Chương 15Chiến dịch Ngôi sao Bắc đẩu.Ngôi sao Bắc đầu đã cháy sáng nhưng tiểu đoàn bị xóa sổ . Tôi còn mười hai lính.Sau bốn mươi tám giờ, quân số được bổ sung. Lính tử miền Bắc vào ào ào như thác lũ. Cơ man nào là con cháu của nòi giống Lạc Hồng.Chúng tôi tiến về phương Nam.Chân trời đỏ rực lửa.- Pằng pằng pằng... pằng pằng...- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng...Tôi đứng bật dậy:- Cậu nào bắn ẩu thế?Tạo đứng lên theo:- Thủ trưởng để em ra xem sao.Cậu ta lao vút ra ngoài bóng đêm. Chỉ còn tôi và cậu y tá . Đèn sáng đến chói mắt. Chưa bao giờ tôi ngập tràn ánh sáng như bây giờ! Căn phòng còn nguyên vẹn, cả những chiếc phô-tơi bọc da màu huyết dụ, cả những tấm rèm ni- lông trong suốt, cả máy đàm thoại, những chồng giấy viết thư trắng tinh có in bông hoa tím...Kẻ địch sống sang trọng thế này, làm sao chúng chống chọi lại chúng tôi?... Chiến tranh cần chó gì thứ giấy viết thư kìa với những bông hoa li ti màu tím?- Thủ trưởng để yên, chưa xong đâu...Cậu y tá nhắc. Cậu ta đang thay băng cho tôi. Hình như vết thương sắp có mủ, nó cứ cắn rưng rứt như kiến đốt.- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng pằng...Tôi bảo:- Quái lạ, đứa nào bắn như động rồ mãi thế . Có lẽ tôi phải đi xem sao. Xong chưa?Cậu y tá nói:- Tí tẹo nữa thôi ạ.Cậu ta cuốn vòng băng cuối, thắt nút một cách khéo léo và dịu dàng. Tôi nghĩ: "Cái mặt nó đáng ghét nhưng bàn tay của nó bằng vàng! Giá nó làm thợ khắc, thợ chạm thì tuyệt " .Thắt xong nút băng, cậu y tá xin:- Thủ trưởng cho em đi theo?- Ừ, thì đi.Chúng tôi rời khỏi phòng, vượt qua khoảng sân xi- măng mênh mông về phía tiếng súng. Đó là dãy kho quân dụng. Ánh đèn lấp lóa với mấy cánh tay cần câu đen sì, những mảnh vải trắng, vải dù mắc trong đám dây điện phất phơ bay. Mùi thuốc súng, mùi khói lẫn mùi các vết thương và máu người, hờa trong khí trời đêm như những chiếc vòi bạch tuộc hút chặt trí não. Tôi nghe bước chân mình vang lên, lạ lùng. Tiếng gõ trên nền xi-măng cứng lạnh.Xưa nay, tôi chỉ nghe tiếng chân mình lẫn trong tiếng cỏ xạc xào, tiếng sột soạt của lá rừng, tiếng lép nhép của bùn lầy tiếng va chạm của vỏ đạn và vũ khí.Lần đầu tiên, chúng tôi bước xuống thành phố...- Rảo bước lên...Tôi bảo cậu y tá, vội vã chúng tôi tiến về dãy nhà lô nhô dưới chân cây đèn cao áp trắng. Người chạy ra đầu tiên đón tôi là Tạo:- Vào cũng không được...- Bắn ai?- Không ạ. Gặp gì bắn nấy. Lung tung cả...- Dẫn tôi đi, mau lên...Cậu ta chạy trước. Chúng tôi vào kho. Mái tôn cao ước trên hai chục thước, tựa trên khung sắt lớn, vừa đơn giản, vừa quái dị. Các thùng hàng chồng chất, sừng sững cho tới áp mái, chỉ để lọt những lối đi hẹp hình bàn cờ. Chúng tôi đi theo các lối hẹp ấy. Phía trước, tiếng súng thỉnh thoảng lại rộ lên từng tràng, lẫn tiếng cười oang oang, tiếng hát và tiếng nói líu lưỡi của kẻ say.Tôi hỏi:- Những đứa nào thế?Tạo đáp:- Báo cáo thủ trưởng, tiểu đội của thằng Lành.- Chúng nó say rượu cả hay sao?- Có thằng say, có thằng tỉnh.Đoạn, cậu ta ngăn tôi lại:- Thủ trưởng rẽ sang lối này...Chúng tôi bước sang gian kho khác, lối đi rộng hơn, với một chuỗi đèn chạy dọc theo mái kho, chiếu xuống. Nền kho láng bóng. Đang đi, chợt một dòng nước màu hồng thắm chảy tới, bò từ từ đến mũi giày tôi. Tôi chưa kịp dừng chân, một dòng suối nữa tràn đến, màu hồng trong suốt lóng lánh dưới đèn, như si-rô lựu ai tưới xuống mặt đất.Tôi hỏi:- Cái quái gì thế này?Tạo đáp:- Báo cáo thủ trưởng, thuốc ạ.Thuốc gì?- Thuốc tiêm B12. Toàn thuốc cao cấp của Mỹ. Ở kho đằng kia, chúng nó đã bắn tan bốn công-ten-nơ, B12 chảy ngập tới mắt cá chân... Giờ lại thế...Lại một dòng nước hồng đặc sánh chảy tràn qua lối đi.Giày chúng tôi ướt. Lội trong dòng nước sóng sánh, chúng tôi đi- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng pằng...Tiếng súng vọng trong kho, chối óc. Tạo chạy lên phía trước quát:- Thủ trưởng đến đấy... dừng lại...Tiếng cậu ta lấp trong tiếng súng. Khi tôi và cậu y tá đến nơi, Tạo vẫn còn đang hò hét.Cách Tạo hai bước chân, một cậu đen đủi, thấp bé cầm tiểu liên quạt như điên vào chiếc hòm gỗ trước mặt. Tên nó là Tu, dân Hà tĩnh. Nó đứng chạng đôi chân cong queo, gầy như hai que củi, bậm môi bóp cò. Cặp mắt Tu đỏ vằn, chắc nó say. Khi Tạo đập liên hồi vào vai Tu, cậu ta mới quay ra, nhìn thấy tôi. Tu ngước cặp mắt đờ đẫn lên, nhe răng cười.Tôi hỏi:- Ai cho cậu bắn?Tu kẹp súng, đáp:- Báo cáo thủ trưởng, hắn là đồ của đế quốc Mỹ, em bắn cho hắn không thể ngóc đầu lên.- Cậu không có mắt à? Câụ không biết đó là cái gì à?- Em có trộ chi mô... Dưng mà em biết đó là đồ của đế quốc Mỹ.Tôi bảo:- Đó là thuốc bổ. Thứ thuốc người ta đã tiêm cho cậu khi cậu nằm trong quân y viện.Tu kêu:- Không, thủ trưởng lộn rồi... Hồi í, em toàn tiêm thuốc bổ của Liên xô...Dứt lời, cậu ta loạng choạng lùi lại. Đường gân xanh đập phập phồng nơi cổ. Tôi hỏi:- Lành đâu?Mấy cậu đứng sau Tu đáp:- Báo cáo, anh Lành say quá đã ngủ rồi.Tôi bảo:- Đẹp mặt nhỉ, các cậu lấy rượu ở đâu?- Báo cáo anh, trong bếp của ban chỉ huy cứ điểm. Có cả một kho... đủ các loại rượu...Mặt cậu nào cậu nấy lấm lét. Tôi biết chắc thủ phạm chính chưa xuất hiện. Mấy bộ mặt cù lần không thể nghĩ ra cái trò chơi tàn bạo này. Tôi hỏi:- Ai dẫn các cậu đến đây?Mấy đứa cúi gằm mặt xuống.Tôi quát:- Ai?... Các cậu muốn ra tòa án binh cả nút hả?Lúc ấy, Tu lảo đảo bước lên:- Thủ trưởng, tha cho em... tụi em có làm... chi mô.Tôi gằn giọng:- Ai đưa các cậu tới đây?Tu ngẩng lên, ngất ngưỡng:- Báo cáo thủ trưởng... là... anh Kha... Anh Kha bảo...“Thảo nào... Thằng ôn con chuyên bày trò khỉ..." Tôi quát:- Tìm cậu Kha lại đây.Nhưng đám lính chưa kịp chạy đi, Kha đã từ sau lưng tôi bước lên:- Báo cáo, em có mặt.Hóa ra cậu ta rúc vào khe giữa hai hòm hàng. Mặt Kha trắng xanh, hoàn toàn tỉnh táo. Tôi bảo:- Hóa ra cậu!Kha im lặng.Tôi hỏi:- Đã uống mấy chén rồi? Tôi ngửi hơi cậu không có mùi rượu. Cậu giữ cho tỉnh để đưa mấy thằng say đi làm trò càn dở phải không?Kha cúi gầm mặt, lặng im.Tôi bảo:- Về phòng tôi.Tạo đưa mấy chàng say và Tu về chỗ ngủ. Kha đi cùng tôi . Cậu y tá lẽo đẽo bước sau. Khi chúng tôi băng qua sân phi trường, một đám cháy lớn bùng lên phía tây in chóp nhọn của một ngôi nhà thờ như lưỡi lê chĩa ngược vào trời đêm. Đối điện với cái lưỡi lê ấy, vài ngôi sao thoi thóp sáng.Có tiếng chuông từ nơi nào xa lắm vọng tới. Cậu y tá nói:- Báo cáo thủ trưởng, đã nửa đêm.Tôi bảo:- Cho cậu về nghỉ.Tôi dẫn Kha về phòng. Căn phòng sáng choang, cửa ngỏ. Gió thổi những tờ giấy viết thư bay khắp nơi trong khi cục thủy tinh chặn giấy hình quả chuông nằm choáng lộn trên bàn. Tôi bảo Kha ngồi xuống, mở tủ lấy chai vang trắng rót hai cốc.- Nào, bây giờ đến lượt tôi và cậu cùng uống. Uống xong, không có gì bắn thì bắn lẫn nhau...Kha đỡ cốc rượu, ngước mắt nhìn tôi:- Anh Quân, tha tội cho em...Tôi bảo:- Hãy uống đi đã.Tôi uống trước. Kha uống theo. Vẻ mặt nó không mảy may lo ngại.! Thằng mất dạy, nó ỷ thế... Nó biết mình mến nó.!! Trong đại đội, sau khi Hoàng chết, tôi gần gũi với Kha. Nó không trong trắng như Hoàng, nó khôn lỏi, láu cá vặt, lười nhưng tốt bụng và, khi cần, biết hy sinh cho lẽ phải.Trong chiến đấu, bao giờ Kha cũng tìm được phương pháp tối ưu tiết kiệm xương máu. Nó không ham sục gái, thích mộng mơ và vẽ ra những trò oái oăm để trêu cợt mọi người.Rượu đã cạn, tôi nói:- Tửu lượng cậu cũng khá... Uống hết chai này chăng?- Nếu anh thích.- Trông cứng cỏi ra phết. Tựa như là tôi mời cậu lên đây để bồi dưỡng báo cáo điển hình.Cậu ta cúi mặt, mân mê chiếc cốc trong tay. Tôi nhìn những vòng ánh sáng chao đảo quanh miệng cốc pha lê, như những vòng sóng bất tận, không bờ bến. Những vòng sóng trên mặt đầm ấu thơ của tôi, - nơi những con sâm cầm ngã dưới làn đạn ghém tàn ác của những người săn chim từ thành phố đổ về, máu đỏ tưới nhau trên đám cỏ hoặc rơi xuống tan hòa cùng làn nước, - nơi đám trẻ ngụp lặn giữa cỏ và bùn phóng tầm mắt tới chân trời mộng tưởng - không có chi ngoài con tàu cổ lỗ chạy hơi nước, phun ra từng đám hơi lẫn bụi than, như con ngựa ghẻ của hiệp sĩ Xéc-văng-tát từ thế kỷ nào đó lạc tới, - nơi những đứa bé gái cưỡi trâu nhông nhông chạy trên đồng lần đầu tiên nhìn thấy hai núm vú nhỏ xíu giữa làn nước trong suốt - sợ hãi như con người tiền sử thấy sấm sét - vụng lén như tên trộm cất dấu của bất chính - hồi hộp đợi chờ nó nảy nở thành hai trái đào tiên - Và rồi hằn học chai lì nhìn chúng dăn dúm, teo tóp lại trên lồng ngực lép kẹp chưa một bàn tay đàn ông chạm tới chưa cặp môi non dại nào đòi sữa... Vòng sáng óng ánh kia... con đầm... những giấc mơ trong suốt như thủy tinh.Quả pháo thăng thiên vụt tan thành trăm ngàn vụn giấy...- Choang...Giờ cuốn tấm rèm, giật chiếc cốc trên bàn rơi xuống. Những mảnh pha lê bắn trên sàn đá hoa. Tôi thấy Kha đưa mắt nhìn. Cậu ta vẫn chờ lời phán quyết. Tôi ngồi xuống bên nó:- Tại sao?Kha nói khẽ:- Anh tha cho em.Nhưng tại sao cậu làm như vậy?Em không biết.- Cậu có biết.Kha im lặng. Tôi hỏi gặng:- Cậu làm như thế để được cái gì?Kha ngẩng lên, nhìn vào mắt tôi:- Nhưng không làm như thế em cũng chẳng được gì.- Cậu nhầm rồi! Cậu đã phá hoại tài sản của nhân dân. Tất cả những gì chúng ta đổi xương máu để có đều thuộc về nhân dân.Kha cười:- Làm gì có nhân dân?Cái vẻ nhếch mép chán chường của nó... Cái ánh mắt chán chường trên gương mặt tái xanh... Thằng lỏi khốn kiếp, vốn được tôi o bế, giờ coi tôi như một gã khờ đáng thương hại. Tôi cố nén cơn giận, mỉm cười:- Cứ nói đi... Ngày hôm nay cậu đã tàn phá bao nhiêu thứ?- Tụi em bắn tan ba công-ten-nơ đựng thứ đài to có mặt kính. Nghe thủy tinh nổ như mưa rào khoái cả tai. Rồi xơi đến mấy chiếc tủ lạnh trong bếp ban chỉ huy cứ điểm.Còn buổi tối thì...- Đủ rồi!Tôi ngắt lời:- Các cậu đã phá hủy một số thuốc đủ tiêm cho hàng vạn bệnh nhân. Còn thứ đài to có mặt kính là máy truyền hình, có thể chiếu cho hàng ngàn người...- Vâng...Kha ngắt lời tôi:- Nhưng số người được xem chiếu hình không phải là nhân dân... Nhân dân, trong đó có bố mẹ anh, bố mẹ em, có đám lính tráng này... đừng hòng xơ múi...Tôi bảo:- Tại sao cậu dám nói thế?Kha đặt tay lên vai tôi:- Anh Quân, đừng to tiếng... Năm em mười bảy tuổi, ở thị trấn, người ta quyên tiền xây dựng nghĩa trang cho các liệt sĩ hồi kháng Pháp. Tinh cờ, lúc nộp tiền, em ở nhà. Trong số tiền mẹ em nộp cho chính quyền có một tờ bạc có lỗ thủng bằng hột vừng đúng giữa hình bông lúa.Năm hôm sau, một đứa bạn gái học cùng lớp rủ em lên tỉnh chơi. Nó kém em vài tháng, được nước da trắng hồng nhưng mắt lác và rụt cổ. Nó mê em như điếu đổ. Trong chuyến đi ấy con bé tiêu tiền như ném rác. Cửa hàng nào nó cũng sà vào, mua toàn đồ xa xỉ, không cần trả giá. Số tiền nó tiêu một ngày gấp sáu lần số lương tháng của bố nó, ông chủ tịch thị trấn. Và trong số tiền hôm ấy, em nhìn thấy tờ giấy bạc có lỗ thủng bằng hột vừng đúng giữa hình bông lúa, đó rõ ràng là tiền của mẹ em!Tôi lặng im, Kha cũng lặng im. Chúng tôi nghe gió lang thang qua phi trường, nghe tiếng nổ lép bép của đám cháy nào đó chưa lụi hết. Lát sau, tôi nói:- Cậu làm tôi choáng cả đầu!Kha đáp:- Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi sự đã qua, vào những ngày lễ lạt, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng...Tôi choáng váng thật sự, như bị đè dưới đáy nước, giống hệt cảm giác hồi năm tuổi bị thằng anh họ điên khùng dìm dưới sông.Rồi Kha nói:- Anh đưa em ra tòa án binh cũng được... Nhưng mà em đã trót biết sự thật... em đã trót nghĩ như thế...Nó cúi đầu, mái tóc đen lánh đổ xuống... "Thằng khốn kiếp... Nó làm mình tái tê..." Tôi nhớ đôi bàn tay xanh lét của nó hơ trên lửa dạo ở trong hang Bò cạp. Tôi nhớ miếng thịt chim ưng núi vừa dai vừa khét nó chia cho tôi ở bên kia đường. Tôi nhớ thân hình mảnh dẻ của nó, trần truồng lông nhông chạy bên bờ suối, lúc nó bị sốt rét ác tính hành. Tôi nhớ... Bỗng dưng, toàn thân tôi run bần bật. Tôi quát:- Đồ khỉ... Lẽ ra cậu phải lãnh một viên đạn ở tòa án binh... Về ngủ... Từ ngày mai, bỏ trò phá hoại ấy đi...Kha đứng lên, lẳng lặng ra khỏi phòng.Tôi ngồi lại một mình. Gió ùa vào, cuốn những tờ giấy viết thư liệng khắp nơi. Tôi vớ quả chuông thủy tinh rồi ngồi nhìn những tờ giấy chao liệng như đàn bướm trắng khổng lồ. Những tờ giấy tiếp tục bay. Căn phòng tán loạn màu trắng. Tôi thấy lạnh. Không phải vì gió đêm, mà vì một bàn tay thần bí nào đó rút lửa khỏi xương tủy, da thịt tôi.Tôi lạnh hơn mười mấy mùa mưa lạnh buốt Trường sơn, mười mấy mùa chìm ngập giữa sương giá của rừng núi... Tất cả rét mướt mười mấy năm dồn lại cho buổi tối này... Tay chân bủn rủn, tôi đặt quả chuông xuống sàn đá, mặc cho gió lồng lộn thổi đám giấy trên bàn, vãi tung tóe, cuốn khỏi ra cửa, mang vào khoảng đêm đen ngoài kia...Một con gà gáy gọi bình minh.- Cúc cù cu cu cu cúc cù cu.Tôi ngồi dậy, đi tìm nó. Suốt đêm tôi không chợp mắt, người nhão như vải thưa. Cậu liên lạc mới, vừa tới:- Thủ trưởng dậy sớm thế?Tôi bảo:- Đun nước pha cho tôi ấm chè.Cậu ta đập gót chân:- Rõ.Trông cậu ta hớn hở ra mặt. Mười tám tuổi rưỡi, vừa gia nhập quân ngũ vài tháng đã được tiến về giải phóng đồng bằng. Anh chàng chưa biết đói khát, sốt rét, u sầu, thèm gái, nhớ quê... Nó được bổ xung thay cậu liên lạc cũ tử vong trong chiến dịch Ngôi sao Bắc đẩu. Tôi đi qua phi trường, khí lạnh ban mai khiến đầu óc dần tỉnh táo.- Cúc cù cu cu cuTiếng gà gáy cất lên lần thứ hai, hào hển hơn, vang từ phía sau bức tường đổ. Tôi dẫm qua đống gạch vụn, lổn nhổn vỏ đạn, vỏ đồ giải khát, bông băng và bắt gặp một chú gà trống trắng đứng lẻ loi trong chiếc chuồng đan bằng thép mắt cáo. Chiếc chuồng rất đẹp đứng giữa đống đổ nát của tòa nhà. Đúng là phép lạ của thần linh .Trong chuồng, còn nửa lon gạo tấm, nửa lon ngô xay với bát nước. Một mảnh pháo nhỏ nằm cong queo giữa đáy ý tưởng như tia chớp vọt qua: "Mày là con gà trắng yêu quái trong chuyện cổ An Dương Vương hay sao mà hiện ra trong buổi sớm này?" Con gà trắng nghiêng đầu nhìn tôi: "Sao không?... Ta cất tiếng gáy ở đâu, ở đó những thành trì sụp đổ "- Báo cáo thủ trưởng...Tôi giật mình quay lại. Cậu liên lạc đã đứng trước mặt tôi:- Báo cáo thủ trưởng, một nồi luộc ạ...Cậu ta chỉ con gà, hấp háy:- Con này vừa nồi luộc. Trưa nay thủ trưởng cho phép...Tôi cố gắng nén cảm giác khó chịu, hỏi:- Có việc gì?Thấy vẻ lạnh lùng của tôi, cậu liên lạc cụt hứng. Cậu ta thò tay gãi đầu, nói:- Báo cáo, nước đã sôi... Em đã pha chè... Mời thủ trưởng...Tôi bảo:- Về trước đi.Cậu ta đi, tôi cũng đi luôn, tâm hồn nặng trĩu. Cho tới khi uống chè với Thái, tôi vẫn không thoát được tâm trạng ngột ngạt. Tôi thầm oán hận Kha, nhưng không hiểu vì sao tôi thấy Kha có lý. Những lời tiên tri mơ hồ bay chập chờn như đàn quạ đen trên nghĩa địa thành phố.Thái bảo tôi:- Theo lệnh trên, bảy giờ tối nay đơn vị xuất phát. Tôi cho anh em ăn tươi buổi trưa.Tôi nói:- Phải đấy. Mà làm sớm lên. Bữa chiều ăn lúc bốn giờ ba mươi cho nhẹ bụng.Thái gặng:- Anh có cần dặn dò các trung đội không?Tôi lắc đầu:- Không.Thái ăn nốt mẩu lương khô rồi đi.Tôi ngồi lại một mình, bị vây bọc giữa nghi ngờ và oán hận. Ngoài sân phi trường, đám lính lăng xăng chạy đi chạy lại . Một không khí nao nức đến cuồng nhiệt hun đốt mọi người. Ánh mắt khát khao, nụ cười bồn chồn, cử chỉ hăm hở vội vã . Tất cả bị cuốn trong guồng quay của bánh xe. Tất cả lăn tới chân trời phía trước, nơi khải hoàn môn đã sừng sững hiện lên sau những đám cháy và sau màn bụi đỏ...Tôi cô lẻ. Tôi bị câu chuyện của Kha làm tê liệt. Trái tim yếu hèn của tôi không chịu được dày vò. Thằng lính trong tôi mạnh hơn tôi. Nó đã chiến đấu cừ, nó đã chịu đựng hết thảy mọi gian khổ, một trong số mười hai người ít ỏi còn lại từ con số một trăm năm mươi chiến sĩ của đại đội ban đầu.Vậy mà nó đã đi qua cuộc hành trình dằng dặc ấy không một giấc mơ, không thèm khát vinh quang, không trông đợi một phần xôi thịt. Trong trí óc lạnh lẽo của nó, khải hoàn môn đã hiện ra như một chiếc cầu vồng sặc sỡ nhưng khi đi qua nửa vòng tròn mộng tưởng ấy, người ta sẽ lại lội trong bùn thuở nguyên sơ, với những rạch cày từ thuở nguyên sơ...Trưa ấy, trong bữa cơm khao quân, sâm banh nổ đôm đốp vang tuôn chảy như suối. Tôi cố tình không nhìn Kha nhưng tôi biết cậu ta nhìn tôi. Cái nhìn thương cảm. Có lẽ, vẻ xanh xám ngơ ngác của tôi, với nó là bộ mặt của một thằng bé lần đầu bị bỏ trong phòng tối... !! Sư mày... thằng lỏi con chơi nước kiệu. Mình đã quá mềm yếu... Phải trị cho nó một trận..." Tôi cố giữ cảm giác điên khùng. Tôi đưa mắt hằm hằm nhìn xung quanh. Đúng lúc tôi nhìn Kha, cậu ta mỉm cười. Nụ cười xẻ chia, buồn như nắng cuối đông. Trong nụ cười của nó có vẻ ngượng ngùng của một kẻ vác nặng xẻ gánh cho người khác. Nó đã vác gánh nặng ấy quá lâu, một mình, và thời gian không còn cho đủ lòng kiên nhẫn...Bốn bề xung quanh, tiếng nói cười, tiếng ly cốc ồn ào sôi động. Hưng phấn tràn trề. Những gương mặt hừng hực lửa hy vọng. Đoàn xe đã nổ máy ngoài kia, chuẩn bị cho cuộc hành quân vào lúc lặn mặt trời. Tôi chợt hiểu rằng chỉ có tôi và Kha là hai kẻ bất hạnh duy nhất trong đoàn quân nồng nhiệt này, chúng tôi đã bị trói buộc cùng nhau bởi đã xẻ chia một điều bí mật...Rạng đông đỏ lừng lững như sóng đỏ tràn trên mặt đất.Xe chúng tôi lăn qua mặt lộ rải rác đầy giày dép, quần áo mũ, túi xách, ba-lô, đạn vàng choa, bàn chải gãy, su- chiêng của đàn bà, bánh mì kẹp thịt bị xéo nát, búp bê nhựa nát đầu, dấu vết của cuộc rút chạy nóng hổi.- Tiến về đồng bằng, ta tiến về đồng bằng...Một cậu hét to. Cả đám hòa theo:- Tiến về đồng bằng, anh em ơi i i...Gió thốc lại. Bụi đỏ bay mờ mịt. Một cậu sau lưng tôi cất tiếng cười:- Ha ha... Bao nhiêu năm nay chúng ông rúc trên rừng.– Đ. mẹ chúng mày. Giờ chúng ông đã về đây, sướng sướng sường sương nhé...Tiếng cười rộ lên trong tiếng gió gào và tiếng máy. Tới ngã ba cao nguyên, gặp một đoàn tăng từ cánh trái đi tới.Phía trước, một chiếc jeep trắng của quân ngụy bỏ lại, bánh cháy lụi, tên lính lái xe chết gục mặt vào vô-lăng. Đám lính hét to:- Anh em tăng đâu... nghiến mẹ nó đi... nghiến đi...Đám lính tăng ngồi trên tháp giơ tay vẫy.- Hoan hô... hoan hô...- Xin chào...Tụi lính của tôi hào hứng đứng lên, hoa chân múa tay, gào tới rách cổ: - Nghiến mẹ nó đi, anh em ơi...Đám lính tăng hình như nghe thấy. Một cậu từ tháp pháo tụt xuống. Vài giây sau, chiếc tăng quay đầu từ từ bò tới nghiến chiếc jeep:- Hoan hô... hoan hô...- Anh em tăng tuyệt vời i i...Tôi quay đi, chợt bắt gặp ánh mắt của Kha. Mặt cậu ta thản nhiên, môi khẽ nhếch lên cười. Đám lính của tôi còn hò hét vẫy chào mãi khi đoàn tăng vượt qua ngã ba cao nguyên rẽ sang đường khác. Xe chúng tôi tiến lên, tiến lên...Và tôi dần dần ngủ thiếp đi trong tiếng hát của bọn lính mới được bổ sung. Sức lực còn dư nên chúng gào mãi không chán...Trong lúc ngủ, tôi vẫn hình dung ra trận đánh tới. Có lẽ nó sẽ ít hiểm nguy hơn những trận đã qua một trăm lần.Quân địch đã rút lui hỗn độn. Một cuộc rút lui như thế sẽ huỷ diệt tới giọt cuối cùng tinh thần kháng cự. Chúng tôi sẽ thắng... Khải hoàn môn lấp ló phía chân trời. Tim tôi trào lên niềm hoan lạc đau đớn cùng lúc óc não tôi hiện lên một ảnh tượng lạnh lẽo: Tôi thấy tôi tách khỏi đám đông, đang níu lấy những cây cột sơn son thếp vàng để dò dẫm tiến về cánh đồng phía trước. Cánh đồng ấy trơ trụi những gốc rạ, loang loáng mặt đầm xa. Một đàn cò đang lặn lội mò tép. Tôi đi theo chúng, câm lặng như cái bóng, đôi chân trần sục giữa cỏ và bùn.Trận đánh đã diễn ra như một màn giáo đầu tiếp tới đoạn kết thúc, chóng vánh không ngờ, và, so với những trận đánh trong mười mấy năm vừa qua, nó tựa như trò chơi...Tôi không nhớ qua bao lâu mình ngồi giữa sở chỉ huy của địch, hầu như nguyên vẹn, và nghe tiếng đồng hồ quả lắc đong đưa trên tường. Cứ nửa giờ lại một giai điệu thánh thót ngân nga. Trong ngăn kéo bàn chỉ huy, có một đống giấy tờ, sơ đồ, hóa đơn và ảnh đàn bà cởi truồng màu sắc chói lọi như lưỡi quỉ. Đột nhiên, cậu liên lạc chạy vào:- Báo cáo thủ trưởng...Tôi hỏi:- Cái gì?Trong đám tù binh có một thằng Mỹ. Anh em hỏi thủ trưởng xem xử lý ra sao?- Quái lạ! Lính Mỹ rút từ hai năm trước. Sao còn một thằng rớt lại đây? - Báo cáo thủ trưởng, nó to như hộ pháp, nói xí xồ không ai hiểu gì...- Đem nó lên đây.Cậu liên lạc dạ một tiếng ngoan ngoãn rồi chạy đi. Tôi lơ đãng nhìn ra cửa ngập nắng, lòng trống rỗng. Rồi ít phút sau, đám lính của tôi giải thằng Mỹ vào. Có tới bốn cậu nhăm nhăm tay súng. Tù binh bị trói quặt tay ra sau, đi quanh quạng. Hắn cao lớn thật, tóc vàng trơn bóng, mắt xanh lơ. Đám lính của tôi dúi hắn quỳ giữa nền nhà. Cả cây thịt to rơi huỵch xuống, mặt hắn nhăn lại vì đau và đôi mắt xanh lơ của hắn ngước nhìn tôi. Một cái nhìn không thể diễn tả. Tôi hỏi:- Đại đội ta có ai biết nói tiếng Anh không?Một cậu đáp:- Báo cáo, lúc bắt được hắn, thủ trưởng Thái cũng đã hỏi khắp rồi, nhưng chẳng ai biết tiếng Anh. Đồng chí Kiệm biết tiếng Nga hỏi hắn thì hắn lắc đầu.Tôi bảo:- Cởi trói cho nó. Súng ống như rừng vây quanh, làm sao nó trốn được!?Đám lính cởi trói cho tên tù binh. Hắn nói gì đó, chắc là lời cảm ơn, và co duỗi những ngón tay bầm tím. Tôi nhìn những ngón tay trắng nõn của hắn, trắng như những mầm giá đỗ. Hắn lại nói với tôi từng tràng tiếng Anh, vừa nói vừa làm điệu bộ. Hình như hắn muốn chứng minh hắn không phải là lính, chỉ là một phóng viên hay thợ chụp ảnh nên hắn hết đập vào ngực, lại chỉ vào chiếc áo sơ-mi và làm động tác của mấy anh phó nhòm.Da hắn hồng, với những đám lông nâu loăn xoăn trên ngực. Màu da trắng hồng, màu tóc vàng, màu lông hung nâu, màu mắt lơ... Những hình sắc dị biệt ấy xưa kia đã là tiêu điểm cho lòng căm thù truyền kiếp... Kẻ ngoại xâm... Kẻ ngoại bang. Những ông tổ xa xưa của tôi từng căm thù cái đuôi sam của bọn rợ Hung nô như vậy. Lòng thù hận ấy đặt sức mạnh vào cái lẫy nỏ hoặc lưới gươm. Chúng tôi cũng đã có cùng một sức mạnh ấy khi phóng những quả đạn B40 và B41, khi lia từng tràng tiểu liên, khi xọc lưới lê...- Mất thì giờ quá...Một cậu lính kêu.Một cậu khác nói:- Em nghi nó là gián điệp. Tống giam.Cậu kia kêu lên:- Giam hả?... Lấy ai canh giữ. Cho mẹ nó một viên kẹo đồng.Cậu thứ ba bảo:- Phải đấy thủ trưởng ạ... Đơn vị mình còn tiếp tục đi. Giữ làm quái gì cái của nợ này...Tên tù binh đưa mắt nhìn quanh. Nó nhìn đám lính của tôi đang bàn cãi, mỉm cười làm thân. Đồ bò, nó chẳng hiểu gì cả. Nó tưởng người ta đang bàn cách làm các món ăn chắc?... Mái tóc vàng lúc lắc khi nó cười. Rồi nó khẽ nhún vai... Lúc ấy tôi mới thấy đôi vai nó to và dày làm sao! Cả tấm lưng đồ sộ kia nữa!Vai và lưng nó hoàn toàn giống Biền. Dường như đôi vai ấy và tấm lưng ấy sinh ra để gánh mỗi ngày hơn trăm gánh lúa. Hắn vẫn cười ngô nghê nhìn tôi.Bỗng dưng, tôi thấy lòng thù hận trong tôi dời chỗ. Hình như nó đã đi dạo chơi đâu đó, như con hổ bị nhốt đã xổ cũi dạo chơi trong rừng... Dã thú cũng tới lúc mệt mỏi...Trước đây, cứ nhìn màu da trắng hồng kia, mái tóc vàng óng kia là tôi nổ súng không nghĩ ngợi! Kẻ ngoại xâm, - tiêu điểm của hận thù! Lòng tự tôn đã bó kết với thù hận! Sự bảo tồn gắn với hủy diệt! !...- Thủ trưởng...Đám lính của tôi lên tiếng:- Thủ trưởng quyết định đi...Một cậu hạ giọng:- Tụi Mẽo này chuyên ăn thịt, thủ trưởng ạ... Mình lấy đâu của thừa mà nuôi nó?... Thủ trưởng đồng ý đi... Em đòm cho. Tích tắc là xong...Tên tù binh nhìn tên lính của tôi, nheo nheo mắt như suy ngẫm. Tôi chợt hình dung trái đồi xanh rờn, gã trai trẻ này ôm người đàn bà của hắn lăn trên cỏ. Có thể là một đứa con gái thành thật như lũ ngợm tôi vừa xem ảnh cởi truồng.Cũng có thể là một thôn nữ, có cái tên mộc mạc như tên con gái quê tôi: con Hoa, con Hòa, con Vinh, con Lài, con Mơ, con Mận...Cũng có thể một đêm xuân mát rượi, hắn từng gác chân lên chân bạn và mơ tưởng đến cuộc ái ân sấm sét giữa các thánh thần như Biền từng mơ tưởng đến bà Nữ Oa với ông Tứ Tượng...Rồi hắn phải từ bỏ tất thảy những vui thú ấy để mặc áo lính ra đi vì lý tưởng quốc gia, vì những giọng nhật ký miên man cuốn hút, vì một buổi rạng đông nào đó hắn bị cám dỗ bởi hình ảnh của chính mình nơi chân trời khói lứa, ngực lủng lẳng những tấm mề-đay... Mọi ý tưởng ấy làm tôi lạnh toát sống lưng.- Báo cáo thủ trưởng...Một cậu lính kêu:- Sắp tới giờ ăn, tụi em đói quá... Xin thủ trưởng quyết định cho.Tôi nói, giọng lạnh lùng:- Các cậu nghĩ mọi việc đơn giản như đùa! Chiến tranh sắp kết thúc, không còn là thuở sống giữa rừng. Lúc này, bất kỳ ai, kể cả bản thân tói, vi phạm chính sách tù binh sẽ phải ra tòa án binh lãnh tội.Nói xong, tôi quay ngoắt đi.Thái độ đó có hiệu quả. Đám lính của tôi giải tên Mỹ đi lặng lẽ, không dám xô đẩy hắn thô bạo như trước.Tôi lại trở về chỗ ngồi cũ, nghĩ tới những sợi tơ nhện đong đưa trước gió, những trò ú tim tàn bạo của chiến tranh. Trên đường tiến quân, tôi đã chứng kiến biết bao thây người treo lủng lẳng trên cành cây, kẻ bị móc mắt, kẻ bị phanh thây làm đôi, kẻ bị cắt gân đầu gối buộc gập lên như con cào cào bị bẻ càng... Những cuộc trả hận không ai kiểm soát được . Vào lúc từng loạt pháo rền để báo trước tiếng đại bác ngày chiến thắng, tiếng kêu của bầy quạ cũng vang lên trên các nghĩa địa và quanh những thây ma chưa được vùi lấp. Mùi tử thi lẫn mùi thuốc súng hôn mê...Mặt trời lặn trong lúc đèn bật sáng khắp nơi. Ánh tà dương trộn cùng ánh đèn, trộn cùng ánh nến. Đám lính của tôi vớ được một hộp nến, chúng cắm la liệt khắp các phòng và ngoài sân. Đêm tới cùng bữa ăn náo động. Tổ cấp dưỡng khui được cả hầm rượu, mở ra đổ vào chậu tắm. Một chậu tắm khổng lồ tràn đầy thứ rượu màu vàng: pha trộn đủ loại vang, sâm banh, cô-nhắc. Lính mạnh ai nấy thò ca múc tùy tửu lượng. Mỗi gương mặt như nhân lên hàng trăm lần vì hàng trăm ngọn đèn và nến... Cười, nói, chếnh choáng, hớn hở, ca hát...Trên bàn ăn, bày đầy những món đồ hộp của ta và đồ chiến lợi phẩm: cá hộp Liên xô, cá hộp Mỹ, thịt hộp Trung quốc, bánh quy Mỹ, nho khô Mỹ, táo Tầu... Bữa ăn kéo dài lâu lắm. Thái ngồi bên tôi, hình như cậu ta nói gì đó rồi len lén cúi xuống chùi nước mắt. Tôi chắc Thái nhớ đứa em trai đã hy sinh.Tôi định nói vài lời an ủi Thái nhưng tôi lại lặng im. Vì tôi cũng nhớ em trai tôi. Sau đó tôi chẳng nhớ ai nữa. Tôi nhớ tới một gương mặt vô danh, vừa câm lặng, vừa sống động trồi lên ngọn triều quá khứ... Mười mấy năm trôi qua...Nó mỉm cười...Một số cậu say loạng choạng ra về. Số khác chụm lại tán gẫu. Tôi chợt thấy Kha kéo Tạo đi ngang qua. Hai anh chàng ra cửa. Có tiếng va chạm của vỏ đồ hộp ngoài kia.Tiếng cười hô hố. Rồi tiếng Tạo kêu:- Anh Kha, đái đi.Kha đáp:- Ờ thì đái ì i...- Em đố anh đái đầy hai hộp cá này.- Mày muốn thi hả ?... ơ... thì thi...Tiếng tồ tồ của nước tiểu rót, lúc nhỏ, lúc to. Rồi Kha nói:- Mày lợi hơn đấy nhé... Tao say, tao đái rớt ra ngoài.- Nào, lấy nến ra xem cho rõ.Tạo nhảy xổ vào phòng, lấy ngọn nến trên bàn đem ra.Một phút sau, anh chàng reo vui vẻ:- Bằng nhau... Của anh, hai hộp cá Mỹ. Em được nửa hộp thịt lợn Tàu... Coi như hòa...Tiếng Kha:- Ờ bọng đái tao với bọng đái mày to bằng nhau... Bố khỉ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ say mà đêm nay thấy cái mặt mày nhảy nhót ... Tạo, về ngủ thôi...Tiếng chân bước xa dần. Đám lính quanh tôi cũng lục tục kéo nhau về. Sau rốt, còn lại hai chúng tôi. Thái hỏi:- Bao giờ mình đi tiếp nhỉ?Tôi trả lời:- Chờ lệnh trên.Thái ngậm ngùi:- Bao nhiêu năm nay, đơn vị mình toàn là mũi tiến công chủ chốt.Tôi cười:- Mỗi năm mỗi khác. Giờ chỉ có mười hai thằng lính già. Còn lại toàn lính mới, đưa chúng nó lên các điểm nóng làm chả nướng à?...Thái nói:- Dù sao cũng buồn, anh Quân ạ...Tôi bảo:- Ờ, thời oanh liệt nào cũng qua.Thái hỏi:- Sau đây, rồi sẽ ra sao?Tôi cười:- Tôi biết gì mà hỏi tôi? Cá mè một lứa cả...Thái im lặng một lát rồi hạ giọng:- Đại đội ta là đại đội anh hùng... Chúng mình... anh với tôi sẽ được đề nghị phong hàm vượt bực đấy...Tôi không trả lời Thái. Tiếng anh rót bên tai tôi đều đều nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng róc rách của lạch nước dưới chân cầu, tiếng lúa rì rào trên đồng. Một điệu ca lảnh lót giữa chốn quê hương u tịch:" Trèo lên Quán Dốc, ngồi gốc cây đa ". . .Giai điệu ấy cùng cây nhị ư ừ rền vang những năm tháng Trường sơn... Chú lính nhỏ bé của tôi... Chú lính tội nghiệp của tôi trong buổi sớm giá lạnh ấy đã trúng đạn rơi xuống...Và máu trai loang đỏ tấm dù...
Tuesday, April 26, 2016
Tiểu Thuyết Vô Đề (Chương 15) Dương thu Hương
Tiểu Thuyết Vô Đề (Chương 14) Dương thu Hương
Chương 14Lương đã chờ tôi ở điạ điểm tập huấn. Anh tới đây một tuần để chuẩn bị nội dung. Tóc anh bạc một mớ bên thái dương. Đêm đầu tiên có văn công quân khu phục vụ nên không ai còn tâm trí nghĩ tới chuyện nào khác. Tôi cũng thế, tôi quên Lương ngay khi trước sân khấu hội trường, - đào ngầm trong lòng đất, - người ta treo lên hai tấm màn đỏ.Từ sau tấm màn ấy vọng ra tiếng vĩ cầm sai lạc và tiếng đàn ác-cóóc-đê-ông vụng dại oàm oạp như ếch kêu nhưng chúng làm cho tim tôi như đứng lại cùng những hồi ức học trò, hy vọng được tái sinh.Tôi đứng đần độn trong một xó rừng, không ai hay biết, nghe đám nhạc công thử dây đàn, tấu những khúc nhạc lộn xộn và đôi khi có tiếng cười lanh lảnh của một người con gái. Tiếng cười ấy làm tôi thèm muốn chết được gặp cô.Nhưng nỗi sợ hãi cầm chân tôi tại chỗ. Rồi một anh chàng đi qua, kéo vai tôi:- Vào đi sắp tới giờ biểu diễn.Tôi đi theo anh ta, như bè nứa bị đẩy ra dòng nước.Những bài hát và điệu múa nối tiếp ra sao, tôi không còn nhớ. Tôi dán mắt vào những gương mặt hồng hào, tươi đẹp, những tấm thân quyến rũ của cả đám đàn ông lẫn đàn bà trên sân diễn. Tôi chẳng nghĩ gì. Tôi bị hút hồn. Như kẻ lạc rừng đêm, bước về phía ánh lửa, như kẻ đi biển hướng về mỏm núi, tôi bị thôi miên bởi vẻ đẹp từ lâu thiếu vắng và quên lãng. Nụ cười ấp ánh, cái liếc mắt mồi chài, cánh tay trắng phau, lườn lưng mềm dẽo và dính hút như nhựa đánh bả, những ngôi sao trong suối tóc đen, giai điệu phiêu du của ái tình và tuổi trẻ, cặp mông Thị Mầu, giải lụa màu thiên thanh phấp phới bay những bông hoa dại khờ đính trên gấu váy... Những tràng vỗ tay ran tứ phía, lan truyền như sóng.Tôi cũng vỗ tay thật to. Vỗ mãi, mãi, mãi... Rồi một người giật tay áo tôi:- Cậu điên à?...Tôi không trả lời, ngơ ngẩn nhìn...Anh chàng nhăn nhở cười vào mũi tôi:- Máu quá phải không?Tôi gật đầu đáp bừa:- Ừ, máu.Anh ta cười nhăn:- Máu cũng phải từ từ không họ cười cho... Sắp chỉnh huấn rồi, thằng nào thù nó để ý thì sinh lắm chuyện.Tôi chỉ ư hữ, gật gù, anh kia cũng gật gù nói tiếp:- Nghĩ đời chán bỏ mẹ, máu một tí cũng không dám...Tôi định nói với anh chàng điều gì đó nhưng Lương đã đi tới . Đầu anh luôn luôn thẳng đứng trên cần cổ cũng thẳng đứng và vẻ mặt trầm tĩnh. Anh bảo:- Về phòng tôi đi.Tôi chào anh chàng vui tính, đi theo Lương. Chúng tôi đi qua những đường mòn, chằng chịt đan chéo nhau như một tấm mạng nhện khổng lồ trên mặt đất phủ đầy lá mục và lửa lân tinh.Các đám người tấp nập qua lại, ánh đèn pin loang loáng, các sơ đồ doanh trại cầm tay, tiếng hỏi đường, tiếng tán dóc, tiếng cười, tiếng xì xầm trò chuyện tạo thành bản hòa tấu của cả bày ong đêm.Lương hỏi:- Đoàn nãy diễn hay không?Tôi đáp:- Hay.Anh pha chè đen, khoắng hai thìa đường và đặt trước mặt mời tôi:- Uống đi.Chờ tôi uống hết cốc nước, anh mới nói:- Tôi không định báo tin này cho cậu... Nhưng trước sau rồi cũng biết.Tôi nhìn vào mặt anh. Lập tức, đôi mắt anh sập xuống.Tôi hiểu rằng có cái gì đó trọng đại. Tôi hỏi:- Anh định điều tôi sang một đơn vị mới phải không?- Không.- Sắp có tai biến trong sư đoàn mình?- Không.Tôi không hỏi nữa, ngồi chờ... Một lát, trong tầm nhìn xa xăm và trong tiếng thở dài, Lương khe khẽ:- Biền chết rồi.Tôi lặng im.Anh nói tiếp, chậm rãi:- Biền đạp mảnh pháo. Vết thương nhiễm trùng uốn ván...Tôi đứng lên:- Anh dẫn tôi đi gặp thằng Húc. Tôi muốn biết nó chết như thế nào.Húc không về tập huấn. Đơn vị đặc nhiệm được miễn vì nhận chỉ tiêu đột xuất. Chúng ta sắp mở chiến dịch lớn.Trên bổ xung cho Húc hai đại đội. Giờ cậu ấy là tiểu đoàn trưởng, vừa được phong hàm...Tôi hỏi:- Chỉ tiêu mới?... Bao nhiêu? Một vạn hay mười vạn chiếc hòm?Lương ngồi im, cái đầu cứng đơ trên cần cổ cúng đơ.Tôi biết anh không nói. Không bao giờ nói...Trong óc tôi diễu qua đoàn người. Đoàn Vân kiều cõng những chiếc quan tài ra mặt trận, bóng họ in trên đường triền núi trong buổi rạng đông xanh rờn. Rồi những đoàn xe tải phủ kín bạt chở những chiếc hòm đó xuyên rừng, xuyên núi, lắc lư. Những chiếc quan tài, như những con mắt rỗng không, những túi tiền rỗng không, chờ đợi...Lương vẫn ngồi lặng lẽ. Tôi bỗng sợ hãi anh:- Anh Lương, chẳng lẽ anh không nói gì với tôi?Lương im lặng.Tôi gọi giật giọng:- Anh Lương!Lương ngẩng lên:- Mình buồn lắm, Quân ạ... Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Và sứ mạng lịch sử đã trao cho nhân dân mình..."Câu nói ấy thì tôi đã nghe hàng vạn lần trong các buổi phát thanh... hàng vạn". Tôi chào anh, đi về. Hình như anh định đứng dậy tiễn tôi, nhưng tôi đi quá nhanh, tôi không nhìn anh. Người bạn thời thơ ấu.Chúng tôi đã cùng nhau nhảy xuống sông làm ánh dương đọng trên mặt nước vỡ thành trăm ngàn mảnh, lấy cọng cỏ đo chim nhau xem thằng nào dài hơn. Cả Lương, cả Biền, cả tôi đều có con cu bằng quả ớt. Thời ấu thơ của tình thân ái... thời ấu thơ bình đẳng!Những con chim đa tình gù suốt những trưa hè trên ngọn tre. Những con cào cào nhảy chanh chách trong đám cỏ ven đê. Những người đàn bà da thịt phốp pháp ví von hát ghẹo nhau, đuổi rượt nhau, ôm nhau lăn trên bờ ruộng khiến lũ trẻ chúng tôi tràn đầy sung sướng... Có con diều neo giữa khoảng trời lơ, khiến những giấc mơ cứ muôn đời lơ lửng trong thinh không... Còn mặt đất lầy bùn, lầy thịt người thối rữa. Những con mắt thối rữa cho chim ác là khoét. Những cẳng chân cẳng tay thối rữa cho con lợn lòi khốn quẫn sục mõm vào. Những tâm hồn thối rữa vì thói quen chém giết, vì lạc thú mò mẫm chốn chuồng bò, vì chứng hoại thư cấy vào lòng trắc ẩn...“Thằng khốn kiếp, nó đã không chịu nghe lời mình...”! Tôi nhớ buổi sáng Biền tiễn tôi đi. Giá nó nghe tôi trở về làng làm sống lại chàng trai má hồng gánh một ngày trên trăm gánh lúa!... Giá mà... Đấy là câu nói đặt giữa hai bờ tiếc thương và tuyệt vọng. Giá mà... Chính tôi cũng không thể đặt cho mình hai từ ấy.Trong cái đêm xuân mát rượi ven sông, tiếng cá quẫy và tiếng cỏ rì rào làm cho bầu trời trở nên gần gũi hơn, có ba thằng trai làng đã nằm gối đầu lên cánh tay, mơ mộng. Các giấc mơ như lũ bọ-gậy cung quăng bơi lội. Lũ bọ-gậy ấy đã trôi tuột vào cái mồm của một con thủy tức, - ấy là giấc mơ kỳ vĩ của đám đông, - giấc mơ hiển thánh giữa cung đình toàn nhân loại.Ta đã để cho các con những khải hoàn môn...Tiếng nói của hồn ma xưa vọng khắp cánh rừng, lẫn tiếng lá, lẫn tiếng thác. Tôi ngồi xuống bên chân thành ốc, nghe tiếng tiêu u hoài. Ông tổ tôi gác ngọn giáo, ngồi bên tôi . Từ đám xà-cạp quấn quanh hai bắp chân voi sưng phồng, bốc lên mùi mồ hôi lưu cữu. Những giọt nước mắt xanh rờn đọng trên mi mắt ông. Hai bên thái đương, hai bên mang tai ông lún phún từng đám rêu già.Tôi hỏi:- Sao lúc nào ông cũng khóc? Chúng tôi đâu có cần thêm nước mắt của các hồn ma?...ông tổ tôi đáp:- Ta khóc cho các con.Tôi bảo:- Ông nên khóc cho hai bắp chân voi kia, cho ngọn giáo kia, cho cái túi ngô rang lưu cữu kia...Bóng ma gật đầu:- Ờ, nhưng chúng ta đã đuổi quân của Thành cát Tư hãn.Tôi bảo:- Khải hoàn môn ấy cũ rồi. Nó cũng sẽ mục nát như những mái chùa thời ấy.Bóng ma nói:- Con đừng bội bạc. Không có cái khải hoàn môn cũ kỹ ấy, đầu gối các con sẽ nhũn như bông trước lũ giặc hôm nay.Tôi bảo:- Nhưng thời ấy, loài người không biết tới tên tuổi đất nước này.Những giọt nước mắt xanh lóng lánh trong đêm nối nhau lăn. Bóng ma cúi đầu nức nở:- Giọt máu phiêu bạt của ta... Ta thương con...Tôi im lặng, nghe tiếng núc nở vang trong đêm. Hồi lâu bóng ma ngước nhìn tôi với đôi mắt u uẩn:- Chúng ta đánh giặc để giữ bàn thờ tiên tổ, chúng ta đánh giặc để bảo tồn nòi giống, chúng ta không đánh giặc vì tiếng tung hô của ngoại nhân...Một tiếng thở dài tan trong gió. Rồi đôi chân voi sưng phù lê vào lối mòn. Mùi mồ hôi lưu cữu bay lại. Rừng đêm khép dần bóng ma xưa. Chỉ còn lại với tôi ngọn lửa chập chờn hư ảo, tỏa một thứ ánh sáng xanh trong suốt, tái tê.- Ai?... Đứng lại.Tiếng quát.Tôi nói:- Chim én tới mùa xuân.Tiếng nói diụ lại:- Sao đồng chí đi khuya thế ?- Tôi từ chỗ đồng hương về.- Về ngủ đi. Mai phải lên hội trường sớm.Rồi tiếng chân xa dần trong rừng đêm. Cây đèn trong tay tôi vừa lúc hết pin. Mò mẫm mãi tôi mới về tới chỗ ngủ. Bốn bề xung quanh tiếng ngáy vang lên. Tôi rúc đầu trong chăn. Người nằm cạnh tôi mắc chứng đái dầm. Sáng ra một góc chăn tôi ướt sũng, bốc mùi khai. Anh ta không thèm xin lỗi tôi mà cỡn càu nhàu:- Hỏng mẹ nó máy rồi... Thế này về làng, đéo... con nào nó lấy!Tôi lẳng lặng ôm chăn xuống suối giặt. Anh ta cũng ôm mớ quần áo bẩn và chăn xuống theo. Trời rét, sương mù bay cuồn cuộn. Nước giá như kim châm vào tay, hơi lạnh thốc vào mặt. Người đàn ông đái dầm bị trượt chân, ướt cả hai ống quần. Anh ta vừa vò quần áo vừa run lập cập rồi bỗng dưng quay sang tôi gây sự:- Sao ông không thèm nói với tôi?... Kiêu thế?... ông muốn khinh tôi hả?...Tôi ném chiếc chăn ướt xuống chân, quay sang ước lượng: “Từ đây tới đó đúng ba bước chân, thuận một cú đá. Chỉ một tích tắc, mày sẽ được bơi lóp ngóp giữa dòng, tha hồ mát..." Bộ mặt anh ta tái rét, một điểm tím tụ trên sơn căn. Cái cần cổ vươn ra như cần cổ một con gà chọi về già trên cổ áo thu đông đã sờn cũ. Tôi chợt rùng mình "Mặt ám thế kia, chắc sắp tỏi rồi... Không thoát khỏi trận tới." Tôi đã hình dung ra chiến dịch mới qua không khí căng thẳng của những bài tập chỉnh quân. Một ngày mai... thoáng liếc nhìn gương mặt tái xanh, tôi thấy hai hố mắt rữa nát giữa bùn vùng chiến địa. Tôi thu tay về, cúi xuống vò tiếp chiếc chăn dù. Còn anh ta vẫn vênh váo nhìn tôi, miệng lầm bầm:- Tưởng định gây chuyện với đây?...
Tiểu Thuyết Vô Đề (Chương 13) Dương thu Hương
Chương 13Mưa vẫn rơi sầm sập trút thác ngoài trời. Các mái lán rung rào rào dưới mưa rơi. Nước hắt bụi vào tận nơi tôi ngồi lạnh lạnh, tê tê. Tôi nhìn màn mưa trắng xóa, thấy núi rừng trùng điệp lô xô, mặt trận nọ nối tiếp mặt trận kia, hun hút tới chân trời.Trên vùng đất mênh mông ấy, lúc nhúc những binh đoàn như kiến đen và kiến đỏ, kiến gió và kiến lửa, kiến ong và kiến mối... lúc nhúc ngoi lội giữa bùn, giữa nước, giữa đồng khô nắng cháy...Cả hai bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, - cả hai bên đều rú lên khoái trá khi máu đối phương phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, - cả hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, - phần sống sót lê khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, - phần đã chết tự hiến nốt hình hài cho các loài ác thú và dòi bọ.Cả hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có chung một nòi giống, con của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể được tái sinh trong cùng một bào thai - không xứ sở nào có được cái huyền thoại mê ly đến thế!...Tôi đã sốt liền một tuần không ăn uống. Y tá chuyền nước muối đẳng-trương và đường Glu-cô trực tiếp vào mạch. Sang ngày thứ tám, dứt cơn sốt, tôi đòi ăn cháo. Mưa đã tạnh. Buổi chiều nắng ấm, tôi chống gậy mò ra cửa ngồi chơi.Rừng đẹp não lòng. Tôi sung sướng vì mình còn sống, bắt đầu thả cơn mơ mộng lãng đãng dọc theo đường quê, từ bờ đê chạy thõng xuống ánh đồng, nghe tiếng chim vịt lưng trời gom nhặt lại những mình thời gian đã mất, uống nước trong với tí tẹo trời lơ khuấy trong đáy cốc... Có thể tôi sẽ mọc lên như nhành mạ sót, lay lắt giữa khí trời thù địch, và những cơn bão rớt nhưng sẽ còn trổ bông?...- Đề nghị thủ trưởng vào lán ngay.Cậu y tá miệng nói, tay lôi tôi vào giường, bắt tôi nằm ngoan dưới tấm chăn. Nhưng, thân thể vừa ấm, tôi lại chìm vào cơn mê buốt lạnh.Tôi thấy Hoa. Cô đang ăn nằm với một gã đàn ông đen sì, dị dạng. Cô kêu ú ớ, mặt tái nhợt như kẻ chết trôi. Gã đàn ông bóp nắn cô với đôi cánh tay gầy, lông lá. Tóc gã dựng đứng. Tấm thân gã cử động khó nhọc và quái dị như con đười ươi. Tôi thấy gã nhìn tôi, nhăn nhở cười, phơi bày cuộc chiến thắng bỉ ổi một cách hể hả...Tim tôi nhói đau vì ước muốn trả thù. Tôi định hét to một tiếng. Nhưng cổ họng tôi bỏng rát. Rồi bỗng dưng tôi tan biến. Tôi thấy một cảm giác tan nhuyễn lạ kỳ khi xương thịt mình hóa thành làn nước, lan qua đồng cỏ, hòa nhập vào dòng sông lặng lờ miền quê cũ...Hôm qua có một tay kẻng trai trên trung đoàn xuống chơi. Ông ta đem theo thư của Lương với một hộp táo tầu và nửa cây thuốc lá. Trên sư đoàn, Lương đã nghe tin tôi bị sốt rét ác tính. Anh không xuống được nên nhờ người chuyển thư và quà. Sứ giả của anh hơn tôi một hàm, hơn mười một tuổi. Rất giỏi tán. Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi tán gẫu.Bất chợt, ông ta khoe bắn một thằng trúng đầu gối trên đường tới đây. Tôi hỏi:- Thám báo hả?Ông ta lắc đầu:- Không, một thằng đào ngũ. Đáng kiếp. Hai phát đạn của tôi trúng hai đầu gối nó. Thế nào nó cũng phải tháo khớp háng. Từ ngày vào lính, chưa bao giờ tôi bắn chính xác như lần này.Tôi hỏi:- Thằng ấy nom thế nào?ông ta kể:- Nghe giọng biết là dân Hà nam. Nó còn nhóc lắm... Chắc bằng tuổi thằng con lớn của tôi. Ngu như bò. Hô dừng lại cứ lao đầu chạy tiếp nên mới chết.Rồi ông ta cười:- Này, cái bật lửa của ông chúa quá. Tụi sĩ quan ngụy cũng khó kiếm thứ hàng cao cấp thế? Kỷ niệm cho tôi nhé?- Sẵn sàng.Tôi ném chiếc bật lửa vào lòng ông ta và nhìn bộ mặt ông ta rạng rỡ lên.Các cán bộ cỡ đại đội trở lên phải dự một cuộc tập huấn. Địa điểm chính xác không biết trước nhưng từng chặng tập kết có giao liên đưa đường.Tôi mới ốm dậy nên đề nghị Thái đi thay nhưng cấp trên không chuẩn y.- Đành vậy. Cậu ở nhà lo cho cơm ngon canh ngọt. Rỗi rảnh thế này, bọn lính dễ đi sục gái. Không cẩn thận lại xảy ra chuyện rầy rà...Trong buổi bàn giao công việc đại đội, tôi bảo Thái như vậy. Cậu ta đần mặt ra hồi lâu mới nói:- Anh đi xa, tôi chống chếnh lắm!Tôi cười:- Cậu phải nghĩ tới lúc tôi tỏi chứ.Thái nói:- Đừng.- Cậu vớ vẩn. Chuyện đó là thường. Riêng trong đơn vị này, nó đã xảy ra với một trăm ba mươi bảy người.Thái lắc đầu:- Nhưng với mười chín người còn lại thì không.- Tại sao?- Tại tôi tin thế. Chẳng lẽ trời không có mắt?- Nếu trời có mắt, con người đã chẳng chém giết nhau!Thái cúi đầu hạ giọng:- Anh Quân này, hết chiến tranh rồi mình sẽ sống ra sao? Nhà tôi chẳng hạn, có mỗi mống em trai thì chết mất, còn lại một đống em gái... Ai sẽ lấy đàn vịt cái ấy?... Rồi suốt ngày chúng sẽ quàng quạc bên tai tôi...- Cậu lo xa quá!... Trước mắt hãy lo cho cứng gân cốt mà đi qua cuộc chiến tranh này.Thái đưa cho tôi gói thuốc Vĩnh bảo của một cậu đồng hương tặng. Thuốc gửi từ miền Bắc vào, qua bao nhiêu ngày đường nên đã mốc. Thái phải rửa sạch, sao lại. Tuy thế, còn hơn hút rễ cây hồng-ma hay lá đu đủ. Tôi đi từ lúc mờ sương, theo đường giao liên tới địa điểm tập kết thứ nhất. Nghỉ ngơi ở đó một đêm, sáng hôm sau, tôi cùng năm chục người được đưa lên một chiếc ô-tô tải xuyên rừng. Xe phủ bạt kín mít. Đi hai ngày một đêm thì tôi điểm tập kết thứ hai.Đấy là một cánh rừng rậm, lán dựng san sát dưới các vòm cây. Khói bếp tập thể luồn qua ống dẫn tới tận khe sâu. Người đi kẻ lại rầm rập, khua bát khua thìa, chuyện trò râm ran...Ở đấy các hội đồng hương tha hồ hoạt động, các cuộc kết nghĩa vườn đào được tổ chức quanh các bếp lửa hoặc ven suối, các buổi biểu diễn văn nghệ tự động liên miên ngày đêm. Giọng ngâm thơ miền Trung lẫn với giọng quan họ xứ Bắc. Toàn bọn đàn ông mà cũng rôm rả lắm trò... Sớm ngày thứ hai, giao liên tới.- Nữ giao liên, anh em ơi...Ai đó hô to. Thế là bỗng dưng, người trong các lán đổ ra và tiếng hoan hô vang dậy trời:- Hoan hô… ô… ô...- Ha …a… a...– Hô… ô… ô...Có nhiều cậu nhẩy cẫng lên. Cả đám người xao động, nháo nhác chạy ngược chạy xuôi. Tôi đứng lẫn trong đám đông, lòng rộn ràng. Mãi mươi phút sau, chúng tôi mới thấy người con gái ấy. "Cũng bỏ công mọi người chờ đón..." Cô xinh xắn, tuy không đẹp. Da trắng xanh, tóc đen, mắt đen, răng khểnh. Cô lại nhỏ bé, có vẻ yếu ớt.Tất cả chúng tôi xô ra, ai cũng cố nói với cô một câu, chạm vào vạt áo đen mềm hay mái tóc xõa ngang lưng. Cô giao liên cười với tất cả, gật đầu chào tất cả bằng thái độ bình tĩnh, nhẫn nại.Chắc chắn cô đã quen với cảnh rồ dại của đám đàn ông bị nhốt lâu trong rừng. Vị nữ thần xinh xắn ấy đưa tới một đoạn thuyền. Chúng tôi theo cô, vượt rừng tới ngọn nguồn một con sông xanh biếc. Mười hai chiếc thuyền, mỗi thuyền chở mười hai người vừa tròn một tiểu đội. Chúng tôi đã được phiên chế rất nhanh trên đường đi. Nữ giao liên đi thuyền đầu tiên, cùng với ban chỉ huy. May sao, tôi không được bầu vào ban chỉ huy ấy. Khi đoàn thuyền bắt đầu xuôi, bóng người con gái đứng nơi mũi thuyền khắc vòi vọi giữa khung trời. Trong chiếc áo bà ba lụa đen mềm mại, trông cô xinh đẹp và mời gọi. Ở những thuyền đi sau, tôi nghe tiếng thở dài. Một giọng:- Làm chỉ huy, sướng thật!Một giọng khác:- Được ngồi thuyền ấy, chỉ ngửi mùi cũng đỡ nhớ!Giọng kia:- Gió ơi, hãy đem mùi thơm của nàng chia đều cho chúng anh.Giọng thứ hai:- Cậu ca cải lương đó à?Giọng đáp lại:- Cải lương gì?... Đúng bỏ mẹ còn làm bộ!...Vài tiếng cười khúc khích. Sau đó là yên lặng. Những gương mặt đờ đẫn.Hai bên bờ, núi rừng xanh thẳm chầm chậm trôi. Tiếng mái chèo khua buồn tẻ. Cứ ba giờ, thay chèo một lần. Người dẫn thuyền chỉ trực tiếp chèo những đoạn lắm ghềnh hoặc nhiều mỏm đá. Chúng tôi tựa vào nhau, ngủ gà gật, khi thời gian trôi cùng với con thuyền, đưa chúng tôi về đồng bằng. Tôi tỉnh ngủ vào lúc trời chiều. Mặt trời ở sau lưng chúng tôi, nơi đuôi thuyền, dập dềnh giữa sóng nước. Trước mặt tôi, ở hai bên bờ, mênh mông cát đỏ...“Xứ Chàm... Mình đã gặp trên đường tới K..." Tôi chợt nhớ tới chàng Vân kiều Te Chiêng. Anh ta đái tồ tồ ngay bên cạnh tôi và tiếng nước tiểu rót trong buổi sáng hôm ấy đã cứu tôi khỏi các ám ảnh... Miền cát đỏ... Tôi ngồi thẳng dậy, sửng sốt nhìn. Các triền cát chạy dọc theo con sông, miên man, với những lượn sóng mờ và các đám cỏ xam xám.Giờ này vào lúc hoàng hôn, màu cát ngả sang tím nhợt như cánh hoa bèo. Giờ này vào lúc hoàng hôn, nó không ám ảnh tôi bởi các bóng ma quá vãng mà trải trước mắt tôi nỗi sầu thảm mênh mông. Miền cát đỏ đã nguội đi hơi nóng mặt trời, ngọn lửa thù hận, các cuồng vọng và những đam mê. Vùng cỏ xám mờ dần trong hơi thở miên man của đất đai, không khắc khoải, không chờ đợi. Tôi nghe tiếng nức nở. Phải chăng ấy là tiếng sóng vỗ lúc chiều hôm?... Một giai điệu u hoài văng vẳng. Đêm đen, với ngọn lửa lập lòe bên chân thành ốc. Ai đó đang ngồi, cái bóng âm thầm, câm nín kề một bên mũi giáo. Ánh lửa soi xanh rờn giọt nước mắt đọng nơi khóe mắt, chưa kịp rơi.- Ai kia?- Ta .- Ông là ai?- Ta là ông tổ bảy đời của con.- Tôi không quen ông.- Phải, con người không thể quen tổ tiên của chính mình.Cái bóng ngẩng lên. Giọt nước mắt lăn khỏi khóe mắt, từ tử bò thành dòng trên gò má. Gương mặt ấy dường như tôi đã gặp đâu đó trong cuộc hành trình của đời mình. Vừa quen, vừa lạ. Nhất là nét cong cuối tràng mày và những nếp nhăn trên trán.Tôi hỏi:- Ông cần gì?- Ta phải gặp con.- Để làm gì vậy?- Con đã dựng ta khỏi mồ, vì lòng hờn oán.- Vâng... Có thể...- Con đã từng tới vùng đất này, đã bị bóng ma Chàm rượt đuổi, đã sợ hãi và nguyền rủa chúng ta.- Phải.- Đừng thế.- Tội ác đó có thật. Dù chôn dưới bảy tầng đất đen, sự thật vẫn là sự thật.- Phải.- Nếu vậy, không còn gì để nói.- Còn...Bóng ma ngẩng lên nhìn tôi. Một cái nhìn đắm đuối. Tôi lạnh toát sống lưng. Tôi không muốn mình bị chinh phục bởi một hồn ma. Nhưng rõ ràng, trong cái nhìn u buồn đau đáu kia, ẩn chứa một tình yêu không cưỡng chế. Bóng ma khẽ nhếch môi cười, hướng đôi mắt xa vắng vào mắt tôi:- Còn một sự thật nữa...Tôi cau có, gằn giọng:- Vậy thì ông nói đi.Bóng ma cười buồn:- Có một con hồ xa vắng, có một dòng sông xa vắng, có cánh rừng xa vắng...Tôi gắt:- Ông nói dài dòng tôi không hiểu?Bóng ma cười hiền:- Rồi con sẽ hiểu... Tít xa kia, nơi phương Bắc... Có một con hồ xanh biếc, có một dòng sông, một cánh rừng và những đồng lúa tốt... ấy là quê hương ta, và quê hương xưa cũ của con. Ông tổ bảy mươi đời của ta đã sinh ra ở đó, đã lấy vợ, đẻ con, gây dựng cơ đồ... Rồi bọn rợ phương Bắc tới cướp đất, chiếm nhà, đánh bạt tổ tiên ta khỏi vùng quê ấy... Tổ tiên của ta phải ra đi...Tôi nói:- Tôi hiểu rồi. Bọn rợ phương Bắc rượt đuổi các ông. Và các ông lại tiến về phương Nam chinh phạt. Một vòng tròn luẩn quẩn của tội ác.Bóng ma nói:- Lịch sử đầy tội ác.Tôi hỏi:- Tại sao các ông không chống lại nó?Bóng ma lắc đầu:- Con người không chống được số phận của mình.Tôi nói:- Chính các ông đã truyền lại cho chúng tôi câu nói:- Số bảy, người ba.Bóng ma cười:- Phải, đấy là điều ta muốn nói.Tôi hỏi:- Tại sao không làm mà lại nói?Bóng ma đáp:- Thời ta sống, người ta đâm chém nhau bằng gươm giáo. Muốn chuyển một bức thư, ngựa chạy cả tuần trăng. Con người bị cắt chia trong các khu vườn tối tăm, man dã. Chúng ta sống giữa u mê như bầy thú mù lòa, chúng ta không thể vượt qua những lũy tre đầy gai nhọn tìm vùng đất mới.Tôi nói:- Các ông để lại cho chúng tôi một chiếc túi rỗng.Bóng ma đáp:- CóTôi hỏi:- Cái gì?Bóng ma bảo:- Những khải hoàn môn.Tôi cười sằng sặc:- Khải hoàn môn của chúng tôi bây giờ còn to hơn.Bóng ma nói:- Kiêu ngạo là thói thường của lũ trẻ đầu xanh... Con hãy nhìn ta xem: ta không có giày, có mũ, có súng. Chân ta đi đất, vai ta đeo ruột tượng đựng lương khô - Lương khô ấy là bắp rang trong nồi đất. Cây giáo của ta rèn trong bếp lửa làng quê... Chúng ta trần trụi. Và chúng ta đã dựng cho các con những khải hoàn môn bằng xương máu của chính mình.Tôi nói:- Cóc cần những khải hoàn môn của các ông... Cóc cần cả ông nữa... Sao ông cứ ám tôi?... Tôi chán lắm rồi...Bóng ma đáp:- Con là giọt máu của ta. Dù luân lạc qua bao đời, nó vẫn là của ta... Đừng cáu bẩn... Đừng bội bạc... Trước kia khi đã từng oán hận tổ tiên như vậy... Nhưng con ơi, chúng ta không lựa chọn được lịch sử cho mình...Tôi thấy ngột ngạt. Dường như tôi sắp khóc. Tôi hét lên:- Tôi cóc cần!Bóng ma vẫn nhìn tôi, không nổi giận, không an ủi:- Người ta không nên bước vào đời với một cái đãy rỗng không. Nhưng cũng chẳng nên thò tay bốc gạo trong đãy ăn mà không nghĩ cách cắt lụa may một chiếc đãy mới. Kẻ không có gia tài đáng tủi nhục còn kẻ không tạo được gia tài cho con cháu thì cần khinh bỉ.Tôi nhìn chăm chăm vào đôi mắt xa vời của hồn ma, hoang mang:- Ông định nói gì?... ông còn muốn gì ở chúng tôi?Bóng ma nói:- Chúng ta đã để lại cho con những khải hoàn môn. Sao các con không dựng lấy những khải hoàn môn của chính mình?...Tôi nghĩ "A... thật hàm hồ... cái ông cụ ông kị này... Chẳng lẽ ông ấy không thấy chúng tôi đang làm gì hay sao?... Chẳng lẽ ông không thấy bao nhiêu lớp người đã ra đi, và đã gục xuống, và đã hát khúc khải hoàn... Tất cả đang tiến về phía cái nửa vòng tròn huyền diệu của chân trời tương lai?" Nhưng lưỡi tôi bỗng cứng ngắc, không thốt lên lời .Bóng ma nhìn tôi giờ lâu, âu yếm, thắm thiết. Một cái nhìn vừa khoan dung vừa trông đợi. Một ánh mắt đau đáu, vượt qua thăm thẳm thời gian, vượt qua mọi cách biệt thế hệ, vượt qua các triều đại và các nền văn minh... Đôi bàn chân lấm đất, bên trên quấn xà cạp. Bộ áo quần bằng vải thô dơ dáy. Một mũi giáo và cái ruột tượng đựng ngô rang... ôi những con người đã dựng lên các khải hoàn môn... Tổ tiên đau khổ của tôi...- Này, lại ngủ hả?...Tôi giật mình quay lại: Không phải ngọn lửa chập chờn bên chân thành cổ mà là bộ mặt tí tởn của anh chàng ở B9 mới ra. Anh ta cười:- Nghĩ gì mà ngồi ngây như tượng?... Nhìn kia kìa...Anh ta chỉ cho tôi. Trên chiếc thuyền chỉ huy, cô giao liên đang ngủ, tựa đầu vào vai một tay trung tá. Ông này vừa thích vừa sợ xung quanh di nghị nên ngồi cứng ngắc như tượng, mắt nhìn về phía trước.Anh chàng ngồi bên cười toe toét, bảo tôi:- Đằng ấy muốn được thay vị trí không?Tôi đáp cộc lốc:- Không!Anh ta nhăn mũi:- Sĩ diện!Tôi lặng im không tranh cãi.Mặt trời chìm xuống nước, chỉ còn nhô lên cái mí đỏ như vành móng tay. Ánh dương rực rỡ hắt lên mặt sông.Phía trước, những giải mây xám đang chập chờn trên bờ cỏ. Các triền cát ngả sang màu tím thẫm. Đấy là màu của buổi chiều hoang vắng xưa, khi tiếng tiêu cô độc lướt qua bãi chiến trường ngổn ngang những thây người cùng thây ngựa...
Subscribe to:
Posts (Atom)