp đi. Lúc Bôn trở dậy, nắng đã
ngang mày, ít nhất cũng chín giờ hoặc chín rưỡi. Nhà vắng lặng. Anh bổ ra vườn,
không thấy Miên nhổ cỏ hay cào lá khô. Ra ngõ cũng chẳng thấy bóng dáng chị. Máu
Bôn dường như đông cứng trong huyết quản.
… Cô ấy đã quay về với người đàn ông kia, không một lời đôi hồi
không cáo biệt… Anh không kịp suy nghĩ gì thêm, cũng không kịp khóa cửa buồng
cứ thế xăm xăm ngược lên con đường chính. Con đường ấy dẫn đến nhà dì Huyên và
sau đó là nhà cũ của Miên. Anh không biết anh sẽ làm gì nếu gặp chị hoặc nếu
không gặp chị, anh chỉ biết mình phải đi tìm người đàn bà đó, bất cứ ở đâu, dù
lội xuống địa ngục… Hoặc cô ấy phải quay về, hoặc chúng ta cùng đi tàu suốt…
Bất đồ, Miên đứng trước mặt anh như cây cột:
– Anh Bôn… Anh Bôn…
Chị gọi. Và anh thất thần khi nhìn thấy chị đứng sững cặp mày nhíu
lại một cách giận dữ:
– Anh đi đâu vậy?
Bôn đớ ra, bối rối. Nhìn mắt chị anh hiểu rằng chị đã đọc được tất
thảy những ý nghĩ điên rồ, tăm tối của anh. Chị không hề sợ. Cứ nhìn những tia
lửa giận dữ bắn ra từ cặp mắt long lanh của chị là rõ.
… Chắc mặt ta thâm tím, mắt ta u ám và vầng trán ta hằn lên dấu ấn
của kẻ sát nhân… Miên biết rõ. Cô ấy không hề sợ hãi… Anh nghĩ. Và chính anh
bắt đầu sợ. Anh đứng trước mặt chị co ro cúm rúm như thằng học trò không thuộc
bài đứng trước ông thầy nghiêm khắc. Mồm anh lắp bắp không ra hơi:
– Tôi… tôi đi…
Miên nhắc lại, lần này nhỏ hơn nhưng các thanh âm bị cắt rời từng
khúc. Anh có cảm giác mỗi chữ chị thốt khỏi miệng là một viên đá đập thẳng vào
sống mũi anh, khiến anh choáng váng mặt mày, tê bại đầu óc:
– Anh đi tìm ai?… Anh định gây sự với ai?
Anh lắp bắp, và bỗng nhiên chân tay anh run lên bần bật:
– Tôi đi… tôi đi tìm Miên… Tôi không thể ở nhà… một mình. Tôi…
Chị nhếch mép cười khẩy:
– Anh là đứa trẻ lên ba ngồi nhà một mình sợ ma bắt, đúng không?
Anh câm lặng, không tìm được lời nào chống trả. Và Miên nói tiếp:
– Anh đừng làm trò cười cho người trong làng ngoài xóm… Nếu anh
nghĩ rằng em quay về sống với anh vì sợ kẻ liều thân là anh nhầm. Xưa nay em
chỉ sợ bậc quân tử, không sợ bọn cố cùng… Chẳng cứ riêng em, người đời nói
chung cũng vậy…
Nói tới đó, chị dừng lại vì người gánh dao kéo rong đi tới. Miên
hạ giọng:
– Về thôi.
Chị đi trước, Bôn bước theo. Lúc ấy, anh mới thấy chị xách một con
cá còn đang giẫy và mớ rau cải. Họ im lặng cho tới lúc vào tận gian buồng. Miên
hỏi:
– Khi đi sao anh không khóa cửa.
Bôn không dám trả lời. Anh vừa sung sướng vì chị đã trở lại vương
quốc của anh, vừa nhục nhã vì hiểu mình lố bịch. Người đàn bà cao giọng:
– Nếu hôm nay em không có tiền đi chợ, anh định ăn muối rang hay
ra nhổ cỏ vườn lên luộc? Nhà người khác còn có thể bòn được nắm rau dền hay rau
me đất nấu bát canh… Vườn nhà anh chắc chỉ hái được cỏ…
Bôn biết điều đó là sự thật. Trong vương quốc của anh không có cái
gì có thể nuôi sống con người. Nó là cõi riêng của sự bần hàn. Anh hiểu sự bần
hàn đi đôi cùng nhục nhã. Không chờ anh đáp lời Miên hỏi tiếp:
– Ngày hôm nay ăn hết con cá này, mớ rau này, ngày mai anh tính
sao?
Và anh, bấn loạn lên bởi những câu hỏi của chị, không thể ghìm nén
cơn run rẩy sâu xa trong tâm hồn:
… Phải, ta biết tính sao đây?… Món tiền định vay còn nằm trong
túi. Con gà nhép cô Soan cho đã ăn hết hôm qua. Nếu Miên không có tiền chợ hôm
nay chắc ta ra hái cỏ… Một nỗi chua chát không sao ghìm nén được bỗng cuộn
trào. Cơn run rẩy của thân xác hòa nhập với cơn run rẩy trong tâm hồn và anh
không ghìm được. Anh khóc. Nước mắt anh lặng lẽ tuôn tràn, tay chân không ngừng
run…
… Ðừng khóc, không được khóc… Khóc là nhục, rên là hèn, van yếu
đuối… Ta đã từng đọc bài thơ đó bao nhiêu lượt với Bình kều…
Nhưng nước mắt cứ ràn rụa chảy, không sao cầm giữ nổi, tựa hồ nó
đã tích lũy từ tuổi thơ côi cút của anh cho tới lúc này, và bởi quá đầy, chỉ
cần một cớ nhỏ để xối xả tuôn ra cho vơi nhẹ. Và cùng với nước mắt, một giọng
thì thào cay đắng bên tai,… cứ khóc đi, còn danh giá nỗi gì mà gìn giữ?… Ta
nhục thật, ta hèn thật và ta chẳng còn lý do gì để sĩ diện với ai…
Anh đã khóc rất lâu, rất lâu, không biết Miên ra khỏi buồng lúc
nào. Khi đã hết cơn hờn tủi, anh tự thấy mình lố bịch. Anh ra giếng rửa mặt rồi
xuống bếp. Miên đang nấu cơm trong đó. Anh tới, ngồi sau lưng chị, luồn những
cành củi nhỏ lẫn trong đám lá khô cho chị và nói:
– Tôi xin lỗi Miên… Tôi cũng không muốn sự thể như thế này…
Nhưng Miên đã thương tôi, xin thương cho trót… Tôi xin thề từ nay
về sau không dám nghĩ điều xằng bậy, không dám làm những việc điên rồ. Và chị
buồn rầu nhìn ngọn lửa, đáp:
– Người đàn ông chẳng nên sẵn lời thề thốt… Nhưng tình cảnh đã bấn
bíu như thế này, anh phải tỉnh trí mà sống. Ði ra đi vào phải biết khóa cửa… Có
mấy đồng bạc trong hòm mà mất, chắc ra vườn hái cỏ về ăn…
Lát sau Miên bưng mâm cơm lên, không ai nhìn ai. Bôn hiểu rằng anh
đã bó giáo quy hàng, và cuộc sống dây leo sẽ đặt anh vào một tình thế khác.
… Từ đó tới nay đã bao nhiêu ngày qua nhưng Bôn vẫn không quên cảm
giác buốt rát trên mặt lẫn trong tâm hồn anh vào lúc anh nói với Miên những lời
lẽ ấy. Dường như ngọn lửa bếp không đun nồi cơm chị đang nấu mà thiêu đốt con
tim anh, da thịt anh. Gian bếp lụp xụp khói mù. Từ bên kia chuồng lợn, hai con
lợn còi nhà Tá kêu hộc lên đòi ăn. Mùi phân chuồng lẫn phân người bốc sang cùng
tiếng lợn kêu. Miên không nói gì, chị vẫn đẩy que cời lửa liên tục giữa đám cỏ
khô cho bớt khói. Nhưng anh cảm thấy chị cũng đang phải cố gắng ghìm nén một
điều gì đó, và chị cũng khốn khổ không kém gì anh…
– Nín đi… Và không được xuống sân nữa…
Miên bôi dầu cù là cho đứa con của Tá xong, đặt nó ngồi lên tấm
ván đầu hè. Chị cầm hộp dầu quay vào buồng. Không hiểu sao lúc chị đi ngang qua
anh lại đứng dẹp sang một bên nhường đường cho chị và ngước mắt nhìn vơ vẩn lên
những ngọn soan ngoài vườn làm như anh đang theo đuổi một ý nghĩ nào xa xôi
lắm. Người đàn bà lẳng lặng lấy rá đong gạo nấu cơm. Ngay lúc ấy, đứa con trai
lớn nhất của Tá vác rá sang:
– Mự cho tui vay vài lon gạo.
Nó nói cụt lủn, giọng lấc cấc. Chưa đầy sáu tuổi mà mặt đã cằn cỗi
như đứa bé mười hai mười ba. Nó đứng ngay cửa buồng, cặp mắt láo liên sục sạo.
Thấy Miên không đáp, nó cao giọng nhắc lại:
– Nhà tui hết gạo, mạ tui bảo mự cho vay mấy lon…
Bôn nóng bừng mặt. Miên vẫn không nói gì nhưng sau đó vài giây chị
cúi xuống chum xúc thêm gạo để xẻ cho thằng bé. Ðược gạo rồi, nó cắp rá quay
ngoắt đi không nói một lời, dường như quyền vay gạo nghiễm nhiên thuộc về nó
còn đong gạo cho vay là bổn phận của bà mự giàu có kia. Từ ngày Miên về đây,
gần như thành lệ, hai ba ngày một lượt đứa con trai Tá vác rá sang “vay gạo,”
thứ vay mà cả người đi vay lẫn người cho vay đều hiểu không có ngày trả. Ngay
bữa cơm thứ ba của vợ chồng Bôn, Tá đã xui lũ con vác bát sang:
– Cho tui khúc cá, mự…
– Cho tui miếng thịt heo, miếng kia nờ…
– Răng nó hai khúc cá, tui có một?… Cho tui cái đầu cá kia để tui
san cho mạ tui một miếng…
Lần nào đó, Tá đứng sau lưng lũ con há miệng hông hốc cười:
– Mự giàu thế, không san sẻ cho chị cho em, để làm chi?…
Miên không đáp. Không bao giờ chị hé răng nói nửa lời. Giá như chị
phàn nàn, cãi cọ mắng chửi anh vì chuyện đó, hoặc giá chị thẳng thừng từ chối
hết thảy những xin xỏ, vay mượn vô liêm sỉ của mẹ con Tá anh còn đỡ khổ… Nhưng
chị im lặng, như đá, như cây, như chị với anh không cùng loài giống không chung
tiếng nói.
Và anh biết những người ruột thịt của anh nhân thêm nỗi thống khổ
anh phải chịu, nhân thêm gánh nặng nhục nhã anh phải gánh:
… Mẹ cha ơi, sao lại đẻ ra một loại người vô sỉ như thế, sao đày
đọa con đến nhường này?… Chẳng có họ, con cũng đã quá nhục quá ê chề rồi…
Một ngày, rình lúc Miên đi vắng và mấy mẹ con Tá ở nhà, Bôn bước
sang:
– Mấy người phải biết nhục chớ?… Tôi đã chẳng có tiền bạc, sống
trên lưng người ta, mấy người còn bám vào tôi làm gì?
Tá thản nhiên đáp:
– Cậu là em ruột tui, cậu lấy được vợ giàu nhất vùng, tui không
bám vào cậu hóa tui ngu hơn bò ư?
Bôn nhìn người đàn bà ngồi trước mặt anh, người chung cội rễ chung
tuổi thơ cùng san sẻ quãng đời sung sướng nhất, thấy một nỗi nhục sâu đậm thấm
đến tận đáy tâm hồn. Phải, chị ruột của anh là thứ sản vật dơ dáy của ông Trời,
ở lưng chừng giữa loài người với cỏ cây muông thú. Nhưng cho dù anh có băm nát
chị ta ra hay oán hận những người đã chết, anh cũng không đảo ngược nổi tình
thế: Ðó là chị ruột của anh, người gần gũi nhất với anh về huyết mạch. Ðiều đó
giống dấu ấn bằng sắt nung đóng trên mặt nô lệ hoặc tù binh thời mông muội. Anh
không còn cách nào hơn là to tiếng sỉ
nhục Tá:
– Chị là đồ khốn. Từ rày còn cho lũ con vác rá sang bên tôi, tôi
đuổi…
Nói xong, anh ân hận vì quá nhẫn tâm. Không ngờ, Tá vếch mặt lên:
– Tui thách cậu sập được cánh cửa, thách cậu không mở chum gạo nhà
cậu cho tui vay…
Bôn không nói được gì thêm. Anh chịu thua. Cuộc “vay gạo” theo lệ
thường của Tá tiếp diễn. Mỗi lần thằng cháu cấc lấc đứng chìa rá trước cửa, mặt
Bôn lại nóng dừ lên. Và lần nào anh cũng không mở miệng nổi để mắng chửi hoặc
đuổi đứa trẻ, cũng không mở miệng nổi để xin Miên lượng thứ… Cuộc sống của anh
đã đầy rẫy những cầu xin rồi. Anh không thể lặp nó từng ngày như một gã ăn mày
chuyên nghiệp:
… Ta là một thằng ăn mày nghiệp dư nên chưa thể nào thành đạt. Có
lẽ phải tìm cách chuyên nghiệp hóa nghề này… Anh tự nhủ, mắt vẫn không rời
những ngọn soan… Những cây soan già cằn già lụi kia đã từng có lúc non tươi,
xanh rờn lá. Lúc ấy, chàng Bình kều và Bôn đã ôm vai nhau đọc thơ:
Khóc là nhục, rên là hèn, van yếu đuối. Và dại khờ là những kẻ
lặng câm…
Chính anh đã tập cho Bình ngâm thơ những đêm liên hoan văn nghệ.
Giọng cậu ta thật ấm. Anh thổi sáo hoặc gảy đàn bàu. Cây sáo và cây đàn bầu đã
mất bởi sau khi anh đi lính, Miên trở về ngay nhà dì Huyên. Không ai giữ cho
anh các kỷ vật:
… Nếu cô ấy thật sự yêu ta như cô Soan yêu Xá chột, hẳn đã mang
theo cây sáo với cây đàn…
Ý nghĩ ấy vụt đến nhưng Bôn xua đuổi đi ngay bởi anh biết nếu còn
nghĩ tiếp, máu trong huyết quản anh sẽ tự khô kiệt và anh chỉ còn là một thây
ma di động giữa cõi người:
… Ta luôn vơ lấy những điều cắc cớ… Có lẽ vì ta vô công rỗi nghề…
Có lẽ ta cần tự vỡ đất làm nương trước khi thuê thợ… Và chắc hẳn Bình kều sẽ…
Anh dừng lại vì biết anh bắt đầu tự dối gạt mình… Cái phao cuối cùng để anh bấu
víu trên mặt biển đã mất. Bình cũng là kẻ chìm tàu. Dù anh có đọc lại một ngàn
lần bài thơ cũ, dù anh có rảy nước phép cho những cây soan già kia trở lại non
tơ, anh cũng chẳng thể vãn hồi tuổi trẻ.
Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối…
Bất giác anh bật thành lời. Ðứa con nhỏ của Tá ngồi trên tấm ván
đầu hè ngoảnh cổ nhìn anh:
– Cậu Bôn hát à?
Anh vội vã lắc đầu:
– Không, không… Mày hát cho cậu nghe đi…
Con bé nói:
– Tui… Tui hát xong cậu cho cái kẹo…
Bôn bảo:
– Ðược.
Con bé bắt đầu ê a hát. Bài hát lũ trẻ mẫu giáo Xóm Núi thường
hát. Hẳn trong lúc lê la chơi ngoài đường nó học lỏm được. Anh vào buồng tìm
trong chiếc làn đựng đồ vặt của Miên mấy chiếc kẹo đưa cho đứa cháu, vừa lúc
chị bưng mâm cơm lên. Họ ăn cơm. Như thường lệ, bữa cơm im lặng. Có lẽ bữa ăn
của các dòng tu khắc khổ cũng chỉ im lặng như thế. Xong bữa, Miên định đứng
lên, anh giơ tay giữ vạt áo chị lại:
– Miên hãy ngồi xuống… Tôi có chuyện muốn nói…
Chị ngồi xuống, mắt chị nhìn anh… Cái nhìn lơ đãng. Tâm trí chị
đang rong chơi đâu đó, nơi xa lắc xa lơ, ngoài không gian họ đang sống, chẳng
dính líu gì tới gian buồng lợp lá này:… Miên ơi, sao em không nhìn tôi lấy một
lần?… Xưa kia, ta đã từng nhìn nhau, mắt soi trong mắt. Em hãy nhớ xem dưới gốc
phượng già năm ấy, ta hôn nhau lâu đến nhường nào. Tôi vẫn nhớ rõ vết bầm xung
quanh cổ em, những vết sau ót dưới chân tóc… Anh nghe con tim mình rên rỉ.
Nhưng Miên không nghe thấy tiếng rên rỉ ấy và chị vẫn theo đuổi cuộc rong ruổi
của riêng mình. Bôn nghiến răng một cách vụng lén và anh cúi mặt xuống e ngại
Miên nhận biết những ý nghĩ đang vụt qua óc não:
… Cô độc ác lắm, giờ đây cô đã hoàn toàn quên tôi và chỉ còn tơ
tưởng đến… Anh thấy cơn ghen tuông điên giận đang quanh quất đâu đây đợi phút
nhảy xổ vào. Nhưng rồi tự ghìm giữ được anh đuổi con ác thú đó đi. Một giọng
đểu giả cợt nhạo vang lên:
… Ðừng quên thân phận mày. Tài không, tiền không, lại cộng thêm
chứng thối mồm… Xá nói đúng, bằng bất cứ giá nào cũng phải chữa cho được căn
bệnh khốn kiếp ấy… Nhưng ai trả tiền chữa bệnh cho mày đây? Nếu không phải người
đàn bà ngồi kia… Hãy biết thân, kẻ hèn không được quyền thịnh nộ… Anh nuốt nước
bọt, nói:
– Miên này…
Những lời nói ngẫm nghĩ trên đường từ nhà Xá chột trở về bỗng bay
biến, lưỡi anh như co rút lại. Tai anh ù ù kêu, mặt anh lúc nóng lúc lạnh cứ như
ai liên tục quạt hai thứ gió vào. Anh đã ậm ừ, lúng túng rất lâu. Lâu lâu đến
nỗi Miên sốt ruột, trái với thói quen kiên nhẫn của chị. Chị hỏi:
– Có chuyện gì vậy, anh cứ nói ra…
Lúc đó, anh mới bật được lời:
– Tôi cần phải xuống thành phố chữa bệnh. Miệng tôi mấy năm nay
bỗng dưng sinh nặng mùi… Xá hứa ngày mai đưa tôi đi khám. Nghe nói anh ta có
người bác họ bốc thuốc…
Anh nói mà không dám nhìn vào mắt chị. Nhưng anh biết chị vừa nghe
vừa chẳng nghe gì hết. Chờ anh nói xong, chị hỏi:
– Anh cần tiền?
Anh thu hết can đảm gật đầu:
– Phải, tiền thuốc… Cậu bạn hứa cho tôi vay tiền đã vào Ðà Nẵng
thăm người anh cả. Khi nào cậu ấy quay ra tôi sẽ đưa lại cho Miên.
Dứt câu, người anh tái dại:
… Ta đã nói dối lần thứ hai… Và ta sẽ phải tái diễn… Rồi sẽ đi đến
đâu?
Anh hình dung chị đang cười khẩy, hoặc chị cố nén sự khinh bỉ
trong lòng, mím chặt đôi môi. Anh cũng thấy lớp da trên mặt anh dày hẳn lên,
như da trâu, da ngựa, da voi, da tê giác hoặc loài thú rừng nào đấy…
– Anh cần bao nhiêu?…
– Tôi… Tôi không rõ lắm… Có lẽ cũng không nhiều… Chỉ là tiền
thuốc, cả thuốc tây và thuốc Bắc, Xá chột nói rằng cần uống cả hai thứ…
Chị mở túi áo, lấy tiền đưa cho anh. Bôn cầm tiền, đút vào túi vội
vã như kẻ ăn cắp lần đầu nhét tang vật vào xó kín để không ai nhìn thấy và
chính y cũng không nhìn thấy. Sau đó, anh mới dám đưa mắt nhìn chị. Ðôi mắt đẹp
của chị vẫn phóng thẳng vào khoảng trời riêng, tồn tại ngay giữa bốn bức tường
xù xì không tô trát này, trong gian buồng chật hẹp nghèo nàn này, nhưng là cõi
xa lạ với anh chẳng dính líu gì đến anh, chẳng dính líu đến cái không gian anh
đã gắng tu tạo điểm tô để vãn hồi tình yêu cũ. Anh đưa mắt nhìn những bông hoa
riềng đỏ thắm cắm lẫn mấy nhành thạch thảo, mấy màu sắc của chúng thừa thãi và
vô dụng… như anh… như kẻ đã dụng công sửa sang tỉa lá ngắt cành và cắm chúng
vào bình. Phải, chị không hề để ý tới anh, đến căn bệnh của anh, đến những khổ
tâm anh phải chịu… Không như những người đàn bà keo kiệt khác mỗi lần rút một
đồng xu khỏi túi phải căn dặn chồng con, phải toan tính cả trăm lần, chị đưa
tiền cho anh một cách hào phóng bao dung nhưng đó chẳng phải món tiền vợ đưa
cho chồng, ấy là thứ tiền ban cho kẻ tàn tật, phế nhân vào lúc người ta có nhu
cầu làm từ thiện… Anh nhìn lần nữa vào đôi mắt trong veo của chị, thấy trong
chất nước thủy tinh kia giá buốt mùa đông. Nỗi đau và nhục kéo lưng anh gù
xuống. Không chỉ mái đầu mà đôi vai anh cũng hạ xuống theo. Tựa hồ ruột trong
bụng anh đang bị cơn đau hiểm nghèo co rút, nếu anh ngồi thẳng lưng lên chúng
sẽ đứt ra hàng trăm khúc rã rời. Anh cứ ngồi như thế rất lâu, móng tay bấm
xuống thành giường thành vết lõm. Vào khoảnh khắc tận cùng cơn đau, một tiếng
thét vụt lên. Không chỉ là tiếng thét mà là sấm sét, giông bão. Những ý nghĩ
sáng lòa như chớp, nổ ầm ầm như bửa đầu anh thành muôn mảnh:
… Tôi là phế nhân. Giờ đây tôi chỉ là phế nhân. Tôi phải ngửa tay
cầm những đồng tiền của lòng thương hại… Nhưng với những đồng tiền của cô tôi
sẽ hồi phục, sẽ trở thành kẻ có khả năng tình dục vô biên như người chị nghèo
hèn của tôi, có thể gieo hạt giống một lần cho hàng chục hàng trăm người đàn
bà. Tôi sẽ bắt cô đẻ cho tôi một lũ đống con. Chúng là xiềng xích trói chân cô
lại. Cô sẽ mãi mãi là người đàn bà của tôi, mệt mỏi và tàn tạ đi, chẳng còn
trơn lông đỏ da chẳng còn kiêu hãnh được với đời… Rồi ngày nào đó cô sẽ phải
còng lưng xuống vì đau khổ như tôi hôm nay, giây phút này. Cô sẽ phải ngước mắt
lên van nài cầu khẩn tôi ngồi lại với cô vì những người đàn bà trẻ hơn, xinh đẹp
hơn đang chờ tôi đến… Phải, sẽ tới ngày hôm đó… Anh thấy con tim bớt đau. Người
nhẹ dần. Anh ấn bàn tay xuống thành giường nâng đôi vai và ngồi thẳng lưng dậy:
… Phải, sẽ đến ngày ấy… Tôi chờ cái khoảnh khắc cô phải nhìn tôi
với ánh mắt đắm say, vâng phục mười bốn năm xưa… Anh nhìn chị, mỉm cười đắc ý.
Nhưng chị chẳng biết đến nụ cười đầy hàm ý lẫn cơn giông bão vừa nổ ra trong
đầu anh. Chị đứng dậy bê mâm ra giếng…
Hôm sau, Xá cưỡi chiếc Ja-ma-ha cũ tới đón Bôn lúc tinh mơ và đèo
anh xuống thành phố. Gã bạn ấu thơ thường gãi đầu gãi tai nhờ anh gà bài hộ giờ
biến thành thần hộ mạng lẫn kẻ bảo trợ cho anh. Ðưa Bôn tới cổng viện, Xá giơ
tay nhìn đồng hồ, giao hẹn:
– Tôi rẽ qua chợ mua ít đồ. Mười một giờ kém mười lăm sẽ quay lại.
Tôi chờ cậu trước quán cơm Thiên Nga.
Ðoạn Xá giơ tay chỉ quán cơm bên kia đường, trưng tấm bảng kẻ hàng
chữ đỏ choét: Thiên Nga – Kính chào quý khách.
– Cậu phải nhớ kỹ quán Thiên Nga, kẻo lại lạc nhau. Người ở chỗ
này lúc nào cũng nhung nhúc như cá nhốt trong ang vậy.
Nói rồi chàng cựu chiến binh trèo lên con chiến mã già, nổ máy ầm
ầm tuôn luồng khói đen mịt mù nơi ống xả. Con chiến mã khạc nhổ ầm ĩ một hồi
mới lao đi, Xá biến vào đám đông. Bôn đưa mắt nhìn lần nữa tấm biển kẻ chữ
Thiên Nga bên kia đường. Thật khó phân biệt vì dãy phố dài có tới ba bốn chục
quán cơm, quán nọ kề quán kia. Quán nào cũng trưng tấn biển sơn lòe loẹt. Quán
nào cũng ám khói cũng có một bếp than cháy rừng rực bên phải và tủ kính lớn bày
đồ ăn bên trái. Anh đưa mắt lướt qua dãy biển: Bạch Tuyết, Thanh Lan, Thanh
Nga, Hồng Vân, Hồng Nhung, Cẩm Vân, Cẩm Thúy…
Ðến những tấm biển cũng khó phân biệt, chúng gần như cùng kích cỡ
và trang trí cùng kiểu, biển nào cũng vẽ năm bảy đĩa thức ăn khói bốc nghi ngút
như khói tàu… Sau rốt, Bôn nhìn kỹ lần nữa quán Thiên Nga, thấy bà chủ quán
đang bốc thức ăn sau tủ kính, mặc may-ô đàn ông màu đen, cỡ trên dưới ba mươi
nhưng đã nặng ước tám chục kí, thịt cổ thịt vai dâng ngồn ngộn. Anh yên tâm có
thể tìm được quán cơm Xá hẹn, với ngoại hình bà chủ. Sau đó, anh kiếm lại chứng
minh thư, giấy giới thiệu của ủy ban xã và món tiền Miên đưa hôm qua. Nó gần
gấp năm lần số tiền anh nhận ngày xuất ngũ:
… Ðây là những đồng tiền của người đàn ông ấy…
Anh nghĩ nhưng lập tức dập tắt ngay ý nghĩ đó bằng cách xăm xăm đi
tới phòng khám bệnh. Ở đấy, đã có hàng đống người chờ đợi. Người ta bảo anh xếp
giấy giới thiệu trước một khuôn cửa hình tổ tò vò. Và sau đó, anh kiếm chỗ ngồi
chờ.
Ba tiếng sau mới tới lượt anh. Cuộc khám nghiệm diễn ra rất chóng
vánh. Anh có cảm tưởng rằng người bác sĩ không muốn chịu đựng sự đối diện với
anh mặc kệ lương tâm nghề nghiệp lẫn chiếc khẩu trang may đúp hai lần đeo nơi
miệng. Ông kê cho Bôn cái đơn dài, nói rằng chứng bệnh của anh không nguy hiểm
nhưng phải kiên trì và chịu tốn kém mới có thể chữa trị, bởi các cơ chằng có
chức năng đóng mở van thực quản của anh đã mất sức đàn hồi không còn khép mở
được chặt và nhạy như những người khỏe mạnh. Vì thế, trước hết anh phải nâng
thể lực toàn thân, theo một chương trình luyện tập lâu dài khó nhọc, kết hợp
với việc uống thuốc đều đặn và kiểm tra kết quả đều đặn trong vòng từ một đến
hai năm mới có cơ suy giảm…
Bôn cầm lá đơn, mồ hôi vả đầy lưng: Một căn bệnh hoàn toàn không
nguy hiểm nhưng tốn gấp năm lần ca đại phẫu thuật hoặc điều trị bệnh lao thời
kỳ cuối… Anh chẳng kịp chào bác sĩ, ra luôn.
Căn phòng tròng trành, cả những dãy ghế dài còn ít người chờ cũng
tròng trành theo. Bôn ra thẳng khuôn viên bệnh viện. Ðứng ở đó một hồi anh mới
trấn tĩnh được và quay lại phòng bán thuốc. Mua thuốc xong đã thấy Xá đứng chờ
ngay cổng bệnh viện, chiếc Ja-ma-ha đen trũi sau lưng:
– Tôi đứng ở quán cơm mười lăm phút mới sang đây… Thế nào?
– Phải chờ ba tiếng mới tới lượt… Ðông quá thể.
– Họ bảo sao?
- Họ bảo bệnh không nguy hiểm nhưng muốn chữa phải tốn rất nhiều
tiền và rất nhiều thời gian.
– Cái chính là tiền. Thời gian có vô thiên lủng… Lính quèn về làng
chứ vương tướng gì mà thiếu thời gian.
– Tôi sợ khó theo nổi…
– Ai đưa tiền cho cậu… Già Ðọt à?
– Không, già tôi chẳng có tiền… ấy là Miên…
– Vợ cậu cũng chẳng kiếm nổi tiền… Tiền ấy tay Hoan đưa… Cảnh này
về lâu về dài không ổn…
Xá thở dài đánh hực rồi thượt mặt ra nghĩ ngợi. Lúc sau, anh ta
chép miệng:
– Nhưng thôi, kệ mẹ sự đời, đi kiếm vài bát cơm dằn bụng đã, dạ
dày tôi sủi bong bóng từ lúc nãy…
Hai người vào quán Thiên Nga, Xá gọi hai chai bia nhỏ, một đĩa
thịt lợn luộc chấm mắm chua, một đĩa rau cải trắng xào thịt bò và hai con cá
khô nướng:
– Tôi trả tiền… Ðứng lo. Nào, uống đi đã. Mọi chuyện sẽ tính sau.
Cô chủ quán bưng tới đĩa dưa chua:
– Món này quán đãi khách không tính tiền.
Cô đặt dĩa dưa xuống bàn, không quên cong ngón tay út trên bàn tay
béo mập và bóng loáng mỡ lên làm điệu. Xá đưa mắt liếc dãy nhẫn to xù, toàn
vàng gộc đeo kín các ngón tay cô, cười:
– Cảm ơn bà chủ, cảm ơn người đẹp nhá… Ðĩa dưa hôm nay ngon hơn
mọi hôm đấy…
Chủ quán cười, hai chiếc bình tích rung lên bần bật. Khi cô ta trở
lại quầy thức ăn, Xá ghé tai Bôn nói nhỏ:
– Cho không đĩa dưa năm xu lại tính chai bia đắt hơn một hào. Dân
thành phố chẳng đứa nào tử tế. Cậu đã nhìn tay mụ béo chưa?…
Mỗi cái khoong ấy mua được năm tạ thóc đấy. Ðám dân quê mình cầy
ruộng hay lên rú đốt than cũng phải rạc cẳng, quắt cả hai hột cà mới được tạ
thóc. Ở đây kiếm đồng tiền ngon ơ… Phi thương bất phú mà… Tôi không có nghề mộc
với nghề sơn tràng, ắt cũng đói rã họng…
Nói rồi, anh cầm cốc bia:
– Nào, uống đi không tan hết đá.
Họ ăn xong, Xá đứng lên trả tiền rồi quay lại bảo anh:
– Giờ tôi đèo cậu đến hiệu thuốc Bắc. Nhà ông bác bên họ mẹ tôi…
Họ bắn súng ca-nông mới tới… Nhưng dẫu sao cũng còn hơn người dưng.
Anh lại ngoan ngoãn ngồi sau lưng bạn, thắc thỏm chờ một cơ may
một phép thần, một bậc thánh y tái thế có thể chữa cho anh canh bệnh hổ thẹn
này. Ở nhà ông bác Xá, người ta bảo anh vượng cơn hỏa trong tỳ, trong vị, và họ
bốc cho anh mười thang thuốc nhằm hạ cơn hỏa đang cấp táo để hơi thở anh bớt
mùi nồng nặc.
Trả tiền thuốc xong, anh vẫn còn khá tiền, nhưng anh cất kỹ vào
túi áo, cài khuy cẩn thận. Anh cần tiền, cần rất nhiều tiền… và không có cách
kiếm tiền nào khác là ngửa tay trước Miên. Mỗi lần người đàn ông ngửa tay ra
với vợ, là một lần tụt sâu xuống nấc thang đi vào địa ngục, anh đã có kinh
nghiệm về điều đó.
Thời xưa, cái thời xa lắc xa lơ, có những người đàn bà cả đời nuôi
chồng đi học, mong ngày đức lang quân vinh quy bái tổ. Nhưng trong đám một vạn
bà đồ nuôi chồng đèn sách, chỉ vài ba người được hưởng cảnh: Võng anh đi trước,
võng nàng theo sau…
Còn đa số phải an phận lèo lái con thuyền gia đình để người chồng
trở thành một thi sĩ tại gia suốt ngày ngâm ngợi thơ phú, trà thuốc với đám bạn
chữ nghĩa và đôi khi cao hứng mài mực, múa bút viết bài thơ nịnh vợ…
Khi Bôn lớn lên, cảnh tượng ấy không còn, nó chỉ còn trong hồi ức
xa xôi của các ông già bà lão. Thời của anh, đàn ông là kẻ đứng mũi chịu sào,
là người lo toan nền tài chính trong mỗi gia đình. Hình ảnh ông đồ ngồi múa bút
vịnh trăng chỉ là một ảo ảnh mong manh và xa mờ, gần như mộng mị. Bây giờ, đôi
khi anh thèm quay lại thời xưa cũ, thèm thân phận những ông đồ hay chữ, cả đời
sống trong sung sướng an nhiên mà không cần kiếm ra đồng tiền cắc bạc…
Thời đi học, Bôn đã từng là niềm hy vọng của bao nhiêu ông thầy.
Và nếu có một thời đèn sách cũ, biết đâu chẳng có lúc anh đưa người đàn bà anh
yêu vào giấc mơ: Võng anh đi trước, võng nàng theo sau?…
Nhưng những cơn mơ thức, những giấc mộng giữa ban ngày như thế
giống như những sợi tơ trời, êm nhẹ thoáng quệt vào má, vương trên mặt ta trong
vài giây, bồng bềnh như gợn mây ấy, anh càng nhận biết rõ hơn thân phận chính
anh: Anh không phải kẻ lèo lái con thuyền gia đình, cũng chẳng là người chung
lưng đấu cật với Miên để lo toan cuộc sống. Anh là bóng ma dĩ vãng, ăn lộc thừa
dĩ vãng, cuộc sống chung của anh với Miên giờ đây là sự ghép đôi một thân thể
hừng hực sinh lực của cuộc đời hiện tại với thây ma nhợt nhạt từ cánh rừng duy
nhất để duy trì cuộc chung sống này bắt buộc anh trở thành một gã đàn ông hùng
mạnh, đầy năng lực giao phối để cấy hạt giống vào thân thể nõn nà quyến rũ của
Miên, bắt chị buôn chung với anh chuyến hàng tương lai. Ngày xưa, Phật dạy:
Con cái là những sợi xích bằng vàng…
Anh biết điều đó tuyệt đối đúng. Anh phải có con bằng mọi giá, để
trói buộc người đàn bà anh yêu mê bằng những sợi xích vàng…
Người bảo trợ của anh có óc thiết thực. Không chỉ một lần mà đã ba
lần Xá bảo anh:
– Trước hết, phải trị được chứng thối mồm. Ðéo con đàn bà nào chịu
được thứ mùi ấy, cho dù cậu là vua buồi vàng dái bạc cặc lưu ly… Nhưng bây giờ
cậu cũng phải trị luôn chứng thiếu năng đực. Chứng đó cũng tốn tiền của và thời
gian chứ chẳng chơi. Giờ thì đừng tính chuyện làm nương với vườn cho rách việc.
Túm được đồng nào nhét thật chặt vào túi mà lo chữa bệnh bởi tôi biết, tiền
Miên đưa cho cậu cũng chẳng phải thực sự tay cô ấy làm ra. Chính anh chồng kia
đưa cho cô ta. Phải thừa nhận tay ấy đáng mặt đàn ông, nếu Miên có nặng tình
với anh ta cũng là lẽ thường. Như thế, Trời đã cho cậu ăn lộc người dưng, chẳng
phải ai ai cũng vớ được món bở như vậy. Tiền của ai rơi vào túi Miên cũng thành
tiền của cô ấy. Cô ấy hiện tình là vợ cậu. Vậy cậu có thể tận dụng cơ may này
để sống và chữa bệnh… Có sức khỏe trước hết đã, mới tính được mọi việc khác
sau… Kể như thế cũng mặt dày thật. Nhưng biết làm sao?… Túng thì phải tính…
Chẳng ai muốn trở thành thứ mặt dày, nhưng đôi khi người ta cũng phải mặt dày
để sống…
Những lời lẽ sống sượng ấy đó tạt vào mặt anh một thứ cường toan.
Nhưng khi anh nghe lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chất cường toan kia không còn
làm anh cháy bỏng mặt mày. Anh hiểu con người có thể làm quen với mọi thứ. Chấp
nhận sự thật, anh làm đúng những điều Xá chột khuyên. Ngày ngày anh kiên trì
sắc thuốc Bắc uống làm ba lần, mỗi lần một bát. Kèm theo các thứ thuốc Tây
trước và sau bữa ăn.
Uống thuốc được ba hôm, anh tìm đến nhà cụ Phiều. Anh đã may mắn
gặp được một người tốt bụng bẩm sinh, một kẻ lạc quan bẩm sinh thứ quái nhân
hiếm hoi trên cõi đời. Lão già đa tình bảy mươi đó vẫn hăm hở nói đủ thứ chuyện
tiếu lâm, vẫn hấp háy cười khi chỉ cho anh cảnh con dê đực đầu đàn của lão đứng
ở cửa chuồng ban mai, chờ các con cái qua cửa, lần lượt nhảy lên lưng từng con
hệt như cỗ máy giao phối.
– Thế nào?… Ðã phát thèm chưa anh lính?
Ông lão hỏi Bôn rồi cất tiếng cười sằng sặc. Bôn kinh ngạc. Anh
không hình dung một người ở tuổi bảy mươi lại có tiếng cười khiêu khích như
vậy. Hồi anh còn ở làng, ông Phiều mới ngoài năm mươi và ở lứa tuổi đó tính
cách như ông không phải là một thứ trò lạ mắt khiến dân chúng phải tò mò…
Nhưng mười bốn năm qua, những người đồng lứa với ông đã trở về
già, thôi ham hố chuyện trăng hoa, thôi dòm ngó đàn bà với con mắt dục tình, đã
thích bó gối ngồi ở nhà trông cháu, hoặc lơ mơ nhìn mưa nắng ngoài sân kể
chuyện ngày xửa ngày xưa…
Chỉ riêng ông vẫn còn ở lại tuổi năm mươi cũ, vẫn không chịu rời
bỏ thời chín dục của giống đàn ông, thời mà các kinh nghiệm làm tình trở thành
một thứ thuốc phiện kích thích ái ân và khao khát sống như than cháy hết cường
độ trong lò tỏa ánh sáng mê cuồng trước khi tắt lụi.
– Sao nom sướng mắt hả?…
Ông cụ cất tiếng hỏi Bôn lần nữa, mấy ngón tay đưa lên vê món râu
cằm. Trông ông cũng từa tựa con dê đầu đàn, một con dê bá quyền và thông thái:
– Sao, anh thử phát biểu cảm tưởng của người chiến sĩ nhân dân
trước cảnh tượng này?… Loài vật nào nhảy cái cũng mệt mãi, cũng khốn khổ, cũng
thở hồng hộc như sắp đứt ruột gan, cạn hơi cạn sức chỉ riêng loài dê nhảy cái
như bỡn như chơi không mảy may mệt nhọc… Thế nên phải xếp nó vào hàng tổ phụ
của các giống dâm đực, chủ tịch một nước có xứ tên là Xứ Dâm…
Dứt lời, ông lão tinh quái ra sân, ra lệnh cho thằng con mười ba
tuổi lùa dê lên núi, bảo cô vợ pha trà xanh và lấy bánh mật mời Bôn. Người đàn
bà chưa đầy bốn mươi tuổi nhưng trẻ hơn tuổi rất nhiều, cổ lẫn hai má đỏ hây
hây, mông lẫn ngực núng na núng nính. Chị ta ngoan ngoãn đem bình trà ủ trong
quả dừa khô và một đĩa bánh mật nóng rồi vác cuốc ra nương.
Cụ Phiều có tới ba nương tiêu, hai vườn cà phê rộng, vào hàng điền
chủ giàu nhất mấy xã. Vợ con trong nhà ngót hai mươi người răm rắp làm việc
dưới sự điều khiển của vị gia trưởng, và dù là cảnh vợ nọ con kia, chưa bao giờ
xóm giềng nghe thấy một lời nói to dưới mái nhà này. Chờ vợ con đi hết, ông lão
bắt đầu bài giáo huấn:
– Người đàn ông dâm chưa chắc đã mạnh dục tình. Cứ nhìn thằng dê
cụ kia là rõ. Nó có kéo quần tốc váy sờ mông nắn vú giống cái như mấy thằng đàn
ông dâm đãng đâu… nhưng nó vẫn là chúa tể giữa đám vật cường dục, hoạt động như
có máy trời chạy bên trong. Muốn có thứ máy trời như nó phải bỏ công rèn dưỡng
thân thể…
Tới đó ông lão dừng lại uống hết bát chè tươi nóng rồi bóc bánh
ăn. Nhìn ông lão ăn uống, Bôn biết rằng khi uống trà ông đã uống cả vị thơm đồi
núi, khi ăn bánh ông thưởng thức cả vị mật bốc lên từ những vườn mía và mùi nếp
mới, thứ mùi hương anh tưởng nhớ suốt những năm dài chiến tranh…
Anh biết rõ như vậy, nhưng anh không cảm thấy hương vị của thứ
nước anh uống, miếng bánh anh đang ăn. Chính anh, kẻ có chữ và biết tưởng tượng
sự thụ hưởng đời sống trở thành vô năng trước cuộc đời thật sự. Anh lặng lẽ
nhìn hai hàm răng đều tăm tắp, chắc như đá của lão già bảy mươi nhai bánh ngon
lành, nhìn cách ông cụ uống một hơi cạn bát trà xanh nóng hổi, thèm thuồng và
chua xót. Ăn uống xong, gương mặt ửng hồng của ông toát đầy mồ hôi, mồ hôi đọng
từ chân tóc xuống tận cổ. Ông lão chờ mồ hôi ra hết mới rút tấm khăn bông phơi
trên dây lau khô. Toàn bộ những cử chỉ đó toát ra từ sự tự tin và bình thản.
Buông tấm khăn, ông nhìn Bôn:
– Sao ăn uống uể oải vậy?… Người ta ăn cho tận một miếng bánh quê
còn bổ ích hơn ăn bát cháo yến trong cung đình cách miễn cưỡng… Các anh chẳng
hiểu gì về phép sống…
… Phải, ta chẳng biết gì phép sống. Ðó là những kiến thức hoàn
toàn khác biệt kinh nghiệm chiến tranh. Ta đã bắt đầu cuộc sống với tư cách
người lính và giờ đây phần đời còn lại đòi hỏi ở ta những tư cách khác…
– Anh còn trẻ…
Ông lão vẫn tiếp tục:
– Anh còn sống nhiều… Sống mà không biết phép sống chẳng khác chi
kẻ ngậm ngải tìm trầm mà không biết phân biệt đâu là cây quế đâu là những loài
cây tầm thường khác… Thế nên người ta phải học… anh lính ạ…
– Dạ.
Bôn đáp.
– Tôi bảo anh rằng muốn sống cho lành mạnh phải biết rèn và dưỡng.
Phải vừa rèn vừa dưỡng chứ không thể chú tâm đến một việc. Ðám nhà giàu dưới
thành phố thường chỉ dưỡng thân mà không rèn. Trong nhà họ lúc nào cũng sẵn
hàng chục bình rượu bổ: nào sâm nhung quế phụ nào hải mã, bìm bịp, nào Tam xà
Ngũ xà… Họ hưởng đủ của ngon vật lạ nhưng đã mấy ai vượt nổi bậc tám mươi trong
khi dân vùng núi trên dưới trăm tuổi mới chịu bỏ cõi ra đi là sự thường tình.
Có chuyện ấy bởi họ chỉ dưỡng không rèn, uống rượu bổ ăn đồ ngon ngủ với đàn bà
nhưng không chịu lao động. Mồ hôi không thoát ra được nên máu huyết khó thông,
cơ bắp không va đập ắt phải sớm chảy nhão… Anh thấy đấy, tôi lấy đâu ra tiền mà
bồi bổ được như họ?… Không sâm nhung quế phụ không hải mã hải sâm, thứ bổ dưỡng
duy nhất tôi dùng là thịt dê, huyết dê, sữa dê, tinh hoàn dê, cao dê… Toàn cây
nhà lá vườn không tốn kém. Nhưng tôi hơn họ vì ngày nào tôi cũng đi vài bài
thái cực quyền, rồi tôi lên nương hoặc rảy cỏ vườn trồng rau trồng đậu… Anh kém
tôi bao nhiêu tuổi?… Già non bốn chục, đúng không?… Vậy mà anh chẳng thể theo
chân bầy dê leo lên những ngọn núi bên kia thung lũng Hươu Ðen, tôi tin chắc
như vậy. Kể cả lũ trai hai mươi hai mốt cũng nhiều đứa bỏ cuộc. Nhưng tôi, tôi
có thể đi với bầy dê tới con vực cuối cùng…
Ông cụ ngừng lời, rót nửa bát trà, uống cạn. Bôn nhìn hai hàm răng
ông lão chắc kìn kịt như có thể nhai được cả gỗ, bật lên hỏi:
– Bác còn ăn được mía không?
Ông già nhướng mắt nhìn anh:
– Tôi á?…
Cất tiếng hỏi lại Bôn rồi, ông tủm tỉm cười bỏ xuống nhà ngang nơi
chất chồng đám mía nhổ chiều hôm trước đoạn trở lại với một cây mía vừa dài vừa
to vật vã, tì lên gối bẻ làm đôi, đưa cho Bôn khúc trên còn phần mình khúc
dưới. Và rồi không róc vỏ không chặt khúc, cầm nửa cây mía dài ngang ngửa một
thước tây ông róc vỏ ăn cho tới đốt cuối cùng mới ném rễ ra sân:
– Không phải vì lấy vợ trẻ mà tôi thích khoe khoang nhưng nhiều
khi thiên hạ hay đánh đố những trò ngớ ngẩn… Thôi, bây giờ ta nói đến việc của
anh… Anh còn trẻ, còn thời gian cải thiện quãng đời trước mặt. Nhưng đừng quên
rằng anh đã qua hơn mười năm chiến tranh, sống cuộc sống bất ổn và hoàn toàn
khác biệt với cuộc sống quê nhà… Ở đây, tuy cũng có bom đạn nhưng vẫn làng xóm
ấy, rừng núi ấy, khí trời ấy, rau cỏ cây cối ấy… Trong những năm xa nhà, có thể
anh đã phải uống nước độc, ăn những thứ độc rồi lam sơn chướng khí ngấm vào.
Giờ, tôi sẽ bày cho anh những bài tập và các thứ thuốc uống để thanh lọc cơ
thể, đẩy khí độc thoát qua đường nước tiểu và mồ hôi. Sau, tôi sẽ cho anh các
bài thuốc và những món ăn tráng dương bổ khí…
Từ hôm ấy, mỗi tuần anh đến nhà ông lão hai lần để thực hiện các
bài tập nhằm củng cố cơ quan nội tạng, lọc máu, thanh tâm. Chương trình này kéo
dài hơn một tháng. Bôn thấy người sảng khoái bớt những cơn choáng váng và nước
tiểu trong hơn nhưng khả năng tình dục dường như không thay đổi. Anh nói cụ
Phiều và ông già bảo:
– Không thể nóng vội như vậy được… Cổ nhân dạy rồi: Dục tốc bất
đạt… Anh phải nghe tôi…
Nhưng ba tuần sau anh đã phải nhắc lại lời thỉnh cầu:
– Bác cho cháu bài thuốc tráng dương… Cháu cần phải có con, càng
nhanh càng tốt.
Ông già lắc đầu nhưng cũng chiều ý anh, cho anh bài Dâm dương hoắc
Nữ-trinh tử-tật lê tử ngâm rượu. Ông còn dạy anh cách uống rượu dê với những
món ăn tương hợp, cách nấu lẩu tinh hoàn dê với hạt sen củ sen củ súng, cách
hấp tinh hoàn dê với hành tỏi ngũ vị hương và rượu mạnh, cách ăn gan dê nướng
vào lúc người đang tháo mồ hôi và cách uống sữa dê vào buổi sớm…
Không điều răn bảo nào của ông Phiều, anh không thực hiện. Bôn lần
mò xuống các làng xa mua hạt sen, củ sen, củ súng. Anh ngồi nhẫn nại hàng ngày
bóc hạt sen, thông tim sen để có thể nấu món lẩu tinh hoàn dê tuyệt vời. Anh
tìm những hòn đá già lớn gấp đôi viên gạch, nung nóng để nướng gan dê theo đúng
cách cổ truyền. Mùi gan dê ướp gia vị nướng sém thơm nức, quyến rũ không chỉ lũ
cháu đói của anh mà cả đến Miên…
Nhưng anh quyết không san sẻ những món ăn bổ dưỡng đó cho bất cứ
ai, dù bị mang tiếng là kẻ tham ăn, quân phàm phu tục tử… Ðó chẳng phải những
món ăn theo nghĩa thông thường, đó là vũ khí của anh để tái chiếm những thành
trì đã mất:
… Ta nhất quyết phải có con… Bằng mọi giá…
Cuộc mã hồi ngày càng gấp rút. Ngoài các thứ thuốc và các món ăn
bổ dưỡng, Bôn sắc lá Dâm dương hoắc lên uống thay nước chè, kiểu như đám đàn bà
đẻ phải uống nước lá gừng, và mỗi lần uống thứ nước khó ngửi ấy, anh lại tơ tưởng
đến hình ảnh oai vệ của con dê đực đầu đàn, đứng ghếch chân trước cửa chuồng
ban mai phân phối ái tình cho cả đàn dê cái, không bỏ sót mụn nào…
Một lần, tới nhà Xá chột chơi anh gặp bạn cùng trường cũ. Năm Bôn
và Xá nhập ngũ, cậu ta đi thanh niên xung phong. Sau chiến tranh được học khóa
trung cấp nấu ăn và giờ làm đầu bếp cho khách sạn lớn nhất thành phố. Cậu đầu
bếp béo lặc lè, đỏ hồng tưởng như nhìn rõ cả đám vi huyết quản dưới lớp da láng
mịn và mỏng như da trẻ nhỏ. Hồi cùng học cấp ba, cậu ta gầy gò xiêu vẹo như kẻ
ốm đói trường niên. Bôn hỏi vì sao anh ta thay đổi đến thế?… Cậu bạn nhăn nhó
phàn nàn rằng cậu ta không muốn béo thêm và mỗi ngày chỉ dám ăn một bát cơm với
rau quả nhưng vì nấu nướng nhiều chất dinh dưỡng thấm qua khứu giác lẫn da thịt
nên cơ thể cứ tăng trưởng không sao kìm hãm. Nghe chuyện, Xá vỗ đùi bôm bốp:
– Vậy là mày có lá phổi thực vật trong cơ địa… Giống các loài cây
hấp thụ dinh dưỡng trực tiếp qua lá, qua lớp biểu bì thân chứ không cần tới rễ…
Thế nào mà một trăm anh đầu bếp một trăm linh một anh tròn thu lu…
Bôn im lặng, nhưng một ý nghĩ lóe lên trong đầu:
… Nếu cơ thể con người có thể hấp thụ dinh dưỡng theo kiểu lá phổi
thực vật thì từng bộ phận trên cơ thể cũng có khả năng đó, vì con người là bộ
máy hoàn chỉnh và mọi bộ phận đều liên đới với nhau…
Hôm sau, trong khi chọc tiết dê, anh hứng một phần tiết vào chiếc
gáo dừa. Chờ lúc Miên đi vắng, anh chốt chặt cửa buồng bắt đầu cuộc thí nghiệm
lá phổi thực vật với bộ phận truyền giống của mình. Trước hết, anh hòa nửa phần
rượu vào tiết dê đựng trong gáo. Sau đó, anh lựa một tư thế ngồi thích hợp để
ngâm bộ phận sinh dục vào. Vừa ngâm, Bôn vừa lấy ngón tay nhẹ nhàng xoa vuốt để
quá trình thẩm thấu diễn ra nhanh hơn. Vài giây đầu cái của quý đó mát rượi.
Nhưng vài giây sau, nó nóng rần lên. Anh đã nức nỏm mừng thầm, không còn cảm
giác hổ thẹn như lúc đầu khi cúi nhìn bộ phận mẫn cảm nhất cơ thể mình bỗng
nhiên biến thành một loài động vật kỳ lạ tựa một thứ ếch nhái dị hình bơi lội
lóp ngóp trong gáo nước lầy nhầy đỏ… Anh xoa vuốt niềm hy vọng của mình một
cách hào hứng hơn. Nhưng dần dần, lớp da không còn ấm nóng mà bắt đầu xon xót
và hơi rát. Ðiểm rát nhất chính là nơi đường tiểu thoát ra:
… Cần phải kiên trì chịu đựng…
Anh tự nhủ. Nhưng lúc đó Miên gõ cửa buồng. Hẳn chị quay về vì sợ
mưa. Bôn cuống quýt. Anh vội vã lấy chiếc quần đùi ném trên giường lau của quý
để mặc quần dài. Rồi anh ra mở cửa. Trong lúc vội vã anh đá phải chiếc gáo dừa
đang gá vào hòn gạch cạnh chân giường. Cái gáo lăn kềnh, chảy lênh láng khắp
nền thứ máu dê hòa rượu. Miên sửng sốt khi thấy thứ nước đỏ kỳ quặc kia chảy
đến tận nơi chị đứng:
– Anh làm cái gì vậy?…
Chị hỏi:
– Không… tôi có làm gì đâu…
Anh đáp yếu ớt, mặt nóng bừng vì biết mình đã nói dối một cách ngu
xuẩn. Nhưng Miên không hỏi gì thêm, đi ra khỏi buồng. Chị để cho anh thời gian
thu dọn. Chị hiểu đó là một thứ thuốc thang ăn uống trong chương trình tu bổ
sức khỏe của anh. Cái chương trình đã làm hao tổn túi tiền của chị một cách vô
nghĩa lý. Ðã từ lâu, anh có thói quen xin tiền chị, cũng từ lúc ấy chị đưa tiền
cho anh một cách lặng lẽ, không thèm hỏi han, căn vặn. Mỗi bận anh mua chung
với ai một con dê hay đụng một đùi bê để làm thuốc hoặc tẩm bổ chị đều lẳng
lặng đứng nhìn như một khán giả đứng xem trận bóng đá diễn ra trước mặt mà
trong đó bên thắng lẫn bên thua đều chẳng liên quan tới chị.
– Xong rồi… Miên vào đi…
Anh vừa loay hoay lau đám rượu tiết dê trên sàn nhà vừa gọi. Máu
dê thấm vào các mạch vôi không thể cọ sạch. Ðồng thời, cái bộ phận quý báu của
anh sưng phỏng trong quần. Tối hôm đó, anh không dám mặc quần đùi đành lấy tấm
khăn bông lớn quấn quanh hông đi ngủ. May là trời lạnh nên anh có thể trùm chăn
tức khắc và Miên không thấy. Chị không nhìn anh bao giờ. Hoặc chị nằm thẳng
đuột nhìn lên đỉnh màn, tay gác trán, hoặc chị quay lưng lại với anh. Và chị cố
gắng tránh những va chạm có thể xảy ra giữa hai thân xác. Ðó là nỗi tủi nhục
thường trực đày đọa anh. Nhưng vào lúc tai nạn nó lại trở thành điều may mắn.
Miên không hay biết gì. Anh giữ kín bí mật trong hai tuần cho tới khi bộ phận
bị tổn thương hoàn toàn bình phục. Mọi nỗ lực của Bôn không vô ích. Sức khỏe
anh khá hơn đôi chút. Anh ăn mỗi bữa thêm nửa bát cơm, có thể theo lũ dê tới
những dốc núi để hái lá Dâm dương hoắc. Sự cải thiện ấy khiến anh phấn chấn
nhưng vào lúc làm tình với vợ, niềm tin ở bản thân anh rơi mất.
Chương 15
Ðứa bé ngủ say, chỉ còn hai người đàn bà ngồi trong gian nhà rộng.
Mùa Thu đã già, nắng trưa chẳng còn vàng mà ngả sang bạc trắng hong hong rải
trên sân. Những bông mẫu đơn đỏ cuối mùa vẩy ngọn lửa đam mê muộn màng trên khu
vườn vắng bên kia bức tường hoa thấp. Khung cảnh êm đềm tĩnh lặng, duy chỉ con
gà trống đang táo tác ve mái. Tiếng gọi tình ầm ĩ của nó khiến dì Huyên lẫn
Miên đều phải quay ra. Bà già không ngơi đưa võng cho đứa cháu, lắc đầu:
– Con quỷ kia, đến khiếp.
Miên chẳng nói chẳng rằng đứng dậy tìm viên sỏi ném con vật đa
tình trơ trẽn.
– Cút… Ðiếc tai…
Ả gà mái đang mổ thóc há mỏ kêu: Quác một tiếng thật to rồi cắm cổ
chạy về phía bếp. Gã trống cũng chúi đầu chạy nhưng khi đến bức tường hoa gã
chợt nhận ra bạn tình đã chạy về phía bếp nên đổi hướng chạy theo. Không gian
trở lại yên tĩnh, chỉ tiếng đưa võng kẽo kẹt tấu lên điệp khúc buồn tẻ của cuộc
sống miền sơn dã.
Dì Huyên chợt ngẩng lên:
– Sáng nay cháu lên nương rồi a?…
– Dạ, cháu đã lên.
– Ðất có khá không?
– Cằn lắm, những mảnh tốt họ chia hết rồi.
– Ờ, trâu chậm uống nước đục… Có cả đống gia đình thương binh,
liệt sĩ. Quân nhân phục viên đứng hạng chót trong danh sách ưu tiên… Vả chăng,
ai cũng tưởng thằng Bôn chết thật rồi.
– Chết thật lại đi một nhẽ… Giờ, nửa giăng nửa đèn, chẳng biết
tính sao…
– Phải, không thể nào sống mãi bằng tiền của cậu Hoan được… Người
ta, ai cũng có liêm sỉ.
– …
– Nó không nói gì với cháu hay sao?
– Anh ấy nói rằng anh ấy phải dưỡng bệnh, cháu hãy giúp anh ấy
khôi phục lại sức khỏe. Mai rày sẽ làm lại tất cả…
– Mai rày là bao giờ?…
– Cháu chẳng biết. Nhưng hiện giờ anh ấy không làm nổi việc gì…
Hai lần thử lên nương rảy cỏ, anh ấy ốm nằm bệt trên giường cả hai.
– Rồi lấy gì mà sống?
– Cháu cũng chẳng biết nữa.
– Không thể nhắm mắt đi đường như thế cháu ơi… Miệng ăn núi lở,
phải tính kế sinh nhai lâu dài. Số tiền cháu bỏ ra cho nó mua thuốc, mua dê
thịt đủ cho người khác xây nhà rồi đấy.
– Cháu cũng đã tính làm nương, nhưng lại nản… Chẳng biết vì sao?
Hai người im lặng hồi lâu rồi Miên đột ngột hỏi:
– Vì sao ngày ấy dì không khuyên cháu?
– Dì biết khuyên cháu thế nào?
– Dì có biết… nhưng dì không nói… Buổi tối hôm ấy, lúc cháu xin dì
ở lại…
Bà già thở dài:
Miên gặng:
– Vì sao dì bỏ đi lúc cháu cần dì bên cạnh…
Bà già lại thở dài, và thốt lên hai tiếng cụt lủn:
– Dì sợ.
Rồi bà đưa mắt nhìn cô cháu, cặp mắt mịt mờ như khói phủ:
– Cháu biết đấy… thằng Bôn về là dịp thiên hạ chẩu môi chẩu mỏ rỉa
rói dì cháu mình. Hôm ấy người ta kéo nườm nượp tới xem mặt Bôn, hỏi han chuyện
trò thân tình như con em ruột thịt của họ. Hồi nó ở nhà, chẳng ai thèm để tâm
đến gia đình ấy. Tuy là dân gốc Xóm Núi nhưng họ mạt vận bao nhiêu đời không
khá lên nổi. Ðến thằng Bôn cố theo đuổi đèn sách, hy vọng nhờ đỗ đạt vinh quy
mà đổi hèn thành sang nhưng lại ra mặt trận. Lúc nó quay về cả làng cả xã kéo nhau
tới xem như đứa đội mồ sống dậy. Họ cố tình nói chõ vào tai dì: Tôi đố bà con
cái Miên chọn thằng mô?… Chọn thằng chồng đầu danh chính ngôn thuận hay chọn
đứa sau lắm tiền lắm bạc. Người đoan chính phải về với mối duyên đầu… Còn kẻ
gió giăng tôi chẳng biết…
Cô Miên có muốn về với cậu Bôn cũng khó, bà dì hẳn bắt cháu phải
sống với anh chồng dân buôn thành phố bởi anh ta hốt bạc về cho cả cháu lẫn dì…
Từ ngày vợ chồng cô ta ăn nên làm ra trông bà ta béo phây phây, đủng đỉnh nhàn
nhã như vợ ông thừa ông phái thời trước…
Miên cắt ngang lời bà:
– Vậy dì bỏ về vì sợ mang tiếng là kẻ tham tiền nếu khuyên cháu ở
lại với anh Hoan?
Bà già im lặng. Miên gục đầu xuống gối. Bà nhìn mái tóc đen nhánh
của đứa cháu duy nhất ở với bà như đứa con trời dun dủi cho… Mái tóc ấy giờ
không còn gài nhánh hương nhu hay chùm hoa bưởi. Cũng như áo quần Miên mặc giờ
chẳng còn màu hoa cà hay hoa cải hay màu lục thủy mà chỉ còn màu đen. Không cầm
được, bà đặt tay lên vai Miên:
– Dì có lỗi với mẹ cháu… Dì có lỗi… Nhưng dì không dám làm khác
bởi từ ngày đầu cháu dẫn thằng Bôn về dì đã không ưa nó.
Người ta vẫn bảo: Không ưa thì dưa có dòi… Dì e lòng dì thiên vị,
nếu khuyên ngăn cháu e mang tội với quỷ thần. Dì ngỡ cháu đã trưởng thành, cháu
có thể quyết định. Ngày trước, thời ly loạn, cả làng, cả xã có mình nó mười bảy
tuổi, bằng vai cháu không gả cho nó chẳng lẽ gả cho mấy lão già góa hay chờ bọn
trẻ con lớn lên?… Thời xuân con gái có thì nên dì đành phải theo thời… Còn giờ
mọi sự đã khác… Cháu đã có con. Lẽ ra cháu có thể lấy lý do ấy mà từ chối…
Miên ngẩng phắt lên, nhìn trừng trừng vào bà lão:
– Trời đất, sao lúc ấy dì không rót vào tai cháu những lời lẽ này…
Chính dì khôn ngoan hơn, tỉnh táo hơn cháu. Cháu đang rối như canh hẹ… Và cháu
sợ…
Dì Huyên gật đầu:
– Phải, dì biết cháu sợ, chính dì cũng sợ. Và cậu Hoan cũng sợ như
cháu, như dì. Chúng ta sợ thiên hạ nhiếc móc là những kẻ tham vàng phụ ngãi.
Còn Hoan sợ mang tiếng là kẻ làm trai mà ở hậu phương tọa hưởng an bình lại
tranh cướp hạnh phúc với người chiến đấu vì dân vì nước… Chẳng qua mọi sự cũng
từ chữ Sợ mà ra…
– Dì biết rõ mọi chuyện sao giờ mới nói?
– Không… không… lúc đó không nghĩ nổi. Khi cháu quay về với Bôn,
dì mới ngẫm… Ngày nọ qua ngày kia… Nào có ai khôn ngay được. Chẳng cứ trẻ thơ
mà đến già hai thứ tóc cũng vậy… Các cụ ngày xưa dạy đúng thật: Con đã mọc
răng, nói năng gì nữa?
Bà im lặng. Miên đăm đăm nhìn ra vườn từ lúc bà ngưng tiếng. Vẻ
mặt của chị có gì đó khiến bà ngờ vực. Nó vừa ngây dại vừa xa vắng lại vừa sắt
đá. Chưa bao giờ bà nhìn thấy gương mặt xinh đẹp và quá đỗi quen thuộc với bà
lạ lùng như thế. Bà không dám nói gì thêm, lặng lẽ rình mò, lặng lẽ chờ đợi…
Chờ đợi gì, bà không biết… Nhưng rõ ràng là sự đợi chờ câm nín khắc khoải. Hồi
sau, Miên vụt đứng lên:
– Cháu phải đi.
– Ði đâu?
– Về nhà.
– Nhà nào?
– Nhà của cháu.
Miên đáp, và sau đó nhấn thêm:
– Nhà của vợ chồng cháu.
Bà nhìn đôi mắt Miên bắt đầu hiểu:
– Cháu?…
– Sáng nay cháu lên nương gặp ông Lư, ông ấy mời cháu lại nhà bàn
việc.
– Cháu phải kín đáo kẻo xóm làng dị nghị…
– Cháu chả cần… Cứ cho thiên hạ thỏa thuê dòm ngó…
Miên đáp cụt lủn, chị lấy nón, cúi xuống hôn đứa bé đang ngủ trên
võng rồi vùn vụt đi ra cổng. Dì Huyên nhìn theo, khi bóng áo đen khuất hẳn bà
bỗng buông tiếng thở dài, nhưng rồi bà đẩy võng mạnh tay hơn và cất giọng hát
ru…
Trong lúc đó, Miên mải miết đi trên con đường mà từ ngày về sống
với Bôn chị kiêng tránh. Con đường quen thuộc đến từng bờ dậu, từng gốc cây,
từng ngả rẽ. Con đường cầy những vệt hằn nhức nhối trong tâm trí mỗi lần chị
bước chân lên cái ngõ lầy lội trước nhà Bôn. Chị đã rời xa nó trọn một mùa Hè
và sắp trọn cả mùa Thu. Sự xa cách khiến lối trở về nao nức. Rặng rào hai bên
xanh ngắt.
Những búi cỏ leo dưới chân rào theo gió ngả nghiêng. Trời như
trong hơn, màu lơ như thắm lại và mây trôi bồng bềnh hơn… Tất cả, như con tim
chị rộn ràng. Hoan không ở đây, Miên biết rõ. Chính ông Lư vừa bảo chị sáng nay
rằng anh vào Nha Trang cất hàng, nhưng tim chị vẫn đập rộn ràng như chỉ lát
nữa, phía sau cánh cổng, gương mặt rạng rỡ của anh sẽ hiện ra nhờ một phép màu…
– A, cô Miên… Lâu ngày quá…
– Chào cụ.
– Cô đi chơi, hay về thăm dinh cơ cũ?
– Chào cụ…
– Cô vẫn khỏe chớ?…
– Dạ, chào cụ…
– Lát nữa rẽ vào tôi chơi nhé?…
– Dạ, cháu chào cụ ạ…
Chị trả lời như cái máy và chẳng biết mình đã nói những gì. Ông
già hàng xóm dừng lại, ném theo chị cái nhìn ngạc nhiên và xét đoán nhưng chị
chẳng hay biết. Vài phút sau, chị tới cổng, Miên đưa mắt nhìn từ bức tường bao,
hai cây trụ cho tới núm kéo chuông bằng đồng… Những thứ vô tri vô giác ấy là
những người thân thiết đã lâu ngày xa cách. Miên đưa tay kéo chuông, lắng nghe
chuỗi âm thanh ròn rã vang reo rồi dần dần tan lắng. Trước kia, chị chưa hề để
ý đến tiếng chuông. Sau thời gian sống nơi xóm nghèo hiu quạnh chị nghe tiếng
chuông náo động như gọi một hội hè quên lãng quay về:
– Chào bà… Mời bà vào nhà.
Ông Lư là người làm công thời cũ. Ông giữ nguyên cách xưng hô lẫn
sự lễ độ xưa. Miên chưa quen với cách thức ấy, chị lúng búng đáp:
– Dạ, chào bác…
Ông già đứng sang một bên chờ Miên bước vào, đoạn khóa cổng một
cách cẩn trọng rồi đi theo chị:
… Không có Hoan… Tại sao anh không có ở đây?…
Miên thầm trách anh dù biết điều đó là vô lý. Chị đưa mắt nhìn tòa
nhà cũ đã thành ngôi miếu sang trọng với một ông từ ngày ngày quét dọn, lau
chùi. Chủ nhân của chúng đã bỏ đi: Hoan xuống phố, chị về với Bôn và cu Hạnh
sang nhà dì Huyên. Ngôi nhà ấm áp xưa giờ mênh mông. Lá rụng. Những bẹ cau khẽ
tách trên thân cau.
Tiếng đồng hồ gõ nhịp. Chiếc đồng hồ là vật to mồm nhất trong
khoảng không vắng lặng này.
– Bác quét dọn sạch lắm.
– Thưa bà, ông bảo bà ưa sạch sẽ. Ông dặn tôi ngày nào cũng phải
quét nhà quét sân và lau chùi các vật gia dụng trong bếp. Mời bà vào…
Ông già nói đoạn xăng xái đưa chị vào bếp. Ðây là thế giới đích
thực của chị. Dãy xoong chảo bóng nhoáng treo thành hàng kia giống như mặt
những chiếc đồng hồ câm lặng của kỉ niệm, ghi khắc trong chúng những buổi sáng
tràn đầy hương cam, hương bưởi, tiếng chim líu lo, tiếng đứa con trai ngọng
nghịu, mùi trà ướp hoa nhài hoặc mùi cà phê vườn nhà pha phin đặc sánh, mùi
xông hông mùi cơm rang trứng; những buổi chiều ngào ngạt mùi trái cây chín rụng
trong vườn, mùi hoa cuống cuồng sau một ngày nắng nỏ và mùi các món xào nấu cho
bữa cơm chiều… Miên ngơ ngẩn nhìn từng đồ vật, quẹt ngón tay lên đáy xoong hoặc
rờ cán những chiếc muôi lớn bằng sứ Tàu, bồi hồi nhớ rằng những món đồ dễ vỡ
này anh đã mua cho chị ở chợ Bến Thành rồi xếp vào hòm gỗ nhồi rơm nhờ người
chạy xe đường dài chuyển lên tận đây. Chị mở tủ bát đĩa ngắm nghía những chồng
bát sứ Nhật và Giang Tây. Còn chiếc thẩu nấu lẩu kia lần nào đó anh đã tha từ
Ðà Nẵng về sau khi học được cách nấu lẩu bằng thịt thú rừng của người bạn. Chị
ngồi xuống, nhìn chiếc bàn ăn hình bầu dục, đủ một lần cho hai mươi bốn thực
khách. Mặt bàn bóng như gương, hai dãy ghế xếp ngay ngắn, sạch lau li, thứ sạch
sẽ vắng hơi ấm con người… Tội nghiệp cho Hoan, anh đã mất bao công sức để dựng
xây một cách oan uổng:
– Bà dùng trà hay một tách cà phê nóng để tôi pha?…
– Dạ, thôi… Bác để mặc tôi.
– Nhà lúc nào cũng có bánh ngọt, tôi xin pha ấm trà bà dùng thử…
Ông Lư đặt ấm lên bếp, nhóm lửa rất nhanh và gần như tức khắc chị
nhìn thấy ngọn lửa nhảy nhót dưới chiếc ấm đồng nhỏ vẫn dùng đun nước pha trà
ngày trước:
– Bác làm thế nào giữ ấm được sạch bong như thế?
– Thưa bà rất dễ. Hòa nước xà-phòng bôi dưới trôn ấm trước khi
nấu. Dùng xong chỉ cần lấy miếng giẻ ướt chấm xà-phòng bột chùi vài lượt là lại
sáng như chưa từng đụng lửa… Cách này ông chú tôi làm nghề nấu bếp truyền cho.
Ông chế nước pha trà. Ðã lâu lắm Miên mới ngửi lại mùi trà nhài. Ở
nhà Bôn quanh năm uống nước lá vằng cắt trên rú. Cái ấm đất to tướng nấu một
lần buổi sáng và suốt ngày cả Tá lẫn lũ con đều ghé miệng tu. Miên sắm riêng
một phích nước cho mình, ngày nọ qua ngày kia chị chỉ uống nước trắng lâu dần
quên cả vị trà. Ông Lư bóc phong bánh đậu:
– Mời bà dùng.
– Cảm ơn bác.
Sự tận tình của người quản gia khiến Miên cảm động nhưng không
ngạc nhiên. Ðó là một mảnh thiên đường anh tạo dựng. Thiên đường ấy khởi từ lúc
họ nhìn vào mắt nhau trên mảnh đồi đang rảy cỏ, dưới thứ ánh nắng gay gắt như
chó cắn mùa gió Lào…
Thiên đường ấy đã bị bỏ lại hoang vu hiu quạnh khi chị ra đi, với
bị Thạch trinh hương và mấy bộ quần áo tu sĩ, theo hút con đường mù sương chẳng
biết dẫn tới nơi nào…
– Mời bà… Bánh mới lắm. Tuần nào ông cũng đem bánh mới lên cho mọi
người.
– Tôi biết…
Hàng tuần, nếu không vướng những chuyến cất hàng xa, Hoan trở lại
Xóm Núi vào Chủ Nhật. Ngày ấy, chị không tới nhà dì Huyên để tránh chạm mặt
anh. Sớm Thứ Hai, chị thấy ngăn tủ đầy bánh trái cu Hạnh thêm một món đồ chơi
hoặc bộ quần áo mới, đôi khi những bông hồng Ðà Lạt cắm trong bình, đôi khi món
quà riêng dành cho chị… ấy là dấu vết anh gửi lại. Tất thảy đều ẩn giấu gương
mặt anh, hình dáng anh khiến không gian trong ngôi nhà dì Huyên biến thành tấm
bảng vô hình trên đó dòng chữ viết tên anh không thể nào tẩy xóa:
– Thưa bà, ông giao cho tôi chùm khóa của bà. Tôi không dám đường
đột lại đằng nhà, sợ người ngoài dị nghị. Chờ mãi hôm nay mới có dịp mời bà về
đây. Xin bà cầm giúp cho…
Dứt lời, ông móc chùm khóa trong túi áo, đặt trước mặt chị. Miên
nhận ra chùm khóa có cài con dao nhíp và chuôi mở nút bia, ấy là chùm khóa của
anh. Còn chùm khóa của chính chị người quản gia đang giữ.
– Thưa bà, ông dặn tôi không được để bà phải lao lực làm vườn cuốc
nương. Nếu bà có ý định làm nương mới cho ông Bôn tôi sẽ mướn người tới xới đất
và cào luống. Còn lại, tất thảy những vườn nương cũ vẫn là của bà, bà có toàn
quyền sử dụng. Chị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khácChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khácMiên im lặng. Chị không biết nói gì. Không buồn và không vui. Ðờ
đẫn. Tiếng người quản gia lại tiếp tục vang lên, rành rọt:
– Thưa bà, tôi có phận sự đưa bà coi lại sổ sách thu chi. Xin bà
chờ cho một lát.
Ông đi lên nhà trên. Lát sau, ông quay lại với mấy cuốn vở học
sinh loại dầy, đặt trước mặt chị. Miên đưa mắt liếc những cuốn sổ không nói
năng gì rồi bỗng dưng như kẻ bị thôi miên chị cầm chùm khóa đi lên nhà trên,
tới trước căn buồng của chị, từ từ mở khóa, cử chỉ chậm chạp như bà già. Cánh
cửa mở ra. Căn buồng hoàn toàn như xưa. Mọi đồ vật nguyên vẹn. Cửa sổ mở toang
trông ra vườn.
Hoa thạch thảo chi chít trong bình đặt trên chiếc kỷ đối diện với
chiếc kỷ đặt ngọn đèn đêm. Tấm gương lớn lẫn các mặt kính bóng loáng không hạt
bụi. Chiếc hộp sơn mài đựng mớ trâm cài lẫn những chiếc cặp tóc vẫn đặt trên
mặt tủ ba buồng. Giường sạch tinh tươm. Ðôi gối trắng xếp cùng chiếc gối nhỏ
hình bán nguyệt của cu Hạnh. Tất cả như chờ đợi, như đợi chờ. Miên mở tủ. Ngay
dưới tầm mắt chị một xấp bạc để dưới lá thư:
Miên của anh, Anh biết sẽ có lúc em cần đến thứ này… Nó chẳng là
gì hết với em với anh với những ngày chúng ta sống. Em không được hủy hoại sức
khỏe, không được tự hành hạ mình một cách vô lý. (Như thế cũng có nghĩa là ngu
ngốc. Anh nói đúng sự thật, xin đừng giận). Nếu em không còn là vợ anh, em vẫn
là mẹ cu Hạnh anh có thể coi em như đứa em gái nhỏ. Anh không có quyền để em
khổ sở. Bao giờ, anh cũng ở bên em.
… Như thế, cũng có nghĩa là ngu dốt… Dường như Hoan có lý. Dường
như trong suy nghĩ và trong hành động của ta có gì đó như là ngu dốt?…
Chị nhìn lần nữa chữ ký của anh bên dưới. Rồi chị ngồi xuống giường,
vừa thấy như đây là chốn của mình, hang ổ của mình, vừa sợ hãi như lạc vào rừng
lạ. Có lẽ chị không còn quyền ngồi ở đây, trong gian phòng yên tĩnh và thanh
sạch này, bởi chị đã tự ý bỏ anh mà đi, chị đã chung chăn gối với một người đàn
ông khác, thân thể chị đã nhiễm mùi mồ hôi cùng hơi thở hôi hám của người đó,
đã liễm những nụ hôn đầm đìa nhục cảm, đã in dấu ái ân liên miên mà bao nhiêu
nồi nước Thạch trinh hương cũng không tẩy rửa hết…
… Vì sao, vì sao, vì sao?…
Những lời lẽ đầy ám thị đầy ẩn ý của ông chủ tịch Hiển, tấm cáo
thị in bằng thứ chữ xít xao cứng ngắc như những móc sắt ngoặc vào nhau hiển
hiện trên tấm lưng áo kẻ cầm quyền vào lúc ông ta quay lưng bước đi hay trùng
điệp những bóng ma vẫy gọi, hù dọa, mê ám?… Ðã trọn mùa hè và sắp qua cả mùa
thu sống dưới mái nhà Bôn chị tìm câu trả lời. Khi là nóc đình màn nơi đọng
những mủn lá tranh và lũ thằn lằn ngày tìm muỗi đớp. Khi là những ngọn soan
khúc khuỷu đầy muội ám thường đong đưa trong gió lúc chiều tà.
Khi là chân trời buồn thiu ngày tắt nắng, nơi nếp đen rừng rậm và
dãy núi in lên những nét lượn sầu muộn đơn côi… Chị đã tìm đã đợi đã mong một
gương mặt dù thần dù quỷ bất chợt xuất hiện ở những không gian đó, cho chị một
lời giải đáp…
Nhưng quỷ lẫn thần đều đã bỏ đi, đều rời khỏi mảnh đất sơn dã này.
Chẳng ai trả lời chị. Ðêm đêm, trước và sau những cuộc làm tình bất cập của
Bôn, chị lại tìm kiếm lời giải đáp ngay trong mình. Bất khả. Lần nào đó, khi đã
chung sống với anh trên dưới một tuần trăng, chị không còn đủ sức chịu đựng
những nụ hôn đắm đuối và hôi hám của anh, đã đẩy anh ra nhoài khỏi giường nôn
thốc nôn tháo. Từ đó, Bôn không còn dám hôn chị. Anh chỉ dám úp mặt xuống phần
dưới cơ thể chị trút vào đó tất cả mối tình cuồng nhiệt và khổ sở của anh. Cùng
một lúc, chị xót thương và kinh tởm…
Không hiểu vì sao ông trời đày đọa cả chị lẫn người đàn ông kia
vào cảnh oan trái này?… Ngày đầu tiên chung sống, khi anh đưa cho chị bánh
xà-phòng vỏ bọc rách nát vàng ố, chị đã đọc thấy sự thật trong đôi mắt anh. Ðôi
mắt ấy không chỉ là mắt kẻ đang yêu, đó còn là cặp mắt van lơn của con chó với
chủ nhà, của kẻ sắp rơi xuống vực sâu cố bám lấy mỏm đá cuối cùng chênh vênh
giữa sự sống và cái chết. Chị biết Bôn yêu chị cuồng si. Tình yêu trong ngõ
cụt. Và chị gắng triệu hồi tuổi trẻ như người ta gọi hồn ma. Con suối róc rách,
đá trơn nhầy. Rặng phượng đỏ dọc đường hò hẹn. Những đồi dứa thơm quay quắt và
nụ hôn đầu không ở trên môi mà dưới mang tai ba bốn ngày không tan vết máu bầm…
Nhưng con suối róc rách kia mỗi ngày mỗi cạn. Dãy phượng đỏ nhạt phai dần cánh
hoa rụng khô tóp dưới gốc cây gió xáo trộn cùng lá úa và bụi cát… Những cảnh
tượng cùng kỷ niệm của mối tình đầu như tảng nước đá tan chảy dưới mặt trời của
thời gian, như hồn ma hiện về mả lửng lơ trong vài canh giờ rồi tan biến khi lũ
gà cất tiếng.
– Miên… Miên… Tôi yêu Miên…
Cái điệp khúc Bôn đã nhắc ngàn lần, càng nhắc càng mòn mỏi rơi
rụng hao gầy như ngọn nến thắp qua mỗi giây mỗi tàn lụi. Chị đã đưa tiền cho
Bôn chữa bệnh, mua các thức ăn bổ dưỡng, sắm cho anh một lúc ba bộ quần áo lẫn
chiếc áo lót lông Ðức, thứ áo rét tột cùng mơ ước của đám dân sơn dã… Chị làm
tất thảy điều đó khi trong thâm tâm chị hiểu rằng chị bù trả tình yêu khốn khổ
của anh bằng những đồng tiền.
Chị biết chị không thể vãn hồi tình yêu. Ngay tình thương cũng mỗi
lúc mỗi cạn. Ðêm đêm, chị nhìn anh tận tâm tận lực cấy vào cơ thể chị một hạt
mầm giống như chị quan sát một kẻ trèo cây lấy mật ong hoặc một đứa trẻ chơi bi
ăn tiền, đôi khi dửng dưng đôi khi thương hại đôi khi ghê tởm… Vào lúc anh đã
dốc cạn sinh lực sóng sượt như một thây ma chị vùng dậy nấu nồi nước tắm. Mùi
thạch trinh hương khiến tâm hồn chị bình tĩnh lại. Chị cầu mong thứ nước lá của
kẻ tu hành giúp chị gột rửa hết dấu vết của người đàn ông chị không còn yêu
thương nữa. Lẽ ra, anh chẳng nên quay về. Bởi khi còn là hồn ma ngự trị trên
bàn thờ, anh cao giá. Mỗi năm, ngày giỗ anh chị làm năm bảy mâChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khácChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khácm thịnh soạn mời
mọi người tới hương khói. Tấm ảnh anh thời học sinh đặt sau đĩa ngũ quả giống
một tiểu thiên thần xứng tôn kính. Người ta nhắc đến anh như nhắc tới một vong
hồn trong trắng như nhắc tới một thời xa vắng thời mọi người đã đi qua cuộc
chiến tranh cam khổ như đoàn thiên thần cất cánh bay qua bầu trời giông bão,
qua sấm chớp và mưa đá, qua gào hú của hổ báo, sói lang, lửa núi, cơn hồng thủy
và các nạn dịch trầm kha… Bởi anh là cái cớ để mọi người tụ họp, khơi lại giấc
mơ hào hùng, hé cánh cửa căn buồng đầy sấm sét bão giông quá khứ nhìn ngắm nhấm
nháp những giọt vinh quang tô điểm cho cuộc đời tẻ nhạt thường ngày…
Thời ấy, chị đã tưởng nhớ đến anh như một hình bóng xa xôi, một
giấc mơ yên lành, trong giấc mơ đó dòng suối róc rách chảy như sợi chỉ bạc, con
đường phượng vĩ tưng bừng như khóe môi tươi… Tất cả, là thế giới mơ. Tựa phong
cảnh hiện lên giữa cái khung sân khấu rạp hát thành phố…
Nhưng anh quay về. Tiểu thiên thần mộng mơ bỗng biến thành gã đàn
ông bằng xương bằng thịt, cặp mày chữ nhất, đôi mắt sầu u, hai má hóp sạm đen
vì chứng sốt rét kinh niên, cặp môi thâm và hơi thở bốc mùi địa ngục. Cái hồn
ma xa vời kia bỗng thành kẻ háo hức tình dục đêm đêm dày vò trên bụng chị, lắp
bắp không biết chán những lời ân ái, thở hồng hộc như phu đào huyệt và mỗi cuộc
làm tình của anh giống một lần phu đào huyệt để an táng một thây ma và cuộc đào
huyệt mãi không thành…
… Vì sao, vì sao, vì sao?…
Ðêm đêm chị tắm nước thạch trinh hương, kỳ cọ kỹ lưỡng từng ly tấc
da thịt tưởng chừng những nụ hôn ám mùi tử khí của anh có thể tẩm liễm khiến
chúng đổi màu. Quả tình, người ta chẳng thể cố yêu. Tình yêu chẳng giống một
gánh nặng, một bát thuốc đắng hay một món ăn thiu thối… Giá như thế, chị sẽ cố
nhấc gánh nặng đó một lần, cố uống bát thuốc đắng hoặc ăn thức ăn thiu thối kia
cho dù sau đó có thể mắc chứng đường ruột mãn kiếp…
Tình yêu là tình yêu và chị không thể làm gì với nó. Cuộc sống
chung của chị với Bôn càng ngày càng tuột khỏi đời sống như mảnh ván bị sóng
đánh mỗi lúc mỗi xa bờ…
Nắng đã gần như trắng hẳn ngoài song cửa sổ. Miên chợt nhớ sắp tới
giờ nấu cơm chiều. Chị mới có nồi thịt bò kho gừng ở nhà, lát nữa phải rẽ qua
vườn nhà người quen mua mớ cải. Ðám cải chị gieo chưa kịp mọc đã bị lũ con Tá
nhổ sạch từng cái rễ. Miên khóa tủ đoạn bỏ chùm khóa vào ngăn kéo. Chị quay
xuống bếp. Người quản gia vẫn ngồi đợi:
– Thưa bà, bà có cần gì nữa không?
– Cảm ơn bác. Tôi đã bỏ chùm khóa vào ngăn kéo tủ.
– Thưa bà, ông muốn bà giữ nó.
– Không. Ðã có bác ở đây. Khi cần tôi sẽ tới.
– Thưa bà, bà có ý định làm nương mới cho ông Bôn?
– ….
– Nếu bà quyết, tôi sẽ thực thi mọi công việc.
– Tôi chưa định gì cả…
Miên đáp và định ra về. Ðúng lúc ấy có tiếng chuông. Ông Lư nói:
– Thưa bà, xin bà hãy chờ cho vài phút.
Ông ra mở cổng. Chị ngồi xuống ghế, uống trà. Trà đã nguội. Ngoài
ngõ, tiếng gọi của đứa con trai vang lên:
– Mẹ… Mẹ ơi…
Chị nghe tiếng chân nó chạy. Và giây lát, nó ùa vào bếp như cơn
lốc:
– Mẹ ơi… Mẹ… về nhà mình rồi chứ?…
– Ờ…
Miên bế con, ghì siết vào lòng, ngửi mùi tócChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khácChị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khác mùi thịt da thân
thiết và ngay tức khắc không gian quanh chị tỏa rạng ánh sáng thời cũ, ngào
ngạt hương thơm thời cũ, đầy ắp âm thanh thời cũ…
– Mẹ ơi i i, Mẹ ơi i i…
Dì Huyên lẫn người quản gia cùng trố mắt
nhìn đứa trẻ. Miên sững sờ. Chị đi theo nó như kẻ bị thôi miên. Ðứa con trai chị
vốn ngoan ngoãn nhưng tồ tệch. Sinh ra trong cảnh êm ấm, được cưng chiều, nó có
thói quen thụ động. Ðây là lần đầu, nó chủ ý dắt mẹ đi chơi.
– Mẹ ơi, bao giờ lớn con sẽ bẫy cho mẹ con
sáo mỏ vàng… Con cũng bảo bố mua cho hai mẹ con mình con vẹt biết nói như vẹt
nhà ông Khương. Mình sẽ cho nó vào cái lồng thật đẹp, treo ngay trước cửa. Buổi
sáng, con sẽ cho nó ăn kê và uống nước. Thằng cu Hõn nhà ông Khương dạy con
cách cho vẹt ăn rồi… Chị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khác
Thằng bé nói lưu loát, không chút vấp váp,
ngập ngừng. Ðoạn nó đứng lại, nhìn vào mắt chị:
– Mẹ. Mẹ cười lên… Sao lâu quá con không thấy
mẹ cười?…
Cặp mắt trong trẻo của nó dán vào mắt chị
chăm chú, nghiêm trang, chờ đợi. Miên chợt hiểu rằng đứa con trai bé bỏng của
chị đã trưởng thành vượt bực trong quãng thời gian qua. Rằng tất cả những câu
trả lời vòng vèo, mập mờ của dì Huyên lẫn của Hoan đều không đánh lừa được nó,
rằng nó đã học cách im lặng cả một mùa Hè lẫn mùa Thu, đã nung chín nỗi mong thầm
trong trái tim bé bỏng, đã thành một ông lão năm tuổi dưới vẻ non nớt của chúa
Hài đồng.
Chị muốn ứa nước mắt nhưng không dám, đành
đánh trống lảng:
– Ðừng ra vườn… Mẹ con mình vào buồng chơi
nhé?
Thằng bé gật đầu tức khắc:
– Vào đi…
Hai người leo lên bậc tam cấp, nhưng khi họ
bước vào nhà chính, nó đưa tay ra trước, dắt Miên vào buồng:
– Vào đây mẹ…
Nói đoạn nó tụt dép leo tót lên giường, kéo
chị ngã kềnh theo. Hai mẹ con đã ở một tư thế tuyệt vời để nằm ôm nhau.
– Ôm con chặt vào… Chặt như là bố…
Cu Hạnh nói. Miên luồn cánh tay cho nó gối
đầu và hỏi:
– Ðược chưa con?
– Gần được rồi mẹ ạ…
– Còn gì nữa?…
– Tay kia mẹ xoa lưng con… Không xoa thế mà
phải xoa từ mông lên… Bố vẫn làm như thế…
– Bây giờ bố ôm con giỏi hơn mẹ phải không?
Miên hỏi và không khỏi có chút thầm ghen tị
với Hoan, thầm tủi phận. Cu Hạnh chưa kịp đáp, chị gặng hỏi thêm:
– Bố ôm con giỏi lắm phải không?
– Ðúng. Chủ nhật nào về bố cũng đưa con đến
đây. Bố bên ngoài con nằm ở trong.
– Rồi sao nữa?
– Bố xoa lưng con, gãi đầu cho con và bảo:
Ít hôm nữa làm xong mấy nương tiêu mẹ sẽ quay về. Mẹ sẽ ôm con, sẽ hát ru, sẽ
làm bánh như hồi xưa…
Tới đó, dường như hồi ức về món ăn quen khiến
thằng bé ngồi nhỏm dậy:
– Mẹ ơi… Mẹ làm cả bánh rán nhân mặn cả
bánh rán nhân ngọt chứ?
– Ờ… cả hai thứ…
Miên đáp theo đà đưa đẩy của câu chuyện.
Nhưng khi nói xong một ý nghĩ bùng lên: … Tại sao không?… Tại sao không?… Ta sẽ
về đây, làm bánh cho con trai ta ăn, tắm giặt cho nó trong gian phòng tắm kia,
sẽ cùng nó ra vườn trẩy cam và bẫy sáo… Ý nghĩ ấy bùng lên như đám lửa. Nó cháy
rừng rực trong óc não chị. Chị nhìn thấy qua ngọn lửa đó tất cả những gương mặt
trong làng ngoài xóm, những hồn ma điệp trùng, cả ông chủ tịch xã lẫn tấm cáo
thị… Một nỗi uất hận trào lên khiến chị muốn gào thét, muốn chửi rủa nhưng chị
kịp ghìm giữ. Lướt qua một mùa Hè và mùa Thu đầy đọa, ngày ngày tù hãm trong
gian buồng tối tăm khâu vá mãi những thứ chẳng cần khâu vá, nhìn mảnh trời trên
gian bếp tiêu điều lững lờ chuyển sắc, thi thoảng đuổi lũ gà bưới vườn một cách
vô ích, nấu hai bữa cơm bằng cỏ khô lá mục khiến cặp mắt cay xè và đêm đêm làm
tấm đệm thịt chịu đựng những cuộc làm tình tuyệt vọng của Bôn… Chị đã chấp nhận
cuộc sống vô nghĩa ấy, bởi chị sợ hãi và vâng phục những hồn ma. Cuộc đời của một
con người dương thế bỗng lênh đênh theo con thuyền của những bóng ma trên dòng
sông vô định. Phải chăng, chị vốn là kẻ hèn nhát, và do đó chịu khuất phục một
cách dễ dàng?…
– Mẹ… Mẹ ơi…
Tiếng gọi thúc hối của đứa con kéo người mẹ
trở về cõi thực như mặt trời tháng sáu vụt chiếu sáng cõi hôn mê mờ mịt. Khao
khát nổi loạn giống như thứ men ủ từ lâu bột khởi nở tung khiến Miên choáng
váng và phấn khích. Chị nói rất to:
– Ðược rồi. Mai mẹ sẽ làm cả bánh mặn và
bánh ngọt cho con. Nhất định mẹ sẽ làm cho con. Ngay ngày mai.
Rồi chị bế bổng con trai lên, bước ra phòng
ngoài. Ông già Lư và dì Huyên vẫn đang uống nước trà. Miên bảo:
– Bác ngâm cho tôi cân gạo nếp. Mai xay làm
bánh rán.
– Thưa bà, tôi nhớ rồi…
Dì Huyên đưa mắt nhìn Miên nhưng không dám
hỏi gì. Bà quay sang cu Hạnh:
– Cháu vòi gì mẹ thế?…
Chị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khác
Miên gạt đi:
– Không, chính cháu muốn vậy. Tối nay dì
tìm cho cháu gói nấm hương và giã sẵn cho cháu ít hạt tiêu. Sáng mai cháu qua
chợ mua miếng thịt nạc.
Ðoạn, chị ôm con hôn lần nữa:
– Con ở đây với bà… Mẹ đi…
Miên ra ngõ. Cu Hạnh đứng nhìn nhưng không
dám lẵng nhẵng chạy theo. Thói quen đó nó đã được rèn từ năm một tuổi. Miên ra
tới cổng lại quay vào:
– Chút nữa quên. Bác Lư ngâm thêm cho tôi nửa
cân đỗ xanh làm nhân ngọt. Còn thừa nấu nồi chè. Sáng mai tôi đến…
No comments:
Post a Comment